Ca sĩ lê anh đương nào lê thiên thai là ai?

Đọc các bài cùng chuỗi, xin click vào đây.

Chào các bạn,

Hôm nay mình giới thiệu đến các bạn thi khúc “Đường Lên Thiên Thai” của Thi sĩ Hồ Đình PhươngNhạc sĩ Hoàng Nguyên.

Thi sĩ Hồ Đình Phương [1927 – 1979] là người đã viết lời cho nhiều nhạc phẩm tại Miền Nam Việt Nam trước 1975.

Ông sinh ngày 1 tháng 3 năm 1927 tại Huế, chánh quán tại Phước Tích, tỉnh Thừa Thiên. Thân sinh ông là cụ Hồ Văn Huân, làm quan dưới triều nhà Nguyễn. Mẹ ông họ Võ, mất sớm lúc ông còn nhỏ. Sau khi đất Việt Nam chia cắt bởi hiệp định Genève, gia đình phân tán, ông ở lại một mình tại Huế với một phần gia đình hai bên nội ngoại.

Thời niên thiếu, ông học tại trường Pellerin, Hồng Đức… Đỗ Tú Tài Pháp, từng làm Giám Đốc Hành Chánh Bệnh Viện Huế. Trong thời gian này ông viết nhiều thơ, sách và nhiều bài đăng báo. Có lẽ vì xúc động trước cảnh đất nước tang thương cùng nỗi đau của gia đình ông đã viết rất nhiều thơ, nhạc bộc lộ tình yêu, sự đau khổ của quê hương và mơ ngày thanh bình…

Năm 1955, ông đem cả vợ con vào Nam để đi học. Ông đã đậu Thủ khoa tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh, Sài Gòn năm 1958. Là một nhà thơ nên những lời viết cho các bản nhạc của ông rất nhẹ nhàng, chan chứa tình yêu và đầy ý nghĩa nên rất được mọi người ái mộ.

Trước năm 1975, Hồ Đình Phương đã cộng tác với các báo chí tập san: Tin Mới, Người Mới, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phụ Nữ, Công Lý, Dân Đen, Hòa Bình, Tiếng Chuông, Ánh Sáng, Quần Chúng, Đời Mới, Tân Học, Thẩm Mỹ, Mùa Gặt Mới,Tin Điển, Dân Thanh, Thế Giới, Dân Mới, Gió Lên, Nghệ Thuật, Văn Nghệ Tiền Phong với tên thật hoặc với bút hiệu như Nhật Hồ hay Phương Nhật Hồ.

Sau khi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh ông được bổ nhiệm làm Giám Đốc Thuế Vụ – Thuế Trực Thâu và Gián Thâu tại tỉnh Long An. Khoảng năm 1960 ông giữ chức vụ Phó Tỉnh Trưởng Hành Chánh tỉnh Ninh Thuận.

Sau biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963, ông dạy trường Đại Học Thương Mại Đà Lạt một thời gian, sau làm Giám Đốc Công Ty Kỹ Nghệ Giấy Đồng Nai ở tỉnh Biên Hòa.

Sau tháng 4 năm 1975, ông phải đi học tập cải tạo khoảng hơn hai năm. Sau khi được thả về, tháng 11 năm 1979 ông cùng hiền thê Trần Thị Ngọc Oanh và bốn người con vượt biển bằng ghe và mất tích. Hiện còn hai người con gái của Hồ Đình Phương vẫn còn sống.

Thi sĩ Hồ Đình Phương đã viết lời cho nhiều bài hát nổi tiếng trước 1975 cũng như có nhiều nhạc sĩ phổ theo các tác phẩm thơ của ông. Ông đã sáng tác với tất cả tâm hồn của một người nghệ sĩ để ca tụng quê hương, cái đẹp thuần tuý của tình người sâu sắc, đầy xúc cảm còn lưu lại đến hôm nay.

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên.

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên [1932 – 1973] là một nhạc sĩ tên tuổi, và là tác giả của các ca khúc nổi danh “Ai Lên Xứ Hoa Đào”, “Cho Người Tình Lỡ”,…

Ông tên thật là Cao Cự Phúc, sinh ngày 3 tháng 1 năm 1932 tại Quảng Trị. Lúc nhỏ ông theo học trường Quốc Học Huế. Đầu thập niên 1950, ông có tham gia kháng chiến nhưng rồi từ bỏ quay về thành phố.

Lên ở Đà Lạt, Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu số 4 Đà Lạt, do Thượng tọa Thích Thiện Tấn làm Hiệu trưởng. Thầy giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục. Trong ở đó, ông là thầy giáo dạy nhạc cho Nguyễn Ánh 9, người sau này trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng đồng thời là nhạc công chơi đàn dương cầm.

