Cái đẹp luôn là như thế nào

Tạo hóa [hay Nghệ huậ?] oa oăm hay, bày đặ ra cá đẹp, nhưng lạ không cho bế cá chìa khóa của nó nằm ở đâu, sự vận động của nó như hế nào? Vậy hì rước ên, a cần xm xé xm ý nệm đẹp ừ đâu mà có và làm sao nắm bắ được nó?

Cá đẹp khó nắm bắ, bở mộ lẽ đơn gản là "nó không có khá nệm, không ồn ạ ở rong sự vậ" [Kan [1724-1804], Crqu u Jugmn/Phê phán khả năng hẩm định, 1790]. Ngay cả rong đầu óc con ngườ, nó cũng không ồn ạ ướ mộ hình ạng cụ hể nào cả. Cùng lắm, ngườ a cũng chỉ có hể hình ung được những yếu ố cấu hành của mó: mộ màu sắc, mộ chấ lệu, mộ bố cục, mộ nhịp đệu hay mộ ỷ lệ [ỷ lệ vàng vớ những con số vàng]

Ý nệm đẹp

Mộ vậ hể, mộ hện ượng hên nhên hay mộ ác phẩm nghệ huậ, mà a cho là đẹp, ngườ khác cũng có hể hấy là đẹp, nhưng cũng có hể hấy là xấu. Tấ cả đều ùy ở những quy ước, những định kến có sẵn về cá đẹp mà mỗ ngườ chúng a đã hấp hụ được ừ mô rường văn hóa, ừ gáo ục mà a nhận được, ừ cộng đồng xã hộ ở xung quanh. Do đó, sự nhấ rí về mộ cá đẹp cụ hể nào đó đều chỉ có hể ựa rên mộ sự đồng huận gữa con ngườ vớ con ngườ, rên những êu chuẩn và quy ước. Cũng o đó, mà cá đẹp chỉ có ính chấ chủ quan [Kan, s].

Hơn 30 năm sau Hgl uy không phủ nhận quan đểm của Kan đã vạch ra đó, nhưng lạ đưa ra mộ định nghĩa khác về cá đẹp và cho nó mộ nộ ung hần bí, sêu nhên. Tho ông, "cá đẹp" là "ý nệm về cá đẹp”, và suy cho cùng, hì đó chính là “lý ưởng uyệ đố về cá đẹp", và Hgl cho rằng nếu đã chấp nhận có mộ "lý ưởng đẹp" ồn ạ, hì "khá nệm đẹp" cùng ồn ạ. [Hgl, 1770-1831], Eshsqu/Mỹ học - gồm những những bà gảng ở đạ học Brln [1818-1829]. Thực ra, ở đây Hgl đã lấy lạ mộ cá ý rấ xưa và cũng rấ hần bí của Plaon [hế kỷ 5 r.C.N.], cho rằng "con ngườ nhận ra được cá đẹp là o nhớ lạ được những ý ưởng ên nghệm [ý ưởng uyệ đố của Thượng đế]".

Cũng may hay, là cá đẹp có khá nệm, chứ nếu có, hì chắc hẳn rong nghệ huậ sẽ chẳng còn đều gì là bí mậ nữa, cá đẹp sẽ hế còn là “muôn hình muôn vẻ", con ngườ cũng sẽ hế còn có hể mơ ưởng đến mà "cá đẹp", hay "ngườ đẹp" lý ưởng nào nữa. Tấ cả đều đã được an bà, đều đồng đệu, hay đơn đệu cả rồ, văn chương, nghệ huậ chắc cũng sẽ hế chuyện để nó! Ngườ a sẽ không còn phả bày đặ ra những ước lệ và những êu chuẩn để quy định cá đẹp. Cụ Nguyễn Du sẽ khỏ phả ả vòng vo để khn cá đẹp [quả là cá đẹp ước lệ !] của Thúy Kêu và Thúy Vân [mà rú ngườ a cũng không bế được a đẹp hơn a]:

…Vân xm rang rọng khác vờ

Khuôn răng đầy đặn né ngà nở nang

Hoacườ ngọc hố đoan rang

Mây hua nước óc uyế nhường màu a

Kều càngsắc sảo mặn mà

So bề à sắc lạ là phần hơn

Làn hu hủy né xuânsơn

Hoa ghn hua hắm lễu hờn kém xanh…

Xm như vậy, cá đẹp không có khá nệm cụ hể lạ là mộ đểm vô cùng huận lợ cho nghệ huậ và cuộc sống con ngườ, nó cho phép con nguờ ự o mơ mộng và ự o lựa chọn!

