20 bài hát Cơ đốc giáo đương đại hàng đầu năm 2022
Show Lịch Sử Hội Thánh I.THỜI KỲ CÁC SỨ-ĐỒ (Năm 30 Đến 100 Tây Lịch) II.XÁC NHẬN VÀ BẢO VỆ NIỀM TIN(Năm 100 Đến 300) III. HỘI THÁNH THẮNG LỢI ( Năm 300 Đến 500) V. CÁC H.T. CHÍNH THỐNG MIỀN ĐÔNG (Năm 1054 Đến 1980) VI. THỜI KỲ CẢI CHÁNH ( Năm 1500 Đến 1600) VII. CƠ-ĐỐC GIÁO HIỆN ĐẠI MỘT SỐ NIÊN ĐẠI CẦN NHỚ MỘT SỐ DANH XƯNG TRONG Hoàng Đế (Emperor) Constantine Sắc lệnh Milan 313 Martin Luther (Năm
30 đến 100 Tây Lịch) Khi bóng tối bao phủ mịt mù trên thành Giê-ru-sa-lem chiều thứ sáu ấy, sau khi Chúa Giê-xu đã chịu hình trên đồi sọ, thì sứ mạng của Ngài dường như đã kết thúc trong thất bại hoàn toàn. Những nhà cầm quyền thời bấy giờ nghĩ rằng đem xử tử Ngài như một tội nhân tầm thường là đủ phá tan uy tín của phong trào do Ngài khởi xướng và chấm dứt được ngay tình trạng sôi động trong dân chúng. Đang khi thi thể Ngài được đặt suốt
ngày Sa Bát trong ngôi mộ vốn dành cho người khác thì những môn đồ Ngài tê bại vì xúc động và th ất vọng, thương khóc Ngài, người mà họ đã ‘trông mong chắc sẽ cứu lấy dân Y-sơ-ra-ên’ (Lu-ca 24:21). Khi họ nhớ lại cơn cuồng nộ của đám dân hò hét ‘Hãy đóng đinh nó’, ‘ Hãy đóng đinh nó’, các bằng hữu cũng như các người đã theo Ngài vẫn còn run sợ. Nhiều ngày sau có lẽ họ sẽ chỉ dám gặp nhau trong những căn phòng đóng cửa cài then thật kỹ. Sách Tân ước ghi lại rằng sau khi Chúa Christ Phục Sinh, Ngài ở lại với nhóm môn đồ ít ỏi của Ngài, và dạy cho họ hiểu những phương diện sâu sắc hơn trong niềm tin của họ và mô tả cho họ thấy trước được hình thái phát triển tương lai của Cơ-Đốc Giáo. Có người nói :’Cơ-Đốc Giáo đã được sinh thành với quyển Kinh Thánh trong nôi’. Trong thời gian Ngài phục vụ, Chúa Giê-xu đã thường lấy lời Đức Chúa Trời làm nền móng cho sự
dạy dỗ của Ngài. Ngài trích dẫn những lời ấy và Ngài giải thích. Theo Phúc Am Lu-ca, Chúa Christ sau khi Phục Sinh đã giải thích lại Kinh Thánh cho môn đồ qua ánh sáng của sự Phục Sinh của Ngài và Ngài ‘mở trí cho môn đồ được hiểu Kinh Thánh’ (Lu-ca 24:45). Những lời giải thích của Ngài thật bao quát vì ‘Ngài bắt đầu từ Môi se, rồi kế đến mới đến các đấng tiên tri mà cắt nghĩa cho hai người đó những lời chỉ về Ngài trong câu Kinh Thánh’ (Lu-ca 24:27). MỘT NIỀM TIN KHÁC THƯỜNG XUẤT HIỆN Đông đảo người Do Thái gia nhập phong trào mới, tự nhiên họ như bị thu hút bởitính cách sáng tạo tâm linh và tinh thần nhân đạo
trong đó. Họ xúc động khi nghe Phúc Âm do các Sứ Đồ giảng và họ tin chắc rằng trong Chúa Cứu Thế, sự khải thị của Đức Chúa Trời cho dân Ysơraên đã vượt đến tột đỉnh. Nhưng có một số người Do Thái không muốn nhận Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a (Messiah) là Chúa vì họ sợ rằng cách dạy dỗ mới mẻ này sẽ phá đổ thay vì làm cho trọn vẹn niềm tin cũ của họ. Không bao lâu sau đó, lòng sợ hãi ấy đã dồn cả vào Ê-tiên, là một tín đồ Do Thái, giỏi tiếng Hy Lạp. VIỆC VIẾT THÀNH SÁCH TÂN ƯỚC Ngày nay người ta được biết rõ về công việc viết sách Tân ước hơn là so với thời xưa, tuy nhiên vẫn còn nhiều điểm không chắc chắn lắm và nhiều tháng năm vẫn còn nghi vấn. Nhưng các học giả phần đông đồng ý một
điều: lá thư thứ nhất của Phao-lô gửi người Tê-sa-lô-ni-ca, viết từ thành Cô-rinh-tô vào khoảng năm 50 sau Chúa là bản văn Tân ước lâu đời nhất thuộc Tân ước, còn giữ nguyên được bản chính. Thư đó và những thư Phao-lô viết tiếp theo sau đã khởi đầu sự hình thành sách Tân ước. Phao-lô và những Hội Thánh nhận thư tín của ông cũng chưa ai coi những lời truyền thông ấy là kinh điển, vậy mà khi mọi người nhận biết đó là những lời phát biểu chính thức của niềm tin Cơ-Đốc thì những tài liệu ấy trở
thành kinh điển, họ biết những lời đó được Đức Chúa Trời soi dẫn. CƠ-ĐỐC GIÁO DO THÁI Trong khi Cơ-Đốc Giáo phát triển trong vòng dân ngoại và cho ra những tài liệu căn bản, thì nhóm Cơ-Đốc Do Thái đem sứ mạng của Chúa Giê-xu đến với dân họ là dân Y-sơ-ra-ên. Trong khoảng 20 năm, Sứ Đồ Gia-cơ, em Chúa Giê-xu, chủ tọa Hội Thánh gốc tại Giê-ru-sa-lem là một nhánh riêng thuộc Do Thái Giáo. Trong khoảng thời gian có nhiều bạo động tôn giáo vì lòng cuồng tín nổ ra trước chiến tranh Do Thái – La Mã, cộng đồng Cơ-Đốc phải lánh nạn qua sông Giô-đanh, tại thành Pella
của dân ngoại, một thành phố trong vùng Đê-ca-bô-lơ (Decapolis), nơi đây những tín đồ đã tránh được nạn tàn phá Giê-ru-sa-lem bởi tay người La Mã vào năm 70. TÌNH TRẠNG THẾ GIỚI KHI CƠ-ĐỐC GIÁO XUẤT HIỆN Bấy giờ Đế quốc La Mã có uy quyền nhất. Với quân lực mạnh và chính trị xảo quyệt. Đế quốc La Mã tuy gọi là hợp nhất nhiều dân tộc khác nhau, nhưng vẫn phải chấp nhận tình trạng không thuần nhất trong các dân tộc khác nhau nên đã nới rộng cho họ một phạm vi đáng kể để họ thực hiện những phong tục ngôn ngữ, tôn giáo của riêng họ, Dầu vậy, luật