Năm 1956, trong một đợt lùng bắt ở Đà Lạt, do trong nhà có cả bản “Tiến Quân Ca” của nhạc sĩ Văn Cao, người mà Hoàng Nguyên rất ái mộ, Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957.

“… Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho ái nữ ông, tên H. năm đó khoảng 19 tuổi… Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở.

Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so le bị phát giác. Để giữ thể thống cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín chuyện nầy và chỉ bảo riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của hai người với điều kiện vận động cho người nhạc sĩ được trả tự do…” [trích Lâm Tường Dũ – Tình Sử Nhạc Khúc].

NS Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, tiếp tục sáng tác và dạy học ở trường tư thục Quốc Anh. Năm 1961, ông theo học tại Đại Học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh văn. Trong thời gian theo học đại học, ông có quen biết với ông Phạm Ngọc Thìn, thị trưởng thành phố Phan Thiết. Bà Phạm Ngọc Thìn là nữ diễn viên Huỳnh Khanh, mến mộ tài năng của Hoàng Nguyên đã nhận ông làm em nuôi. Hoàng Nguyên dạy kèm cho Ngọc Thuận, con gái ông bà Phạm Ngọc Thìn. Hai người yêu nhau và Hoàng Nguyên trở thành con rể ông bà Phạm Ngọc Thìn. Trước đó Hoàng Nguyên có ý định quay lại với cô gái ở Côn Sơn, nhưng cô đã đi lấy chồng. Ca khúc “Thuở Ấy Yêu Nhau” ra đời trong khoảng thời gian này.

Ngày 21 tháng 8 năm 1973 ở Vũng Tàu, Hoàng Nguyên mất do một tai nạn xe hơi.

Thi phẩm “Đường Nào Lên Thiên Thai” [Thi sĩ Hồ Đình Phương]

Ngồi bên anh em hỏi: Đường nào lên Thiên Thai

Đường nào lên Thiên Thai?

Anh ngập ngừng không nói Mà e ấp thở dài

– Tìm đâu được Thiên Thai…

Em tiếp lời nũng nịu Truyện Lưu, Nguyễn còn đời

Hãy tìm dấu chân ai…

Để nghe quần tiên hát Để ngắm hoa đào cười

Cho thắm mộng tương-lai…

Anh nguẩy mình gắt gỏng: Làm sao có Thiên Thai

Khi máu đỏ còn rơi

Loài người còn giết chóc Gươm súng gây trận đài

Hận thù còn chưa nguôi…!

Em không buồn hỏi nữa Ngã đầu vào tay anh

Mắt rớm lệ long lanh…

– Ôi mắt bồ câu đẹp Màu xanh như Thiên Thai

Kìa đường lên Thiên Thai!

Hãy nhìn anh giây lát Cho anh tìm Thiên Thai

Cho anh lạc vào tim ai…

Thuyền neo bến mộng đợi người
Thương nhau, cả một cuộc đời lên hương…

Thi khúc “Đường Lên Thiên Thai” [Nhạc sĩ Hoàng Nguyên]

Cầm tay em anh hỏi Đường nào lên Thiên Thai, Đường nào lên Thiên Thai, Đường nào lên Thiên Thai? Nơi hoa xuân không hề tàn, Nơi bướm xuân không hề nhạt,

Nơi tình xuân không úa màu bao giờ.

Ngày xưa sao Lưu Nguyễn, Gặp đường lên Thiên Thai, Nhạc vàng ai mê say, Rượu Đào ai ngây ngây Suối Ngọc reo dưới bước chân đi, Tiếng Nhạc tiên quyến luyến xiêm y,

Ôi làm sao lạc vào được Thiên Thai.

Anh nào biết đường lên Thiên Thai, Khi trời đất còn vương thương đau,

Khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu

Anh nào biết đường lên Thiên Thai, Khi lòng còn như băng buốt giá

Và tình còn e ấp, nói không thành lời

Nhưng rồi nhìn trong đôi mắt đẹp, Lòng chợt vui như say; Kìa đường lên Thiên Thai, Kìa đường lên Thiên Thai Ấy đường qua ngõ mắt thơ ngây, Tiếng nhạc êm lẫn tiếng thơ say,

Đưa hồn anh lạc vào tận tim ai.

Dưới đây mình có các bài:

– Hoàng Nguyên, Dòng Nhạc Yêu Thương, Dòng Đời Ngang Trái
– Truyện ca của chúng ta

Cùng với 0 clips tổng hợp thi khúc “Đường Lên Thiên Thai” do các ca sĩ xưa và nay diễn xướng để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.