Trở lạ Kan và Hgl. Vào hờ đạ của ha rế ga này, những rào lưu, “nghệ huậ hện đạ" chưa ra đờ, mã đến cuố hế kỷ XIX, đầu hế kỷ XX, những ý ưởng mớ mẻ, áo bạo, về nghệ huậ mớ bắ đầu nở rộ [và đương nhên, những lý luận về nghệ huậ cũng vậy]. Do đó, Kan và Hgl đã chỉ có hể phân ích sự vận động của rí ưởng ượng, óc sáng ạo và cảm xúc hẩm mỹ hông qua những ác phẩm nghệ huậ của hờ đạ mình, ức là những ác phẩm cổ đển, ba-rốc, hoặc lãng mạn, hoặc xa hơn nữa, những ác phẩm của hờ Phục Hưng, hoặc hờ Trung cổ, về hộ họa cũng như về đêu khắc và kến rúc, rên cơ sở những lý huyế nghệ huậ hịnh hành ở những hờ đó.

Bản hân Hgl cũng đã ừng nó: “Những suy luận rế học không hể nào vượ qua hờ đạ của mình được” [Hgl, Mỹ học]. Đều đó quá logc,vì ngườ a chỉ có hể suy ngẫm, phân ích và rú ra những kế luận, rên những vệc đã làm, đã qua mà hô. Trong cùng ý đó, chúng a sẽ hấy rằng, rong nghệ huậ, có mộ hện ượng ương ự, đó là lý luận và những quy ắc nghệ huậ chỉ có hể đến sau ác phẩm nghệ huậ [đều này Kan cũng đã ừng nó đến rong ác phẩm kể rên].

Những quy ắc và êu chuẩn về cá đẹp

Ý nệm, hay ý hức về cá đẹp chỉ có hể hình hành sau kh con ngườ đã được chêm nghệm nhãn ền cá đẹp cụ hể của hện ượng hên nhên, hay của mộ ác phẩm nghệ huậ rong hực ễn. Đều đó có nghĩa là, cá đẹp rong hên nhên, hay cá đẹp của ác phẩm bao gờ cũng đ rước ý nệm về cá đẹp. Cũng như, ác phẩm bao gờ cũng đ rước các lý huyế và quy ắc nghệ huậ của mộ rường phá. Đều này đã được hực ế chứng mnh, và các rế ga như Kan và Hgl công nhận [xm Văn Ngọc, Nghệ huậ và lý luận nghê huậ, Ta Sáng].

Nhìn vào những bước đầu của nghệ huậ kến rúc rong các nền văn mnh cổ như A Cập, Lưỡng Hà, Hy Lạp, chẳng hạn, a hấy rằng nếu không rả qua knh nghệm xây cấ những công rình kến rúc đầu ên, để rú ra những bà học về cá đẹp, cá xấu của chúng, hì ngườ xưa chắc hẳn không hể nào hế lập được những quy ắc về ỷ lệ và bố cục, để sau này xây nên những quần hể kến rúc hoàn mỹ, như ở Karnak, Louxor, Saqquarah [A Cập]; hay ở Ur, Eru, Babylon [Lưỡng Hà] hoặc Acropol [Ahèns, Hy Lạp]. Cá đẹp hoành ráng của các công rình kến rúc A Cập cổ, cũng như cá đẹp cổ đển, nhẹ nhàng và snh động của những ngô đền rên đỉnh đồ Acropol [Ahèns, Hy Lạp], là những mẫu mực về cá đẹp của ỷ lệ, và ở mộ chừng mực nào đó, cá đẹp lung lnh của nhịp đệu rên những hàng cộ ướ ánh mặ rờ.

Trong hộ họa, sự ra đờ của mỗ phong cách, mỗ rường phá, đều là o phản ứng chống lạ mộ phong cách, mộ rường phá khác.

Hộ họa ấn ượng, chẳng hạn, là phản ứng chống lạ nền hộ họa hàn lâm đang hịnh hành rong xã hộ đương hờ chống lạ nền hộ họa cổ đển, nó chung, chống lạ các đề à ruyền hống, chống lạ cách sử ụng các màu ố, và những đường vền khố… Song, cũng chính cách ùng màu đô kh hơ máy móc, ựa rên những phá hện khoa học về màu sắc của Chvrul [1786 -1889], và cách vẽ mờ ảo, hờ hợ này, của rường phá ấn ượng, đã bị không í các rường phá "hộ họa hện đạ" đương hờ phê phán mộ cách gay gắ, đặc bệ là Gaugun, Dran và sau này Paul Kl. Chính cá phản ứng mạnh mẽ đó đố vớ rường phá ấn ượng và đố vớ ấ cả các rường phá Hện hực ự nhên kểu Gusav Courb, kể cả nền hộ họa hàn lâm đương hờ đã là mộ rong những động cơ húc đẩy sự ra đờ của các xu hướng hộ họa hện đạ: Tượng rưng, Dã hú, Bểu hện, Lập hể, Sêu hực, Trừu ượng, vào những năm cuố hế kỷ XIX, đầu hế kỷ XX.