La Mã áp dụng cho toàn đế quốc vì thế nên Phao-lô là người gốc Do Thái có quốc tịch La Mã vẫn có quyền chống án tại tòa án cấp tỉnh ở Xê-xa-rê lên tòa thượng thẩm tại La Mã. Tàu bè di chuyển trong biển Địa Trung Hải có những đường riêng được bảo vệ, hệ thống đường bộ cũng rất tốt giúp cho sự giao thông trong toàn đế quốc . Khởi đầu những đường này chỉ có mục đích quân sự và kinh tế để di chuyển quân đội và trao đổi hàng hóa, nhưng sau đã đem lại ích lợi nhiều trong việc truyền bá Cơ-Đốc
Giáo. NHỮNG ĐỤNG ĐỘ BAN ĐẦU VỚI TÀ GIÁO Vì Cơ-Đốc Giáo có sinh lực, lại được người ta ưa thích càng ngày càng đông, nên đã thu hút một số lớn những người Cơ-Đốc ‘giả hiệu’. Sách Công Vụ có nói đến một đám nhố nhăng, ngay thời kỳ mới mẻ đó, đã có mưu đồ lợi dụng niềm tin mới như vợ chồng A-na-nia và Sa-phi-ra, thuật sĩ Si-môn (sau này có từ ngữ ‘Simony’ nghĩa là nghề phù phép nhảm nhí), Ê-ly-ma, một thuật sĩ khác ở đảo Chip-rơ ; các thầy bói tại Phi-líp, rồi
đến các con trai của Sê-va đi rong làm nghề đuổi quỷ. Những người bạn giả của Cơ-Đốc Giáo này dễ nhận ra nên không gây tai hại bao nhiêu. Những phái tà giáo bóp méo Phúc Âm theo những ý riêng lạ lùng của họ còn tai hại hơn. Vì cộng đồng Cơ-Đốc đón tiếp bất cứ ai đến, cung hiến tự do cho những ai đã gia nhập, gây nên bầu không khí thích hợp cho những tư tưởng và giáo thuyết khác nhau. Những tư tưởng và giáo thuyết này làm sinh động Hội Thánh, và giúp mọi người hiểu Phúc âm sâu sắc hơn. Tuy nhiên
một số lý thuyết quá cực đoan đã gây ra nhiều vụ tranh cãi có thể làm thiệt hại cho niềm tin Cơ-Đốc. Tân ước có 5 thư tín viết trong khoảng những năm từ 80 đến 150 (Hê-bơ-rơ, I và II Phi-e-rơ, Gia-cơ, Giu-đe) đã phản ảnh những cuộc tranh cãi nói trên. KINH THÁNH CƠ-ĐỐC XUẤT HIỆN Ngay từ đầu, Hội Thánh tôn trọng bản Septuagint là bản sách Cựu ước viết bằng tiếng Hy Lạp và coi đó là Kinh Thánh. Các Sứ Đồ, giáo sĩ luôn luôn trích dẫn trong đó và đọc từng đoạn trong giờ thờ phượng. Không lâu
sau đó người ta đọc nhưng bản văn Cơ-Đốc đầu tiên, kể cả những thư tín của Phao-lô (IIPhi 2Pr 3:15-16) và các sách Phúc Âm, thêm bào bản văn Sueptuagint. Ong Justin Martyr, viết sách Biện luận (Apogoy) tại La Mã vào năm 150, bắt đầu trích đọc sách Tin Lành, sau đó trích đọc Cựu ước như sau : Còn một số sách Phúc Am khác có nhiều điểm còn phải hoài nghi (Apocryphal) được viết ra từ năm 170. Hồi đó ông Tatian là một Cơ-Đốc nhân người Syria, sưu tầm viết một sách Tin Lành để dùng trong công việc rao truyền danh Chúa trong vùng Đông Bắc Syria thuộc Vương quốc Edessa. Ông trích và chắp nối những đoạn lấy từ 4 sách Tin Lành chính thức ra làm thành một câu chuyện liên tiếp về đời sống Chúa Giê-xu. Người ta đặt tên
sách này là Diatessaron , nghĩa là ‘4 tin lành làm một’ nhưng cũng có tên chế riễu là ‘Tin Lành keo kéo’ (kéo cắt, keo dán). Có lẽ lúc đầu sách dùng bằng tiếng Syria, sau đó người cũng dịch ra thành tiếng Hy Lạp. Sự kiện ông Tatian đã loại bỏ những sách Phúc âm có điểm hoài nghi mà chỉ dùng 4 sách Phúc âm sau này được công nhận là chính thức để tra cứu, chứng minh rằng trước đầu thế kỷ thứ ba bốn sách Phúc âm nói trên đã có giá trị nổi bật và được kể là đáng tin cậy, có uy tín nhất. May thay,
không mấy người theo phương pháp của Tatian để hòa hợp 4 sách Tin Lành. Vì vậy mỗi sách vẫn giữ được sắc thái riêng biệt duy nhất không bị mất nét đặc thù như số phận những tài liệu ban đầu mà những nhà sưu tầm Cựu ước đã ghi chép lại biết bao nhiêu lần, từ Sáng Thế Ký cho đến Phục Truyền. HỘI THÁNH SAU CƠN BẮT BỚ Trong thế kỷ thứ nhất, tuy còn
ít người biết và yếu đuối, lâu lâu cũng có các sự bắt bớ do những chống nghịch địa phương, nhưng Hội Thánh cứ được phát triển trong yên lặng. Như chúng ta đã biết, nào là một đám đông Do Thái đã ném đá Ê-tiên, Sau-lơ làm khó cho những môn đồ của Chúa. Vua Ac-ríp-ba (Agrippa) chém đầu Sứ Đồ Gia-cơ, bắt giam Phi-e-rơ và Phao-lô cũng thường bị tầm nã và giam cầm. Hoàng Đế Nero giết nhiều người Cơ-Đốc La mã, có lẽ kể cả Phi-e-rơ và Phao-lô, việc đó không hẳn là chính sách của đế quốc, mà chỉ là một