Mời các bạn,

Túy Phượng

[Theo Wikipedia]

Hoàng Nguyên, Dòng Nhạc Yêu Thương, Dòng Đời Ngang Trái

[Vương Trùng Dương]

Đà Lạt mệnh danh thành phố ngàn hoa, nơi đó, có nhiều loài hoa chỉ thích hợp với khí hậu lành lạnh cao nguyên. Giữa khung trời ngàn hoa, có loài hoa được viết thành ca khúc – Hoa Anh Đào – trở thành hình ảnh quen thuộc, tiêu biểu, gợi tình, gợi nhớ cho phố núi mù sương, thơ mộng được vang vọng cho cả bốn mùa nhờ dòng nhạc của nhạc sĩ Hoàng Nguyên.

Nói đến Hoàng Nguyên, mọi người đều liên tưởng đến hai nhạc phẩm một thời yêu thương, vang bóng: Ai Lên Xứ Hoa Đào & Bài Thơ Hoa Đào. Và, ngược lại, nói đến Đà Lạt cùng Hoa Anh Đào, chúng ta gợi nhớ Hoàng Nguyên.

Lãng đãng, mờ ảo với khói sương, với màu hoa, với mây trời… giữa chốn trần tục được thăng hoa qua lời ca tiếng nhạc, như lạc bước vào chốn bồng lai.

Ai Lên Xứ Hoa Đào, bắt gặp hình ảnh:

“Ai lên xứ Hoa Đào, dừng chân bước lần theo đường hoa. Hoa bay đến muôn người, ngại ngần rồi hoa theo chân ai, Đường trần nhìn hoa bướm rồi lòng trần mơ bướm hoa, Lâng lâng trong sương khói rồi bàng hoàng theo khói sương,

Lạc dần vào quên lãng rồi đường hoa, lặng bước trong lãng quên…”

Với tâm hồn lữ khách mộng mơ, trữ tình… ru hồn vào cõi mộng cùng bóng dáng giai nhân như tơ vương mây trời giăng mắc trong Bài Thơ Hoa Đào:

“Ngày nào dừng chân phiêu lãng, khách tới đây khi hoa đào vương lối đi. Màu hoa in dáng trời, tình hoa lưu luyến người, Bồi hồi lòng lữ khách thấy cơi vơi… …Giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần Tóc mây buông lơi tha thiết bên hồ.

Đợi tình quân đến trong giấc mơ…”.

Chàng lữ khách đó sinh trưởng và lớn lên ở Quảng Trị và Huế. Cũng như nhiều chàng trai trẻ khác, trót nghe theo “tiếng gọi” tham gia kháng chiến chống Pháp vào đầu thập niên 1950, đụng chạm thực tế phủ phàng, ngán ngẫm, chàng giã từ núi rừng miền Trung, chu du vào thành phố mù sương. Mang tâm hồn nghệ sĩ, Hoàng Nguyên [nhà giáo Cao Cự Phúc] có năng khiếu về hội họa và âm nhạc như Văn Cao. Và, chàng thư sinh đó mang tâm hồn lãng mạn, say mê hình ảnh theo truyền thuyết hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu vào dịp tết Đoan Ngọ lạc chốn thiên thai với thiên nhiên, mây ngàn gió núi, tiếng thông reo, suối gọi như tiếng nhạc quyện hồn cùng hình ảnh tiên nữ, ca khúc Đường Nào Lên Thiên Thai xuất hiện cùng với bước chân lãng du chàng phiêu bạt trong nỗi mê hoặc, trong lời cám dỗ ở tâm hồn nghệ sĩ bởi phù hợp với khung cảnh trữ tình làm thành ca khúc, say đắm khán thính giả thành phố mù sương:

“Cầm tay em, anh hỏi: đường nào lên thiên thai, đường nào lên thiên thai… Nơi hoa xuân không hề tàn Nơi bướm xuân không hề nhạt

Nơi tình xuân không úa màu bao giờ…”

Rồi, nơi đó, tâm trạng, niềm khắc khoải, ưu tư được tỏ bày:

“Anh nào biết đường lên thiên thai! Khi trời đất còn vương thương đau Khi hồn anh chưa biết sẽ về đâu? Anh nào biết đường lên thiên thai Khi lòng còn như băng buốt giá

Và tình còn e ấp nói không nên lời…”

Dáng người dong dỏng cao, mái tóc chải bồng bềnh, nhà giáo, nhạc sĩ bước vào tuổi đôi mươi, tay ôm cây đàn guitare, giọng hát trầm buồn, điểm chút phong trần, lãng tử trông tựa bức tranh The Guitarist của Picasco, trở thành thần tượng cho bao kiều nữ yêu văn nghệ và, vô hình chung gợi lại quá khứ đáng “lưu ý” của chính quyền.