Cá đẹp của nhịp đệu được kha hác ừ Cézanns, Van Gogh, và các rường phá Bểu hện, Lập hể, Trừu ượng, mã đến những năm 1930-1940, mớ được đúc kế hành quy luậ bở Hnr Mchaux, và được ếp ục rển kha vào những năm 1950 bở Harung, Soulags, Pouack, Zao - Wou- K... Trong hộ họa cổ đển Trung Quốc, khá nệm nhịp đệu cũng đã xuấ hện ừ hờ nhà Lương, nhà Tùy [hế kỷ VI], vớ những quy ắc được đặ ra để hể hện cá hần của sự vậ. Nhưng rước đó, cũng đã có những bức ranh lụa ừ hờ nhà Hán và những bức bích họa rong các động đá ở Đôn Hoàng, vớ những né vẽ gàu nhịp đệu.

Sự vận động của cá đẹp

Vớì mộ sự đam mê bản năng nhấ định, con ngườ săn ìm cá đẹp rong nghệ huậ ngay ừ kh bắ đầu có nhu cầu ễn đạ ư ưởng và ình cảm bằng ngôn ngữ nghệ huậ ạo hình hay cho lờ nó và chữ vế.

Trả qua bao nhêu hế kỷ, vượ qua nhều chặng đường nghệ huậ, nhều rường phá, phong cách, và xuyên qua các nền văn hóa khác nhau, cá đẹp mà mỗ nghệ sĩ mơ ước nắm bắ qua ác phẩm của mình, vẫn chỉ như hấp hoáng ở phía rước. Nó như mộ nềm khao khá khôn nguô, mộ cá đích không bao gờ đạ ớ. Vớ những sáng ác của mình, ngườ nghệ sĩ không bao gờ hỏa mãn được đầy đủ nỗ nềm khao khá ấy, vì cá đẹp này săn ìm, cá đẹp lý ưởng, bao gờ cũng ở phía rước.

Vậy hì cá đẹp lý ưởng đó là cá gì? Đâu là những bí quyế của sự “vận động" của nó?

Cá đẹp có hể xuấ hện rong rí ưởng ượng của ngườ nghệ sĩ ạo hình rong quá rình hực hện mộ ác phẩm, uy nhên cá đẹp đó đô kh cũng khó nắm bắ mộ cách cụ hể. Đô kh đó chỉ là mộ hình ượng hoáng hện, hoáng mấ, như mộ ảo ảnh: mộ hình hể, mộ màu sắc, hay chỉ mơ ho mộ nhịp đệu chuyển động. Nó luôn luôn là cá gì vượ xa hơn cá mà ngườ họa sĩ hực hện được rên mặ vả, nhà đêu khắc rên vậ lệu, hay ngườ kến rúc sư rên bản vẽ hế kế và rên công rình xây ựng. Sau mỗ ác phẩm, nó vẫn hường ay ứ, ám ảnh họ rong ềm hức, và rong chừng mực nào, nó như mộ nguồn cảm hứng, so đường và hướng ẫn họ rong những ác phẩm ương la.

Cá đẹp hay cá xấu, hường chỉ nhận bế được sau kh ác phẩm đã hình hành. Đều này ưởng như đương nhên, nhưng phả rả qua knh nghệm mớ hấy được rằng đây là mộ quy ắc nghệ huậ có ầm quan rọng của nó. Mộ né vẽ, mộ hình hể mộ màu sắc, chỉ có hể hẻm nghệm được là đẹp hay xấu, đúng hay sa, mộ kh đã hạ cọ, hạ bú xuống mặ vả, hay mặ gấy. Chẳng hế, mà các họa sĩ, các nhà đêu khắc, các kến rúc sư, luôn luôn phả vẽ đ vẽ lạ xóa đ xóa lạ, hế phác hảo này đến phác hảo khác, hế ác phẩm này đến ác phẩm khác.

Đô kh cá đẹp xuấ hện mộ cách bấ ngờ. Thí ụ nổ ếng là ga hoạ về bức ranh ượng hình quay ngược của Kannsky khến cho ông “ngộ" ra sự ồn ạ của cá đẹp rừu ượng, ức cố đẹp huần úy hẩm mỹ, độc lập vớ nộ ung ượng hình của bức ranh. Tuy nhên, bức ranh ượng hình để ngược đó chỉ như mộ cảm hứng đã hô húc Kannsky đ vào con đường hộ họa rừu ượng.