âm mưu đổ lỗi cho họ đã gây ra cơn hỏa hoạn khốc liệt của thành La Mã khiến cho các Sứ Đồ và tín hữu biến thành kẻ ‘đưa đầu chịu báng’. NHỮNG GIÁO PHỤ CỦA HỘI THÁNH Đang lúc Hội Thánh chống cự với các tà giáo, và tìm cách đứng vững trước cơn bắt bớ, Hội Thánh đã đào tạo ra một số người thánh thiện viết sách. Những sách này làm thành nền văn chương Cơ-Đốc trong những thế kỷ sau thời kỳ các Sứ Đồ. Những Giám Mục, thần học gia, giáo sư, các học giả này có trí thức cao, phán đoán giỏi lại thông thuộc kinh điển. Họ đưọc gọi là những Giáo Phụ của Hội Thánh và sự dạy dỗ của họ được coi là có uy tín về đức tin cũng như về đời sống thực
tế. Sách của họ cho chúng ta biết nhiều điều vô giá về truyền thống và niềm tin Cơ-Đốc, về lịch sử Hội Thánh và về truyền thống và niềm tin Cơ-Đốc, về lịch sử Hội Thánh và sự hình thành Tân ước. Sách của họ trích nhiều từ các bản Tân ước đầu tiên cho nên giúp rất nhiều cho các học giả sau này trong việc nghiên cứu bản văn Tân ước. Những sách của họ viết có thể đến hàng chục cuốn. Các văn bản của các Giáo Phụ một số được liệt kê dưới đây : 1. ‘Bức thư của Barnabas ‘ : do một giáo sư vô danh viết khoảng các năm 78 – 120. Nội dung sách luận rằng Co Đốc Giáo siêu việt hơn Do Thái giáo và khuyên dạy về đạo đức. 7. Sách ‘Lời dạy của 12 Sứ Đồ ‘ giảng về đức tin Cơ-Đốc, sự thờ phượng và hầu việc, viết vào năm 90. Dưới đây là danh sách 6 vị Giáo Phụ Hội Thánh danh tiếng nhất trong thế kỷ thứ 2 và thứ 3: 1. Justin Martyr (100-165) sinh tại Shechem xứ Samaria xưa, sau trở thành một triết gia
Hy Lạp. Đang khi ông nghiên cứu triết học Plato, ông bắt đầu chú ý đến các tiên tri Do Thái và ‘những người đã làm bạn hữu của Chúa Christ’ và tin rằng những lời giảng của họ về ‘ban đầu và cuối cùng của mọi sự’ là thật. Ông thành tâm tin rằng Cơ-Đốc là triết học xưa nhất, chân thực nhất và cao siêu nhất. Khi ông du hành đây đó giảng dạy, ông choàng bộ áo triết gia là dấu hiệu về nghề nghiệp ông. Ông thành lập một trường học tại Lã Mã ở đó ông diễn thuyết về đức tin và đạo đức và ông giảng dạy
kinh sách. Một trong những học trò của ông là Tatian, sau CƠ-ĐỐC GIÁO TRỞ THÀNH TÔN GIÁO CỦA ĐẾ QUỐC LA MÃ Đầu thế kỷ thứ 4, mặc dầu bị bắt bớ, Cơ-Đốc Giáo đã trở thành một lực lượng sống động trong Đế Quốc. Lúc đầu nó chỉ thu hút được những người
nghèo và thiếu học đến khi phẩm hạnh của các đời sống Cơ-Đốc trở nên rõ rệt, thì những người học rộng, trí thức cao bắt đầu giải nghĩa Phúc Âm cho những kẻ đương thời, và những giai cấp cao như là gia đình thượng thư, các sĩ quan trong quân lực, các bậc tỉnh trưởng, và những người thân quyến của Hoàng Đế đều đến tiếp nhận niềm tin mới. Những cộng đồng Cơ-Đốc đã được thiết lập tại các thành phố lớn quanh Địa Trung Hải càng ngày càng thu hút nhiều người và người ta thành lập đưọc nhiều Hội Thánh
cả đến những nơi xa của đế quốc. Tác giả Edwyn Bevan viết trong sách ‘Cơ-Đốc Giáo’ như sau: TÍN ĐIỀU VÀ KINH THÁNH Trong những thế kỷ đầu tiên, vấn đề khẩn cấp nhất đối với Hội Thánh là làm thế nào để tồn tại, nhưng khi chính quyền đã chấp nhận Cơ-Đốc Giáo làm quốc giáo thì một mối lo mới xuất hiện : làm thế nào
đương đầu với các đạo giáo khác. Các học giả về tư tưởng Hy Lạp cố gắng tìm hiểu huyền nhiệm của Đấng Christ và ý nghĩa của tín điều đầu tiên thời các Sứ Đồ : Tín điều đó xác nhận ‘Giê-xu là Chúa’ (1 Cô-rinh-tô 12:3) và đã đưa ra một số giáo thuyết mới. Tín điều nói trên đã khởi phát tại La Mã trong thế kỷ thứ 2, sau này gọi là Tín Điều các Sứ Đồ. Tín Điều này dùng để đánh đổ tà giáo trí thức luận. Dầu vậy, đến thế kỷ thứ tư có một Linh Mục cao tuổi tên là Arius, có lòng tin kính và rất được
kính trọng như một nhà truyền giáo có học thức rộng đã đưa ra một chủ thuyết mà mọi người gọi là Arianism. Tại hội thánh Alexandria, ông giảng rằng Chúa Christ là một người được Thượng Đế tạo dựng nên, thì phải lệ thuộc dưới quyền Đức Chúa Trời là Cha, vì Chúa Giê-xu không hoàn toàn là Đức Chúa Trời, và cũng không hoàn toàn là người. Vị trưởng lão ở Alexandria đã lên án ông Arius và những người theo sự giảng dạy sai lạc đó của Arius. Nhiều nhà thần học Hy Lạp thấy chủ thuyết của Arius làm yếu đi
đức tin Cơ-Đốc vì nếu Chúa Christ chỉ có nửa thần tánh, thì khác gì các thần ngoại đạo đâu? HỘI THÁNH VÀ SỰ THỜ PHƯỢNG Khi Cơ-Đốc Giáo trở thành quốc giáo, người ta thấy rõ rệt sự thay đổi trong các nơi thờ phượng. Thời kỳ Các Sứ Đồ, người ta nhóm thờ phượng tại các nhà riêng (Cô-lô-se 4:15) hoặc các nhà nguyện nhỏ không ai chú ý đến trong những năm bị bắt bớ. Nay người ta dần dần xây cất những nhà thờ nguy nga to lớn, thường được Hoàng Gia bảo trợ. Những nhà thờ lớn ấy trang bị đón tiếp từng đoàn người ngoại đến xin chịu phép Báp Têm hoặc để nghe những giảng sư có tài.