Hoàng Nguyên dạy học tại trường tư thục Tuệ Quang, thuộc chùa Linh Quang, khu số 4 Đà Lạt, Thượng tọa Thích Thiện Tấn [anh ruột thầy Nhất Hạnh] làm Hiệu trưởng. Nhà giáo Cao Cự Phúc dạy Việt văn lớp đệ lục, thầy Nhất Hạnh dạy Việt văn lớp đệ thất. Tên tuổi hai nhà giáo như một hấp lực, lôi cuốn học sinh đến trường Tuệ Quang.

Chẳng được bao lâu, sóng gió cuộc đời nổi dậy, năm 1956, trong một trận lùng bắt ở Đà Lạt, trường Tuệ Quang có nhiều nhà giáo bị bắt như Lý Quốc Việt, giáo sư Toán Lý Hóa, Nguyễn Hữu chỉnh, giáo sư Pháp văn… vì hoạt động đảng phái [Đại Việt] và Cao Cự Phúc vì có tham gia trong phong trào “kháng chiến” chống Pháp. Hoàng Thi Thơ ở Sài Gòn phối hợp cùng Hoàng Nguyên, tổ chức đại nhạc hội tại Đà Lạt. Đêm đó có truyền đơn phản động đã rãi bên ngoài. Trưởng ty Công an Cảnh Sát Phạm Trọng Lý [cha ghẻ nữ ca sĩ được thành danh trong mấy thập niên qua] đã có thành kiến với Hoàng Nguyên, nhân cơ hội nầy, quy kết đầu mối có bàn tay của “đối tượng” nên đem nhân viên công lực đến nhà khám xét. Chẳng may, bắt gặp được nhiều bản nhạc tiền chiến, có cả bản “Tiến Quân Ca” của Văn Cao, nhạc phẩm đó Hoàng Nguyên rất ái mộ. Văn Cao đã nổi danh với ca khúc Thiên Thai. Dưới mắt quan chức thẩm quyền, đứng đầu là Trung tá Tỉnh trưởng, nhạc phẩm Đường Nào Lên Thiên Thai có phần ủy mị, yếm thế, ru ngủ tuổi trẻ và ông cho rằng, người sáng tác nhạc phẩm nầy mơ về một thiên đường không tưởng, vẫn còn đi theo con đường của văn nghệ sĩ bên kia vỹ tuyến… Hoàng Nguyên bị bắt và đày ra Côn Đảo khoảng năm 1957.

“… Ở Côn Sơn, thiên tình sử của người nghệ sĩ Hoàng Nguyên mở đầu với cảnh tình éo le và tan tác. Là một tài hoa đa dạng, người tù Hoàng Nguyên được vị Chỉ Huy Trưởng đảo Côn Sơn mến chuộng nên đã đưa chàng ta về tư thất dạy Nhạc và Việt văn cho ái nữ ông, tên H. năm đó khoảng 19 tuổi… Mối tình hai người nhóm lên vũ bảo. Trăng ngàn sóng biển đã là môi trường cho tình yêu ngang trái nầy nẩy nở.

Chợt khi người con gái của Chúa Đảo mang thai. Mối tình hai nhịp so le bị phát giác. Để giữ thể thống cho gia đình. Vị Chúa Đảo giữ kín chuyện nầy và chỉ bảo riêng với người gây ra tai họa là nhạc sĩ Hoàng Nguyên: ông ta đòi hỏi Hoàng Nguyên phải hợp thức hóa chuyện lứa đôi của hai người với điều kiện vận động cho người nhạc sĩ được trả tự do…” [Lâm Tường Dũ – Tình Sử Nhạc Khúc].

Đứng trước hoàn cảnh tiến thối lưỡng nan, Hoàng Nguyên phải hứa để đáp ứng điều kiện nhằm gỡ danh dự cho gia đình vị Chúa Đảo.

Hoàng Nguyên được trả tự do, trở về Sài Gòn, lên Đà Lạt thăm lại trường cũ. Dù rất yêu thích thành phố cao nguyên, song cuộc sống không được thoải mái nên chàng về ở Sài Gòn. Tuy đã hứa và “Đây là mối tình lớn của người nghệ sĩ. Nhưng cánh chim bằng yêu chuộng tự do và nghệ thuật, Hoàng Nguyên không dám trở lại hải đảo để làm rễ ở một nơi rất thiếu tình người, quanh năm suốt tháng khô cằn với sinh hoạt hẹp hòi của những người áo xanh… Chàng đành làm cánh chim bay không bao giờ trở lại” [LTD – TSNK]. Mối tình ngang trái nầy thấp thoáng trong tác phẩm “La Chartreuse de Parme” của văn hào Pháp Stendhal, nàng Clélia Conti, con gái trấn thủ ngục thành Parme, đẹp, quyến rũ, ngất ngây bao con tim, cả chàng văn sĩ, định mệnh trớ trêu, chỉ còn lại ảo ảnh, ngang trái và bi thương.