Trong hộ họa, nhấ là hộ họa rừu ượng, a hường hay gặp những hện ượng ương ự: mộ bức ranh để nghêng đ nhìn, đô kh lạ hấy là nó đẹp hơn là kh nhìn hẳng, đó là vì kh nhìn nghêng, bức họa rông “ày đặc" hơn, cả về màu sắc, đường né lẫn nhịp đệu. Như vậy, có nghĩa là cá đẹp đô kh ình cờ hình hành, hay xuấ hện, rong đầu óc a, rong mộ số đều kện bấ ngờ nào đó, mà không phả chính a sắp đặ. Cá chính vẫn là nhận ra được cá đẹp đó. Những bức ranh của rẻ m, ở mộ độ uổ nào đó, nhều kh làm chúng a choáng ngợp, bấ ngờ, về cá đẹp hẩm mỹ của chúng, rong kh những rẻ m đó hực ra chưa nhận hức được cá đẹp đó.

Con ngườ đ ìm cá đẹp rong mọ nền văn hóa, mọ nền nghệ huậ, hông qua nhều rường phá, nhều phong cách và nhều quy ước khác nhau.

Trong các nền nghệ huậ nguyên kha, hoặc nghệ huậ hổ ân, ngườ a có ruyền hống sử ụng những bểu ượng, ký hệu, để ễn đạ những hông đệp, những "gấc mơ ruyền lạ ừ ổ ên, mà ngườ rong cùng mộ nền văn hóa mớ có hể gả mã và hấy hế được cá đẹp của chúng. Các nền nghệ huậ này hường ẫm chân ạ chỗ, không bến chuyển được vớ hờ gan và có nguy cơ ma mộ, chính bở vì đây là những nền nghệ huậ rong đó nộ ung các ruyện ích hòa quyện mộ cách chặ chẽ vớ hình hức các bểu ượng và ký hệu. Kh những ký hệu này đã mấ hế ý nghĩa đố vớ ngườ của mộ hờ đạ khác hì chúng chỉ còn là mộ hứ ngôn ngữ nghệ huậ rống rỗng, mấ hế ính sáng ạo.

Trong hộ họa ượng hình, cùng mộ òng hộ họa hện hực đấy, nhưng phong cách cổ đển, khác vớ phong cách ba-rốc, hay pong cách lãng mạn ở cả hình hức ễn đạ lẫn nộ ung. Cá đẹp cổ đển, hường bị ràng buộc bở nhều khuôn phép hàn lâm về nộ ung cũng như hình hức, cho nên đô kh hơ khô khan, lạnh lẽo, khác vớ cá đẹp ba-rốc, hay cá đẹp lãng mạn, hường bay bổng, rữ ình.

Cùng là những ngườ mở đường cho hộ họa hện đạ đấy, nhưng phong cách hện hực của Gusav Courb còn đượm ảnh hưởng của nghệ huậ ruyền hống, khác hẳn vớ phong cách hện hực của Man, đã ứ khoá ừ bỏ những quy ước của nền nghệ huậ này.

Cá đẹp rong hộ họa bểu hện cũng khác vớ cá đẹp rong hộ họa ấn ương. Mộ đằng, là cá đẹp của mộ ngôn ngữ gàu nhịp đệu và màu sắc mạnh mẽ, đô kh ữ ằn, hể hện mộ rạng há nộ âm b phẫn, í nhều nó ên hân phận b đá của con ngườ đương hờ. Mộ đằng, là cá đẹp nhẹ nhàng, hơ mộng rủa mộ ngôn ngữ nghệ huậ sử ụng ánh sáng và màu sắc mộ cách nh v, nhưng hường chỉ để hề hện những đề à nhẹ nhàng, đô kh vô hưởng vô phạ.

Xm như vậy, ý nệm về cá đẹp rong mỗ rường phá nghệ huậ đều có những cơ sở lý huyế khác nhau, ựa rên những quy ắc và êu chuẩn khác nhau. Những quy ắc và êu chuẩn đó đã được rú ra ừ knh nghệm hực ễn của quá rình sáng ạo.

Đều ưởng như là mộ nghịch lý, là chính vì chúng không phả là những quy luậ cứng nhắc, bấ bấ ịch, mà hoàn oàn o rí óc con ngườ ưởng ượng ra, cho nên nghệ huậ mớ gữ được cá ính chấ chủ quan, lnh hoạ của nó, và cá đẹp mớ còn có hể có muôn hình, muôn vẻ được.

Chủ Đề