Những nhà thờ lớn này cũng có thêm nghi lễ trang nghiêm hơn và theo những hình thức cố định. Năm 323, Hoàng Đế Constantine xây đền Chúa Cứu Thế tại La Mã, tại nơi hiện này là nhà thờ St. John Lateran. Nhờ thờ này được cất kề bên lâu đài của Hoàng Đế Plantius Lateranus, lâu đài này được để lại cho Giáo Hoàng Sylvester I, và trở thành nhà thờ La Mã, mang tên là ‘Mẹ và đầu của Hội Thánh tại La Mã và thế giới’. (Urbis et Orbis). Các kiến trúc sư La Mã đã xây cất trên nền đền cũ, trước kia dự tính
làm toà án La Mã và phòng hội của Hoàng Gia. Hoàng Đế Constantine trang trí nhà thờ này bằng những hình bông hoa, nhã bát, những bình cắm nến bằng vàng và bạc. NHỮNG GIẢNG SƯ VÀ NGƯỜI LÃNH ĐẠO NỔI DANH Trong thời kỳ từ cuối thế kỷ thứ 4 đến giữa thế kỷ thứ 5, có nhiều giảng sư có tài tại các thành phố. Những bài giảng của họ là phần quan trọng trong các buổi lễ ngày Chúa Nhật.
Thường thường vị Giám Mục là giảng sư. Ông ta giải nghĩa Kinh Thánh và dạy dỗ, áp dụng vào đời sống hằng ngày những gì học được. Thường lệ hội chúng vỗ tay khi được nghe những đoạn thích thú. Có ba vị giảng sư nổi danh thời đó là ba Giám Mục: Ông John Chrysostom ở Hội Thánh miền Đông và các ông Ambrose và Augustine ở Hội Thánh miền Tây. THỂ CHẾ TU VIỆN LÚC BAN ĐẦU Khi Cơ-Đốc Giáo được nhà nưóc công nhận ở thế kỷ thứ
4 thì các tu viện mọc ra nhanh và nhiều. Hồi đó, dân ngoại đổ xô đến các nhà thờ và Hội Thánh trở nên càng ngày càng dính líu với những việc thế gian. Phần nào vì muốn phản ứng lại những khuynh hướng thế gian ấy, hơn nữa từ thoạt đầu người tín đồ đã từ khước những giá trị vật chất để tìm kiếm những phần thưởng thuộc linh, nên có nhiều người đàn ông và đàn bà dâng đời sống của họ cho Đức Chúa Trời qua lối sống tin kính và khổ hạnh. HỘI THÁNH BÀNH TRƯỚNG Từ ban đầu Hội Thánh đã vâng lệnh Chúa Christ đi rao Tin Lành ‘cho đến cùng trái đất’ (Công-vụ 1:8). Trước khi Hoàng Đế Constantine ban sắc lệnh Milan, những nhà truyền giáo
Cơ-Đốc cũng đã đặt chân lên hầu hết Đế Quốc La Mã và còn đi xa hơn nữa. Như ta đã biết, vào cuối thế kỷ thứ hai Tin Lành đã được giảng cho Anh Quốc khi còn là thuộc địa La Mã. Người tử đạo đầu tiên tại Anh là Alban, ông tử đạo trong thời kỳ Hoàng đế Diocletian hành hại tín đồ. Năm 314 có 3 Giám Mục người Anh đến dự hội nghị ở Arles (Pháp). (Năm 500 Đến 1500) Đến thế kỷ thứ sáu, thế giới cổ xưa đã đạt một cao độ
trật tự và nếp sống văn minh, nhưng sau đó thì mất năng lực sáng tạo và bắt đầu tan rã. Những dân tộc man rợ xung quanh liên tiếp tấn công bờ cõi đế quốc, La Mã tuy có quân đội đồn trú cẩn mật nhưng cũng không chống lại được từng đợt xâm lăng tiến xuống Tây và Nam vượt qua sông Danube, sông Rhine, và Bắc Hải, rồi chèo thuyền theo giòng sông vào tận miền quê không phòng thủ. CHẾ ĐỘ TU VIỆN Sau khi đế quốc La Mã sụp đổ thì lối sống tu viện xuất hiện từ thế kỷ thứ ba và thứ tư đã ăn sâu vào đức tin cá nhân và sự hết lòng hết ý hầu việc Chúa Christ này trở thành sức mạnh của Hội thánh. Thoạt đầu, nếp sống lý tưởng trong tu viện cốt dành cho những người đơn độc, nhưng về sau nó cũng ảnh hưởng đến lối sống của các người ngoại. Tu viện có
thể là nơi ẩn náu cho những ai muốn lánh khỏi những cơn rối loạn chính trị và xã hôi thời trung cổ. Không những thế, tu viện còn là nơi học hỏi, huấn luyện những thầy tu đi rao truyền Phúc Âm cho các dân man rợ. Có nhiều dòng tu cổ võ việc lao động tay chân, vả lại phần lớn các dòng tu phải tự túc nên họ huấn luyện cả nghề trồng trọt cày cấy để sinh hoa lợi mà sống. Các thầy tu dọn cỏ, dẫn nước vào những mảnh đất của họ, trồng hoa màu, chia khu trồng cây ăn trái vườn nho, nuôi bò, cừu, gà và lập
những trang tại kiểu mẫu, và do đó lao động được đề cao. Họ cũng tiếp tục làm tròn trách nhiệm quản trị thiên n hiên theo lối dạy trong đoạn một sách Sáng Thế Ký. Một số người nam và nữ có trình độ khá nhất đã gia nhập các tu viện. Họ cầu nguyện, thờ phượng và giữ niềm tin sống động. Họ giúp đỡ người nghèo, người bệnh và người đói. Vì họ có tài nghiên cứu nên lo việc dạy học và giáo dục, và vì họ tin vào một thế giới trật tự do Đức Chúa Trời cai trị, Ngài là Đấng đáng tin cậy và không lầm lẫn
nên họ đặt được nền móng cho khoa học hữu lý phát triển. Thế giới bấy giờ, chính trị rối ren ‘như tơ vò’, loạn lạc kh ông ngừng gây nhiều khốn khó, những học giả chỉ có cách ẩn vào tu viện mới được yên ổn và có thì giờ nghiên cứu viết lách. Ơ trong đó ít nhiều không bị xâm phạm quấy rối, người ta chép kinh điển và những sách t hánh khác, các nghệ sĩ sáng tạo những trang trí chữ, họa phẩm kiến trúc, điêu khắc phẩm, âm nhạc, thêu, làm đồ kim khí, thủy tinh, thảy đều phục vụ cho Cơ-Đốc Giáo và vinh
quang Đức Chúa Trời. HỌC THUẬT VÀ TRIẾT LÝ CƠ-ĐỐC THỜI TRUNG CỔ Hệ thống tư tưởng phát sinh từ các trường học đầu tiên tổ chức trong các tu viện và nhà thờ, hoạt động trí thức đưọc thức tỉnh sau nhiều thế kỷ mê man, thụ động. Đó là hệ thống tư tưởng Cơ-Đốc trong thời Trung Cổ. Hệ thống này căn cứ trên uy quyền Kinh Thánh, các Giáo phụ và cả Aristotle nữa. Hệ thống này khởi thủy từ