Ở Sài Gòn, Hoàng Nguyên vừa tiếp tục con đường văn nghệ vừa dạy học ở trường tư thục Quốc Anh, vừa tìm cách tiến thân trên con đường học vấn. Năm 1961, Hoàng Nguyên theo học tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn, ban Anh văn. Thời gian theo học đại học, Hoàng Nguyên được sự bảo bọc của Ô.B Phạm Ngọc Thìn, Thị trưởng Phan Thiết, tư thất ở Sài Gòn. Phu nhân Phạm Ngọc Thìn là nữ tài tử Huỳnh Khanh cảm mến tài nghệ và tính tình của Hoàng Nguyên nên nhận làm em nuôi, nhân tiện dạy kèm con gái của ông bà là cô Ngọc Thuận. Ngọc Thuận là một thiếu nữ đài các, tâm hồn lãng mạn, làm thơ, viết văn, viết báo.. dười bút hiệu Trưng Liệt Dung.

Hoàng Nguyên khởi đầu là em nuôi của gia đình Ô.B Phạm Ngọc Thìn để dạy cho ái nữ, dần dà hai tâm hồn thầy trò đa cảm gặp nhau, Hoàng Nguyên yêu đắm đuối cô con gái ông Phạm Ngọc Thìn và cuối cùng trở thành rể của gia đình ân nhân trên. Nhạc khúc Thuở Ấy Yêu Nhau ra đời trong khoảng thời gian nầy:

“Thuở ấy yêu nhau anh làm thơ Thuở ấy yêu nhau em đợi chờ, Dòng nước Hương Giang trôi lặng lờ Chưa biết chi giận hờn và chưa biết sầu mộng mơ… …Và người lên xe hoa Từ giã bến sông dài! Để đến hôm nay tôi ngồi đây Lặng ngắm hoa soan rơi rụng đầy. Người ơi, thơ ngây đã lỡ rồi

Khi ta xa nhau rồi, tôi xin chép lại vần thơ”.

Ca khúc bày tỏ nỗi niềm của chàng nhạc sĩ với người con gái đã có đứa con với chàng ở Côn Sơn, được gia đình đưa về sinh sống bên dòng Hương Giang. Chàng đã bắt được liên lạc với nàng nhưng nàng đã chịu đắng cay với niềm đau phụ tình nên không thể hàn gắn mối tình mang đậm vết thương. Nàng tạo lập cuộc đời mới với người đàn ông khác.

Trở lại Sài Gòn, Hoàng Nguyên nhận Ngọc Thuận làm vợ. Và, chàng dù biết qua bằng hữu về tính “lãng mạn, đa tình” của người vợ nhưng định mệnh mang đến hệ lụy và oan nghiệt trớ trêu với cuộc đời, đành chấp nhận. Thiên tình sử xảy ra giữa chàng nhạc sĩ và nhà báo, Tổng thư ký tờ Kỷ Nguyên Mới, tác giả TSNK và cũng là tác giả tác phẩm bằng xương bằng thịt, nhường tác quyền cho chàng nhạc sĩ trông nom. Và tiếp nối với người tình, chủ nhân “tổ hợp GIÓ”.

Thế nhưng, Ngọc Thuận lại rất ghen tuông. Khi biết được ẩn tình của ca khúc Thuở Ấy Yêu Nhau, nàng đã tức giận, đốt nhiều sáng tác viết tay của Hoàng Nguyên, không muốn người chồng bị cắm sừng còn vướng mắc hình ảnh người tình xưa cũ nào trong cung đàn nét nhạc.

Năm 1965, Hoàng Nguyên bị động viên vào Khóa 19 Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường được thuyên chuyển về Cục Quân Cụ, dưới quyền của Đại tá nhạc sĩ Anh Việt Trần Văn Trọng. Ban nhạc Hương Thời Gian của Anh Việt giao cho Hoàng Nguyên làm trưởng ban, phần kỷ thuật và hòa âm do Nguyễn Hậu [em ruột của Nguyễn Hiền] đảm nhận. Hương Thời Gian xuật hiện trên Truyền thanh & Truyền hình đã thu hút khá đông thính giả mộ điệu.

Thế rồi, “Trong một chuyến công tác bằng xe Jeep ở miền Đông, Hoàng Nguyên qua đời tại dốc 47 Vũng Tàu bằng tai nạn xe hơi năm 1972” [LTD – TSNK]. Hoàng Nguyên vĩnh viễn ra đi vào cõi miên viễn lúc vừa 40, được chôn cất ở nghĩa trang đô thành, để lại vợ và 3 con.

Năm 1973, nhóm thân hữu Hoàng Nguyên gồm nhạc sĩ Nguyễn Hiền, Anh Việt, Lê Trọng Nguyễn, Lan Đài cho xuất bản tuyển tập nhạc của nhóm thân hữu nói trên để phổ biến, lấy tiền xây mộ bia cho Hoàng Nguyên.

Hoàng Nguyên sáng tác rất nhiều nhạc phẩm, đã một thời vang vọng, nét nhạc lời ca nhẹ nhàng, duyên dáng, trử tình, đam mê… vương vấn đau thương.

Nhạc khúc Tà Áo Tím đã làm sống dậy hình ảnh yêu kiều, thướt tha của chốn thần kinh bên dòng sông Hương, núi Ngự:

“Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang Tôi gặp một tà áo tím Nhẹ thấp thoáng trong nắng hương Màu áo tím sao luyến thương Màu áo tím sao vấn vương… …Mặc thời gian dìu đôi cánh biếc Mặc dòng sông dịu nghiêng luyến tiếc Mặc chiều thu buồn như hối tiếc… Tôi mơ màu áo, ước mong sao áo màu khép kín tin nhau… …Người áo tím qua cầu, và áo tím phai mầu

Để dòng Hương Giang hờ hững cuốn nơi nào!”.

Trong ca khúc Cho Người Tình Lỡ, tỏ bày tâm trạng của người nghệ sĩ cho cuộc tình ngang trái, lỡ làng:

“Anh giờ đây như là chim Rã rời cánh, biết bay phương trời nao! Em giờ đây như cành hoa Cho tả tơi đong đưa ngọn gió nào… Thế là hết nước trôi qua cầu Đã chìm sâu những tháng ngày đam mê, Thôi đành quên những thương yêu đầu

Như là yêu, với nay đã quá xa!.”

Niềm cay đắng, bi thương đó, cùng với sự nuối tiếc để trang trải, tha thứ cho nhau, thấp thoáng trong tình khúc Đừng Trách Gì Nhau:

“Ôi! trời làm giông tố, Để người thầm trách người sao hững hờ khôn nguôi. Ôi! nửa đời gió sương Mà còn đắng cay, mà còn chua xót vì nhau…

…Oán trách nhau chi, bơ vơ nhiều rồi, xót xa nhiều rồi”.

Khi khoác áo chiến y, Hoàng Nguyên sáng tác nhiều nhạc phẩm về hình ảnh người chiến sĩ, tình ca Lá Rụng Ven Sông là một trong những bản tango hay nhất vào thập niên 60 & 70:

“Thương ai ngoài sương gió Đời lính chiến gian lao Đêm đêm nhìn tay súng Lòng nghĩ tới mai sau Thương ai vì sông núi Mà khoác áo chinh y Thương ai vẫn thương ai. Thương ai, đã thương ai rồi Dù tháng năm dần trôi Dù lá hoa tàn phai

Lòng nầy vẫn nhớ thương ai…”

Trong chinh chiến, người chiến binh vẫn mang nặng tình cảm chan chứa, lãng mạn giữa cảnh ngăn cách tiền tuyến, hậu phương được gởi gấm trong nhạc phẩm Sao Em Không Đến:

“Đời tôi từ ngày khoác áo chiến binh Lên đường, biết rằng lòng nầy đã bớt vấn vương Chiều nay, lòng chợt thấy nhớ thương em Thương về mái tóc êm đềm

Buông dài phủ kín hồn anh…”

*

Mùa hè 1971, ba tháng quân trường bên cạnh nhạc sĩ Hoàng Nguyên. Cả hai, theo học Khóa III Trung cấp CTCT tại Trường ĐH.CTCT ở Đà Lạt. Anh đảm nhận Ủy viên Văn nghệ, tôi phụ trách Ủy viên Báo chí. Trở lại thành phố mù sương, với anh, được trở về chốn cũ ở thập niên 50, với tôi ở thập niên 60. Cùng chung căn phòng, anh em chúng tôi thường viện cớ công tác sinh hoạt văn nghệ, báo chí nên được cơ may ưu đãi, trốn học để la cà, bát phố. Chúng tôi có bốn người thường ngồi ở Thủy Tạ trên hồ Xuân Hương cho lãng quên đời. Hình ảnh và tên tuổi Hoàng Nguyên rất thân quen với Đà Lạt vì vậy khi anh liên lạc để tổ chức văn nghệ cho khóa, được nhiều bóng hồng đáp ứng. Tính tình, điềm đạm, ít nói, không thích phê phán, chỉ trích người vắng mặt, anh sống nhiều với nội tâm, chỉ lắng nghe, ít đả phá. Khi đề cập đến những khuôn mặt nhạc sĩ bạn như Hoàng Thi Thơ, Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Văn Phụng, Nguyễn Hiền… anh chỉ nhắc đến những bản nhạc hay của họ được nhiều người ưa thích.