Anselm, Viện trưởng tu viện ở Bec, sau làm Tổng Giám mục tại Canterbury vào năm 1093. Ông đưa ra ý kiến nói rằng vì trí óc con người có thể quan niệm về một Thượng Đế hoàn hảo, chẳng có ai hơn, vậy thì chính đó là bằng chứng thật có một Đức Chúa Trời. Khẩu hiệu của Anselm là Fides Quaerens Intelligentiam’ nghĩa là ‘Niềm tin tìm thông hiểu’ nói lên điều mà các học giả tin quyết, ấy là lẽ phải và luân lý có thể giúp hiểu sâu hơn và làm sáng tỏ niềm tin và các giáo thuyết của Hội Thánh. CHẾ ĐỘ GIÁO HOÀNG Chế độ Giáo Hoàng từ thời Trung Cổ đã phát triển thành một trong những cơ cấu đặc sắc nhất. Lúc ban đầu, các Giám Mục và Linh Mục đều được gọi là ‘pope’ từ từ ngữ La Tinh ‘Papa’ (cha). Nhưng từ thế kỷ thứ 6 danh hiệu ‘Pope’ đã chỉ dành cho Giám Mục La Mã. Phải đến thế kỷ thứ 9, Gregory VII mới ra lệnh rõ ràng là từ đây chỉ Giám Mục đương nhiệm tại La Mã mới được gọi là Giáo Hoàng thôi. CÁC CUỘC THÁNH CHIẾN Ngay từ trước khi Hoàng đế Constantine xây cất nhà thờ tại ‘Mộ Thánh’ vào thế kỷ thứ tư, thành Giê-ru-sa-lem đã là nơi chiêm bái của vô số người hành hương. Đến thời Trung Cổ, thành này lại càng quan trọng hơn vì tín đồ Cơ-Đốc rất tôn trọng các cuộc hành hương cũng như các thánh tích. Ngay cả sau khi quân Hồi Giáo đã chiếm Giê-ru-sa-lem khỏi tay Đế quốc Byzantine vào năm
638, những đoàn hành hương vẫn tiếp tục không bị trở ngại vì người Ả Rập cũng đồng tâm với người Cơ-Đốc tôn kính những nơi có liên hệ đến đời sống của Chúa Cứu Thế. Dầu vậy, khi quân Thổ Nhĩ Kỳ (Seljuk Turk) chiếm Giê-ru-sa-lem vào thế kỷ 11, chúng làm khó cho các đoàn hành hương và phá phách nhà thờ “Mộ Thánh”. Những khiêu KINH THÁNH Thế kỷ thứ sáu, mở đầu thời Trung Cổ, Giáo hoàng Gregory the Great tuyên bố Kinh Thánh là nguồn cốt yếu của mọi kiến thức tôn giáo. Ong tin rằng Kinh Thánh được linh cảm thiên thượng và có ý nghĩa thuộc linh hàm súc. Nhưng ông khuyên người đọc nên tìm hiểu nghĩa lịch sử của Kinh Thánh trước khi đi sâu vào sứ điệp kín dấu trong những trang sách này. Ông nói : ‘Muốn hiểu Kinh Thánh thì phải ưa thích đọc Kinh Thánh
và làm theo sự dạy dỗ của Kinh Thánh’. Ông còn viết ‘Chúng ta sẽ nghe được lời Chúa nếu chúng ta làm theo lời ấy’. ‘Trong suốt cả quyển Kinh Thánh, Đức Chúa Trời chỉ nói với chúng ta nhằm mục đích ấy mà thôi, để đưa chúng ta đến chỗ yêu mến Ngài và yêu thương đồng loại.’ (Năm 1054 đến 1980) Đang khi mọi diễn tiến thời Trung Cổ xảy ra ở Tây Au thì
tại miền Đông xảy ra một diễn biến khác. Các Hội Thánh bắt đầu từ các thế kỷ đầu tiên trên lý thuyết kể như là hợp nhất. Trong phạm vi nội bộ này, Đại hội đồng Chalcedon lần thứ 4, họp năm 451 chỉ công nhận năm vị nắm chủ quyền cho năm vùng chính. Mỗi vùng có một Giáo Trưởng, Giáo trưởng là một Giám Mục có quyền trên các Giám Mục khác. Năm Giáo trưởng nói trên là những vị lãnh đạo ở La Mã, Constantinople, ĐẾ QUỐC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ HỘI THÁNH Ở phương Tây trong những năm thời Trung Cổ đầy khó khăn và đầy biến cố, thì kinh đô Constantinople vẫn là nơi tàng trữ chủ yếu của văn hóa Hy Lạp và La Mã đồng thời cũng là trung tâm của một nền văn minh tiến bộ và cầu kỳ nhất trên thế giới. Thành phố này có ba vòng tường thành phòng thủ kiên cố, chiếm được cũng khó, nên đã trở thành lớn rộng và thịnh vượng nhất Au Châu. Những công viên, những đường phố, những cung điện lâu đài chứa đầy kho tàng văn chương, nghệ thuật. Những nhà thờ nổi tiếng nhất là nhà thờ Hagia Sophia khiến cho du khách Anh, Do Thái, Ả rập, Goth và Norsemen trầm trồ ca ngợi. Có những sứ thần Nga đến từ Kiev vào thế kỷ thứ 10 được thấy nhà thờ Hagia Sophia, về viết như sau : ‘Chúng tôi chỉ biết có Đức Chúa Trời ở giữa loài người và lễ của họ trang mỹ hơn mọi lễ ở các nước khác, vì chúng tôi không thể quên được vẻ tráng lệ ấy’ Hoàng đế Justinian (527 – 565) đã thành công trong viêc cầm đầu Hội Thánh Phương Đông hơn cả các Hoàng Đế trước, Hội Thánh trở nên giống như một ‘bộ trong guồng máy Quốc Gia!” Vì được coi như đại diện Chúa Christ trên đất, Hoàng Đế cũng là người quản trị Hội Thánh và người đứng ra triệu tập các hội đồng Cơ-Đốc. Những uy quyền chính trị, những hiểu làm ganh tỵ, lại thêm những quan niệm khác nhau về nhân vị Chúa Christ luôn luôn làm đầu mối xung đột giữa Giáo Phụ, Hội Thánh vì cớ đó trở nên yếu dần. NHỮNG THÀNH QUẢ VÀ THẤT BẠI CỦA MIỀN ĐÔNG Nestorius là một Linh Mục ở Syria, nổi tiếng là sống thanh đạm khắc khổ và có tài hùng biện. Ông trở thành Giáo Phụ Constantinople năm 428. Hồi đó những người tin kính gọi Mary Mẹ Chúa Giê-xu là ‘Mẹ Đức Chúa Trời’. Nestorius khi giảng