Đối diện quân trường có trường nữ Trung học Bùi Thị Xuân, thời gian liên lạc cho chương trình văn nghệ anh có “mối giao cảm” với hai cô giáo, trong đó có Ấu Lăng [em ruột của Bùi Tín]. Điểm hẹn của chúng tôi, thông thường ở Thủy Tạ, khi có chuyện riêng tư tâm tình với nhau, ngồi trong nhà kiếng, bằng hữu ngoài cuộc đọc thơ Vũ Hoàng Chương “lũ chúng tôi lạc loài năm bảy đứa” ngồi ngoài nhìn sương đêm, hồ nước.

Thuở đó, tôi vẫn luyện chưởng, nghe nhạc cổ điển và thường kể những mối tình hoa mộng qua ngòi bút của Kim Dung. Một buổi tối, ngồi nhậu ở Câu Lạc Bộ, nghe Dương Hùng Cường đang theo học khóa Căn Bản CTCT nói về cuộc tình đầy bi thương mà Hoàng Nguyên chấp nhận, tôi mới vỡ lẽ. Thảo nào, những lúc nhìn anh, thoáng hiện nỗi u buồn xa vắng mênh mông. Tôi hiểu niềm đau thương, khắc khoải trong anh như chấp nhận định mệnh oan khiên đành cam chịu như lời Virgile: “La femme est toujours un être inconstant et changeant” [Đàn bà luôn luôn là người nhẹ dạ và thay đổi].

Thời gian thấm thoát trôi qua với bao biến thiên tình đời và nhân thế. Giờ dây, bên bờ đại dương, trong bốn anh em, đêm đêm café tán ngẫu, thân quen với tác giả có chung cuộc tình ngang trái, nghe nhạc, nhắc lại kỷ niệm xa xưa như lời ca anh viết “cuộc tình nào không thương đau anh ơi, đừng trách nhau chi”!.

Anh đã ra đi biền biệt, lời ca nét nhạc vẫn còn để lại cho nhân thế thưởng thức. Tiếc rằng, thời gian qua, nhiều trung tâm sản xuất Cassette, CD, Video… không tôn trọng nhạc sĩ sáng tác, chỉ để tên ca sĩ, trong đó có nhiều nhạc phẩm của anh. Tiếng hát Xuân Thu với Ai Lên Xứ Hoa Đào, Anh Khoa qua Bài Thơ Hoa Đào, Hà Thanh trong Thuở Ấy Yêu Em, Tà Áo Tím, Jo Marcel với Lá Rụng Ven Sông… gắn bó với tình ca của Hoàng Nguyên qua năm tháng.

Mong một ngày nào đó, có muôn ngàn cánh Hoa Anh Đào phủ lên mộ anh, tưởng nhớ người nhạc sĩ tài hoa trong nghệ thuật nhưng gặp bao ngang trái trong cuộc đời.

[Vương Trùng Dương]

Ca sĩ Quỳnh Giao.

Truyện ca của chúng ta

[Quỳnh Giao]

Phải chăng, biệt ly, chinh chiến và đợi chờ là một phần của đời sống dân ta nên mới để vết hằn trong nền văn hóa của nước nhà? Người viết nêu câu hỏi đó vì nghĩ đến sự tích “vọng phu”…

Chúng ta đều biết chuyện thiếu phụ ôm con chờ chồng đi chinh chiến ở xa và chờ mãi cho đến khi hóa đá. Từ chuyện đó, ta mới có hòn vọng phu, là tảng núi đá có hình dạng của người vợ đợi chồng. Nhưng Việt Nam có đến năm hòn vọng phu như vậy! Từ Ðồng Ðăng ở tỉnh cực Bắc cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, Bình Ðịnh và trên một đỉnh núi tỉnh Ðắc Lắc…

Cũng hình ảnh hòn vọng phu đã gợi hứng cho nhạc sĩ Lê Thương trong ba bài “Hòn Vọng Phu.” Ðây là loại “truyện ca” đã trở thành một di sản văn hóa và nghệ thuật của dân ta.

Nhưng hình như là dân mình không chỉ thích chuyện buồn mà còn có tinh thần lãng mạn. Gặp bất cứ kỳ tích nào thì cũng kể lại thành truyện, viết thành, thơ thành văn. Kho tàng văn hóa ấy lại là nguồn sáng tác cho đời sau. Ngoài ba bản Hòn Vọng Phu, Lê Thương còn viết nhiều truyện ca khác như Nàng Hà Tiên, Thằng Cuội, Hoa Thủy Tiên, hay cả Thằng Bé “Tí Non”…

“Truyện ca” là các ca khúc lấy cảm hứng từ những truyện đã được lưu truyền từ trước.

Nói về sự lưu truyền thì trong kho tàng văn học dân gian nối tiếp từ đời này qua đời khác, chúng ta có nhiều truyện được gọi là cổ tích, thần tiên hay thần kỳ.

Có lẽ, truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh xuất phát từ hiện tượng địa dư hay khí hậu mà được thi vị hóa thành hai ông thần núi và nước thi thố tài hô phong hoán vũ để lấy được công chúa Mỵ Nương của một ông vua Hùng Vương.

Nguyễn Nhược Pháp hay Phạm Thiên Thư đã làm thơ từ truyện tích này. Nhạc sĩ Phạm Duy bắt vào cảm hứng đó từ thơ Phạm Thiên Thư mà viết ca khúc Qua Suối Mây Hồng, một trong mười bài “đạo ca.”

Cũng về truyện một nàng Mỵ Nương, có khi là cách gọi một “Mệ Nàng,” chúng ta có truyện cổ tích về anh Trương Chi, “người thì thật xấu hát thì thật hay.”

Cả Phạm Duy lẫn Văn Cao đều có tác phẩm về tích này. Văn Cao mượn truyện Trương Chi để viết về nỗi niềm riêng, còn Phạm Duy kể lại câu chuyện Khối Tình Trương Chi với nét tài hoa khác. Hai nhạc sĩ này cũng tận hưởng sự lãng mạn trữ tình của truyện Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai mà viết hai ca khúc. Bản Thiên Thai của Văn Cao thì kể chuyện xưa với nét nhạc tân kỳ mới lạ. Tiếng Sáo Thiên Thai của Phạm Duy lại đi từ ý thơ của Thế Lữ diễn thành tiết điệu lả lơi, mờ ảo.

Từ truyện Thiên Thai, ta còn có Hoàng Nguyên u uẩn với bài “Ðường Nào Lên Thiên Thai”, một tuyệt chiêu của tiếng hát Thanh Thúy. Người viết thì khó quên được thơ Tống Biệt và “lá đào rơi rắc lối Thiên Thai” của Tản Ðà, được Võ Ðức Thu phổ từng câu từng chữ vào nhạc, thành một ca khúc thuộc loại đẹp nhất của tân nhạc Việt Nam.

Cũng bi thảm ai oán như hòn vọng phu, ta còn có truyện nàng thiếu phụ ở Nam Xương đã dạy con chờ chồng đi đánh giặc ngoài xa mà gây ra ngộ nhận với cái bóng của mình in trên vách tối. Bài Thiếu Phụ Nam Xương của Thẩm Oánh là một truyện ca buồn.

Khi điểm lại truyện ca, Quỳnh Giao chỉ muốn nhắc đến loại truyện cổ tích đời xưa còn đọng trong trí nhớ của đời sau thành ý nhạc lời ca được lưu truyền mãi. Tân nhạc của ta còn kho truyện về Trầu Cau, về nàng Bân, về chim Ô Thước trong Tháng Bảy mưa ngâu, hay nàng tiên Giáng Hương bị đày xuống trần, như nghe thấy trong bài Hẹn Hò và Cành Hoa Trắng của Phạm Duy. Nếu có lấy một chủ đề về truyện ca, chúng ta phải thực hiện thành nhiều đĩa nhạc…

Như mọi dân tộc khác khi nhìn lên mặt trăng là mơ cảnh huyền ảo rồi viết thành thơ, dựng thành truyện và soạn thành nhạc, chúng ta cũng mơ tiên trên cung quế và hát về thằng Cuội dưới gốc cây đa. Một nét riêng của tân nhạc là ra khỏi hình ảnh đầy ước lệ của truyện Ðường Minh Hoàng Du Nguyệt Ðiện ở bên Tầu để có những bài truyện ca mộc mạc và gần gũi với hồn nước. Chúng ta hãy nghe lại Lê Thương hay Phạm Duy và tủm tỉm với thằng Cuội già ôm một mối mơ…

Nếu lại mơ khúc nghê thường trong một tâm cảnh khác hẳn với hình tượng cổ điển của Trung Hoa, hãy nghe lại bài Mơ Tiên của Dương Thiệu Tước. Ðấy không là một truyện ca, nhưng dẫn ta vào thế giới kỳ ảo với nét độc đáo riêng.

oOo

Đường Nào Lên Thiên Thai – Ca sĩ Thanh Thúy:

Đường Nào Lên Thiên Thai – Ca sĩ Anh Ngọc:

Đường Nào Lên Thiên Thai – Ca sĩ Hải Phong:

LK Ðường Nào Lên Thiên Thai & Thiên Thai – Ca sĩ Tuấn Anh, Ánh Tuyết:

Video liên quan

Chủ Đề