chống lại cách gọi như thế vì nó làm cho sự phân biệt nhân tính và thần tính của Chúa Christ không được rõ ràng. Do đó có một cuộc tranh cãi thần học cam go về việc định nghĩa chính xác nhân vị của Chúa Christ. Và ông Cyril, Giáo phụ tại Alexandria, nắm lấy cơ hội để làm mất mặt một Giáo Phụ trổi hơn bèn lên án Nestorius là muốn tách đôi nhân vị của Chúa Christ. Tuy thế, Nestorius chỉ có nói : ‘Khi nói danh Đấng Christ, chúng ta đồng thời hàm ý hai bản chất’. Dầu vậy, lòng ganh tỵ, hiếu danh, óc
bè đảng đã thổi phồng sự ‘khác biệt’ giữa hai chủ thuyết của Hai Giáo Phụ đến nỗi kéo luôn cả hai Hoàng Đế Đông và Tây vào sự chia rẽ. Thế là sự hợp nhất của Cơ-Đốc Giáo không còn nữa. Hội đồng Ê-phê-sô năm 431 lên án và cất chức Nestorius mà không cho ông phần trần, ông bèn rút về tu viện cũ của ông tại An-ti-ốt, nhưng rồi cũng bị Hoàng Đế lưu đày sang xứ Arabia. Sau đó Hội Thánh Đông Phương dưới quyền của Hoàng Gia, làm khó cho những người theo Nestorius khiến cho họ phải trốn sang Ba Tư, ở
đây họ thành lập những Hội Thánh Nestorian rất mạnh mẽ. HỘI THÁNH CHÍNH THỐNG ĐÔNG PHƯƠNG NGÀY NAY Sau khi Đế quốc Byzantine bị sụp đổ năm 1553, Hội Thánh miền Đông bước vào 5 thế kỷ liên tiếp thay đổi, nhưng vẫn cố níu lấy lề lối thờ phượng và niềm tin riêng của mình. Ở Phương Đông giáo điều không quan trọng bằng kinh nghiệm tôn giáo. Người ta nhận được kinh nghiệm này khi thờ phượng, vì lòng tôn thờ mà được tiếp xúc một cách thần bí với Đức Chúa Trời. Những bài tín điều đọc lên không phải là những tuyên ngôn của đức tin mà là những hành động thờ phượng. Đến
thế kỷ 13, lễ nghi Byzantine đã được phát triển ở Constantinople, và trở thành lề lối chung cho các Hội Thánh Chính Thống và người ta dịch lời Hy Lạp ra mọi ngôn ngữ để dùng trong các Hội Thánh khác nhau. Đến lúc các Hội Thánh tự trị của từng quốc gia xuất hiện thì cộng đồng Hội Thánh Chính Thống Đông Phương thành hình. Họ có được sự hiệp nhất trong chủ thuyết là vì tất cả đều thừa nhận các quyết định của 7 Giáo hội Nghị họp trong khoảng thời gian từ năm 325 đến năm 787 (462 năm) Mặc dầu ngày
nay cộng đồng này tự coi như là thừa kế đích thực của Hội Thánh Cơ-Đốc đầu tiên, họ cũng tạo được tình thân hữu với các khối Cơ-Đốc khác và nhiều Hội Thánh miền Đông là thành viên của Hội Đồng các Hội Thánh Hoàn Cầu (World Council of Church). Hội Thánh miền Đông gồm có 4 giáo phận dưói sự trông coi của Thượng Giáo Phụ Constantinople, Alexandria, An-ti-ốt, (Năm 1500 Đến 1600) Chúng ta thấy
Cơ-Đốc Giáo đã lan tràn khắp Châu Au vào thời Trung Cổ. Hội Thánh tiến vào lấp chỗ trống tâm linh do sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã gây nên và nhận lãnh trách nhiệm đem nhân loại đến văn minh. Giáo lý Cơ-Đốc đặt ra các tiêu chuẩn hạnh kiểm giảng dạy thanh bần và bình an. Cơ-Đốc Giáo gây một niềm hy vọng vượt lên trên mọi hoàng cảnh để nâng đỡ những kẻ tầm thường. Nhờ Cơ-Đốc Giáo các tài năng và những kiến thức của Hy Lạp và La Mã được bảo tồn. Cơ-Đốc Giáo khai hóa dân man rợ và đón tiếp họ vào đại
gia đình. Sau hết, Hội Thánh đã lập nên một sự thống nhất mới, bao gồm cả Au Châu, tại miền Tây, Giám Mục La Mã, tức là Giáo Hoàng đứng trên hết kể cả luật pháp và xét xử. Mặc dầu vẫn còn chống đối song ông vẫn duyệt y kết quả sự bầu cử của các Giám Mục khác, kiểm soát giới tu sĩ và các tu viện, phái đại diện đến các triều đình, và trên uy quyền trần tục ông vẫn đứng trên các Hoàng Đế, các vua và các bậc cầm quyền khác. Dùng thế lực tài chánh, ông định tầm quan trọng của các giáo hạt, giáo phẩm,
định lệ phí cho một số dịch vụ và thu từ mỗi gia đình Cơ-Đốc một số tiền nhỏ hằng năm gọi là ‘đồng xu Phi-e-rơ’. Bởi ông có quyền dứt phép thông công, không những chỉ cho một cá nhân, và có khi cả một nước, được nhận bí tích và sự thông công với Hội Thánh, cho nên ông có quyền lớn. Ông tuyên bố Giáo Hội là cơ cấu duy nhất khả dĩ đi giảng lời dạy dỗ của Chúa Giê-xu Christ và cứu các linh hồn cho được sự sống đời đời. Ngoài Hội Thánh, không ai có thể được cứu. Bởi vậy, thời Trung Cổ, đời sống của
mọi người nam, nữ hay thiếu niên đều ở dưới quyền Hội Thánh. Tuy nhiên, các thương gia, hoặc thợ chuyên môn không biết Chúa, và các hội đồng hoàng gia chống đối quyền của giới tu sĩ, và luật đạo. DESIDERIUS ERASMUS (1466 – 1536) MARTIN LUTHER (1483 – 1546) JOHN CALVIN (1509 – 1564) HỘI THÁNH ANH QUỐC VÀ VUA HENRY VIII (1509 – 1547) HAI TRIỀU ĐẠI EDWARD VI VÀ MARY ( 1547-1558) CÔNG
CUỘC HÒA GIẢI CỦA NỮ HOÀNG ELIZABETH CUỘC CẢI CÁCH TRONG HỘI THÁNH CÔNG GIÁO LA MÃ Ngay cả trước khi phong trào Cải Chánh bắt đầu, đã có nhiều người trong Hội Thánh Công Giáo muốn có một công cuộc cải cách. Một thế hệ trước Erasmus, Nữ hoàng xứ Castile là Isabella, cùng trị vì với chồng là Ferdinand, vua nước Tây Ban Nha thống nhất, hai người đã cố gắng tìm cách cải tổ Hội Thánh. Là một phụ nữ tin kính trí thức cao và có đức tin mạnh, bà Isabella cắt đặt những
người đức độ, có lòng tin kính vào những chức vụ cao trong Hội Thánh Tây Ban Nha. Bà sốt sắng đến nỗi đã tìm cách diệt trừ tà giáo và đuổi người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha. Bà là mẹ của Catherine, vợ thứ nhất của Vua Henry VIII, và ai nấy đều biết bà đã đem nữ trang của bà ra cầm để có tiền giúp đỡ chuyến đi Columbus tìm ra Tân Thế Giới. Khi Giáo Hoàng Paul III được bầu vào năm 1534, thì phong trào Cải Chánh đã gây tai hại nhiều cho uy tín Hội Thánh Công giáo. Người ta bắt đầu tìm cách chữa chạy. Giáo Hoàng mới viết một thư cho Erasmus nhờ ông giúp đỡ giải quyết những trận xâu xé gây chia rẽ trong Hội Thánh, nhưng Erasmus đã cao tuổi, lại ốm yếu
nên không làm gì được. Bấy giờ việc đầu tiên Giáo Hoàng làm là đòi hỏi chính sách lựa chọn người để giao phó trách nhiệm, từ nay sẽ căn cứ trên lòng hăng say phục vụ và học thức chứ không căn cứ trên dòng dõi gia đình hay tài sản nữa. Vì Bên Tân thế Giới, họ truyền giáo cho những bộ lạc Huron và Iroquois ở Bắc Mỹ. Một giáo sĩ Jesuit là Jacques Marquette đã tìm ra sống Mississipi, tại Nam Mỹ họ làm việc giữa những thổ dân Brazil và Paraguay. Cho đến nay Dòng Jesuit là dòng lớn nhất trong Hội Thánh Công Giáo La Mã, nhờ công khó của họ nên Hội Thánh đã phấn hưng và trở thành một lực lượng thuộc linh lớn mạnh. TÌNH HÌNH SAU CUỘC CẢI CHÁNH Sau cuộc cải chánh, bản đồ Cơ-Đốc Giáo thay đổi tòan diện. Mặc dầu vẫn còn sự phân cách giữa các Hội Thánh chính thống miền Đông và Hội Thánh Công Giáo miền Tây, nhưng tại phương Tây còn có những chia rẽ mới. Như chúng ta đã thấy, sự hiệp một của Hội Thánh Công Giáo thời Trung Cổ không còn nữa khi Au
Châu theo Tin Lành và Anh quốc theo Anh giáo. Tô Cách Lan, các nước Bắc Au, Phần Lan, Estomia, Latvia, những xứ thuộc miền Bắc nước Đức, những quận thuộc miền Tây Thụy Sĩ, Cộng Hòa Hòa Lan đều rút khỏi thế lực của Giáo Hội Công Giáo La Mã để thành lập các Giáo Hội Tin Lành quốc gia. Giáo Hội La Mã còn tồn tại ở Ý, Tây Ban Nha, Ba Lan, Bohemia, Hung, Bồ Đào Nha, Pháp, Nam Hòa Lan, Nam Đức, tại Pháp và Ai Nhĩ Lan, nhưng ảnh hưởng Giáo Hội Công Giáo ở những nơi khác đã sụt đến tối thiểu. Tuy nhiên,
nói chung tình hình tại Tây Au như đã mô tả trên đây tương đối được vững an từ 1600 đến nay. Ta cũng đã thấy, nhờ có phong trào cải cách mà Hội Thánh Công Giáo La Mã đã trổi dậy mạnh mẽ hơn và sốt sắng hơn để hồi sinh Cơ-Đốc Giáo. Các tệ đoan phổ thông nhất đã được bài trừ, cương vị thần học được Giáo hội ấn định rõ ràng, những dòng tu mới phục vụ dân chúng một cách thiết thực hơn nhờ đáp ứng nhu cầu tâm linh của họ, vì vậy Hội Thánh Công Giáo La Mã bước vào thời đại mới một cách vững chắc. Tại
những nước chịu ảnh hưởng Tin Lành, đời sống thuộc linh của nhiều người được thức tỉnh. Nhiều người đọc Kinh Thánh, lòng tin kính nẩy nở, người ta biết quan tâm đến đồng loại và lo về sự cứu rỗi của linh hồn họ. Nhưng Tin lành cũng bị yếu vì chia rẽ. Ngoài những hệ thống Lutheran, Cải Cách (Calvinitic) và Hội thánh Anh (Anglican), lại còn có những phong trào độc lập khác, nhỏ hơn khiến cho các cơ cấu Tin Lành lớn cũng gặp khó khăn t rong lý thuyết và thực hành. CƠ-ĐỐC GIÁO VÀ MỸ CHÂU Trưóc hết Cơ-Đốc Giáo đến Tân Thế Giới vào thế kỷ 16 do những người Tây ban Nha đi chinh phục Trung Mỹ và Nam Mỹ Châu. Theo đó có rất nhièu giáo sĩ Franciscan, Dominican và Jesuit đến thành lập những hệ thống truyền giáo để kêu gọi dân địa phương. Năm 1551 và 1553 những
giáo sĩ này mở hai trường lớn nhất tại Tân Thế Giới : Đại học San Marcos thành phố Lima, thuộc Peru và Đại học Mexico. CỘNG ĐỒNG CƠ-ĐỐC NGÀY NAY Giữa những biến đổi của thế kỷ 19 và 20, Cơ-Đốc Giáo phát triển nhanh tuy phải đương đầu với sự thách đố của các triết lý quá thiên về vật chất và về đời sống hiện tại. Nhiều phong trào truyền giáo đã được tung ra để rao truyền sứ điệp của Chúa đến mọi nơi trên thế giới. Cơ-Đốc Giáo đã thành lập được nhiều Hội Thánh then chốt mới, đã dịch Kinh Thánh ra gần
2000 thứ tiếng và thổ ngữ, đã nghiên cứu lại những tín điều căn bản, đã nhìn sâu hơn vào lời Chúa dã làm cho lễ thờ phượng phong phú hơn, đã cố gắng sửa sai và đi tiên phong trong nhiều dịch vụ nhân đạo. Vô số các thành tựu khác nhau đó của cộng đồng Cơ Đốc là do lòng hiến dâng và sự hi sinh không hề ngưng cuả vô vàn Cơ-Đốc Nhân. Câu chuyện Cơ-Đốc Giáo vẫn ‘mạnh tiến qua giông tố; trongnhững năm này, là câu chuyện của nhiều dân tộc trong nhiều quốc gia, hẳn bao nhiêu pho sách cũng còn chưa đủ
chép. Ở cấp bậc cao hơn, phong trào Cơ-Đốc nói
chung đã tới một khúc quanh khi 150 tổ chức Tin Lành, Anh giáo, Và Chính thống từ 44 nước đã họp tại Amsterdam năm 1948 để chính thức thành lập Hội Đồng Các Hội Thánh thế giới (World Council of Churches). Ba mươi năm sau số hội viên gia nhập đã gia tăng lên đến hơn 200. Hội thánh Công Giáo La Mã đã bắt đầu nối liên lạc với các Hội Thánh khác sau khi Hội Đồng Vatican II (1962 – 1965) ban hành sắc lệnh khuyến khích người Công Giáo cộng tác với những ‘Hội thánh và cộng đồng phân cách’ đứng ngoài
Hội Thánh La Mã’. Giáo hoàng John 23 (1958 – 1963) tuy chỉ giữ chức vụ có 5 năm nhưng đã mở lòng nghênh đón những Hôi Thánh Chính Thống Miền Đông từ lâu đời phân cách. Giáo Hoàng John nhớ đến chuyện Giô sép và những người anh đã trở nên xa lạ của Giô sép, đón chào vị thủ lãnh của Hội Thánh chính thống Hy Lạp bằng mấy tiếng đầy ý nghĩa ‘Tôi là John, người em của các anh’. Chuyển ngữ Các bài hát AC số 1 của Christian Music 1978-2012 ebook! Kiểm tra 100 bản hit Christian hàng đầu năm 2016 !! Kiểm tra 100 bản hit Christian hàng đầu năm 2015 !! Kiểm tra 100 bản hit Christian hàng đầu năm 2014 !! Kiểm tra Topchristianhits.org trên YouTube! Kiểm tra JQ99 Kiểm tra 94,9 klty Cuộc khảo sát của Christian Hits 1970! Top 40 tháng 10 28, 2022
Tw LW Tiêu đề Họa sĩ Amazon 1 1 Sự tốt lành Tobymac feat. Phước lành Mua 2 2 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 3 4 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 4 3 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 5 5 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 6 6 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 7 7 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 8 8 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 9 10 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 10 12 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 11 11 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 12 13 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 13 9 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 14 16 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 15 20 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 16 15 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 17 14 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 18 22 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 19 18 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 20 29 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 21 27 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 22 25 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 23 24 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 24 19 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 25 21 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 26 31 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 27 28 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 28 23 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 29 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Hoàn toàn được yêu thích 30 34 Rachel Lampa Bắt đầu Mua 31 30 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 32 35 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 33 32 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 34 26 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 35 37 Xây dựng một chiếc thuyền CAIN Mua 36 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Hoàn toàn được yêu thích 37 33 Rachel Lampa Bắt đầu Mua 38 40 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 39 38 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Mua 40 Xây dựng một chiếc thuyền Colton Dixon Hoàn toàn được yêu thích Mua Xây dựng một chiếc thuyềnRankings are based on a comprehensive calculation using information obtained from various Christian airplay charts. Formats included are AC and CHR . Copyright © 2022 TopChristianHits.org Những bài hát Christian hàng đầu hiện nay là gì?Những bài hát Kitô giáo hay nhất của ngày hôm nay.. Nước thánh. Chúng tôi là vương quốc. Chúng tôi là vương quốc. .... Người chết đi bộ. Trại Jeremy. Trại Jeremy. .... Chiến đấu cho tôi. Riley Clemmons. Riley Clemmons. .... Chưa nhìn thấy nó. Danny Gokey. Danny Gokey. .... Giải thoát. Lauren Daigle. Lauren Daigle. .... Cạnh ghế của tôi. Tobymac. Tobymac. .... Tên của bạn là sức mạnh. Kết xuất tập thể. .... Tốt hơn. Pat Barrett .. Bài hát Kitô giáo đáng khích lệ nhất là gì?25 bài hát Kitô giáo để khuyến khích và sức mạnh.. 1 vai - cho vua & quốc gia .. 2 Có Chúa Giêsu - Zach Williams, Dolly Parton .. 3 Bất cứ điều gì có thể đến - Trại Adrienne, trại Jeremy .. 4 Trận chiến thuộc về - Phil Wickham .. 5 cách Waker - Leeland .. 6 Thần của tất cả các ngày của tôi - casting vương miện .. Bài hát Kitô giáo số một của mọi thời đại là gì?Đây là bốn bài hát thờ phượng hàng đầu được nghe nhiều nhất mọi thời đại: Thần của chúng tôi tuyệt vời như thế nào của Chris Tomlin: 74.000.000+ vở kịch và 6,8 triệu bản được bán.Grace Amazing Grace (chuỗi của tôi đã biến mất) bởi Chris Tomlin: hơn 66.000.000 vở kịch và 7,2 triệu bản được bán.How Great is Our God” by Chris Tomlin: 74,000,000+ plays and 6.8 million records sold. “Amazing Grace (My Chains are Gone)” by Chris Tomlin: 66,000,000+ plays and 7.2 million records sold.
Những bài hát phúc âm nào đang có xu hướng?2021 Top 50 bài hát phúc âm.. Quá chung thủy.Moses Bliss .. Hosanna.Steve Crown .. Tình yêu của bạn ft. Tope alabi.Steve Crown .. Chúa trung thành (sống) onos .. Chăm sóc.Moses Bliss .. Baba ese ft. Dàn hợp xướng khối Yoruba.Mike Abdul .. Người giữ giao ước.David G .. Ekundayo.Yinka Ayefele .. |