Chất surfactant có tác dụng gì

Bệnh màng trong là bệnh thường gặp gây suy hô hấp và tử vong ở trẻ non tháng. Surfactant  là chất có thành phần gồm 80% phospholipids (phosphatidylcholine và phosphatidylglycerol); 10% neutral lipids (cholesterol và axit béo) và10% proteins có vai trò chính tạo màng film ổn định, giảm sức căng bề mặt.Ở trẻ đẻ non, hệ thống emzyme xúc tác sự tổng hợp surfactant bởi các phế bào II chưa hoàn chỉnh. Do vậy những trẻ đẻ non thường có nguy cơ cao phát sinh bệnh này.

Các yếu tố gây thiếu surfactant tiên phát thường xảy ra ở trẻ sanh non, giới nam, sanh đôi con thứ hai, sanh mổ, hoặc chủng tộc da trắng. Thiếu Surfactant thứ phát xảy ra trong trường hợp: mẹ tiểu đường, trẻ sinh ngạt, viêm phổi hoặc xuất huyết phổi, viêm phổi hít phân su hay ngộ độc Oxygen,…

Surfactant thường được sử dụng trong hội chứng suy hô hấp ở trẻ sinh non. Trước đây thường dùng kỹ thuật bơm surfactant qua nội khí quản và cho thở máy. Hiện nay, kỹ thuật bơm surfactant ít xâm lấn ngày càng được sử dụng rộng rãi. Trẻ bị suy hô hấp nên được dùng surfactant điều trị sớm. Nên dùng surfactant điều trị cho trẻ ≤ 26 tuần khi cần FiO2 > 0,30 và đối với trẻ >26 tuần cần FiO2 > 0,40. Dùng surfactant liều thứ 2 đôi khi thứ 3 nên thực hiện nếu có bằng chứng SHH tiến triển. Có nhiều phương pháp và kĩ thuật bơm surfactant khác nhau nên được cân nhắc trong các trường hợp.

Lợi ích về lâm sàng của liệu pháp surfactant
• Cải thiện thông khí phổi
• Cải thiện oxy hóa máu
• Giảm tần suất dò khí (tràn khí màng phổi, ứ khí phế nang…)
• Giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật
• Giảm tỷ lệ tàn tật nặng

Ths.Bs Nguyễn Thị Kim Nhi

Nguồn: Nội khoa Việt Nam

(Visited 1.618 times, 1 visits today)

Lượt xem: 3.560

  • Chất surfactant có tác dụng gì
    Tags:

Surfactant Là Gì – Chất Hoạt Động Bề Mặt Là Gì

Các phần tử của surfactant điều trị ở lại trong phổi của trẻ non tháng nhiều ngày. Nếu tránh được tổn thương phổi, sự ức chế hoạt động của surfactant sẽ được giảm thiểu. Việc dùng corticosteroid trước sanh giúp đỡ surfactant trong tăng thêm tính năng của phổi. Sự kỳ diệu của surfactant điều trị tới từ khá nhiều tương tác giữa surfactant and phổi trẻ non tháng.

Dẫn nhập

Surfactant điều trị đã thành chuẩn mức trong những công việc quan tâm trẻ bận rộn hội chứng suy hô hấp (RDS) từ khoảng tầm năm 1990. Sự cách tân và phát triển của surfactant là một trong trong số thắng lợi lớn trong những công việc quan tâm sơ sinh vì việc điều trị xử lý đặc hiệu sự thiếu surfactant and thay đổi sinh bệnh học y như kết cục của hội chứng suy hô hấp. Đa phần nhà lâm sàng dùng surfactant không đưa ra cảnh báo tới những nghiên cứu quan trọng so với có được sự hiểu biết chính sách surfactant hoạt động được cực tốt như vậy ở phần lớn các trẻ.

Surfactant có kết quả vì có tương đối nhiều công dụng sinh hóa lý and chuyển hóa khó khăn với phổi non tháng. Các kết quả đó cũng thay đổi theo các biến số lâm sàng như việc dùng steroids trước sanh, tổn thương phổi and tuổi thai.

Hội chứng suy hô hấp là gì?

Trẻ với hội chứng suy hô hấp có dự trữ lipid surfactant thấp, giá thấp hơn 10mg/kg so với dự trữ ở trẻ đủ tháng vào lúc 100mg/kg (1). Phổi của thai người ở tiến trình túi trong quy trình cách tân và phát triển cuộc sống là từ 23 tuần tuổi thai cho tới tiến trình phế nang là vào lúc đầu tuần 32 của thai kỳ. Kết cấu của phổi non tháng bị hội chứng suy hô hấp số lượng giới hạn tính năng của phổi trên nhiều phương diện. Mặc dầu phổi ở tiến trình túi có khả năng thảo luận khí nhưng khoảng tầm cách khuếch tán khí thì xa and diện tích quy hoạnh thảo luận khí so với gia tốc chuyển hóa thì thấp. Thể tích khí trong phổi ở trẻ non tháng thấp (20-40ml/kg), so với trẻ đủ tháng (50ml/kg) and người lớn (80ml/kg) gây nên phổi non tháng dễ bị căng phồng quá mức cho phép and tổn thương khi thở máy. Tổn thương and phù nề sẽ xẩy ra nếu đặt phổi thở với lượng khí cặn tính năng không không thiếu thốn hoặc làm phổi dãn nở quá mức cho phép. Mặc dù thế phổi của trẻ bị hội chứng suy hô hấp, trong phần đông các điều kiện, không xẩy ra thương tổn ngay từ lúc mới sinh mà phần đông tổn thương and phù nề là vì các thủ pháp quan tâm.

Bài Viết: Surfactant là gì

Surfactant là gì?

Surfactant từ động vật hoang dã cứng cáp and từ con người là một trong cấu trúc của lipid and protein nổi trội của surfactant. Các phần tử kết cấu chính đưa về năng lực rất dị của surfactant là làm giảm sức căng mặt phẳng trên giao diện khí-dịch là phosphatidylcholine bão hòa, surfactant protein B and surfactant protein C (1). Trẻ sinh non bị hội chứng suy hô hấp có không nhiều surfactant and surfactant thì chứa ít phosphatidylcholine bão hòa, ít phosphatidylglycerol and ít surfactant protein hơn là surfactant của phổi cứng cáp. Bản thân surfactant của phổi non tháng thì “chưa cứng cáp” về phần tử and tính năng.

Những ưng ý điều trị với surfactant là gì?

Cung ứng điều trị với surfactant theo tay nghề có khả năng chia thành 3 tiến trình – một ưng ý cấp tính xẩy ra trong vài phút, các công dụng xẩy ra trong vô số nhiều giờ, các công dụng kéo dãn dài trong vô số nhiều ngày and có khả năng nhiều tuần. Cung ứng điều trị cấp tính xuất phát điểm từ các tính chất lý sinh của surfactant and tùy từng sự phân bổ nhanh của surfactant vào phổi. Sức ảnh hưởng của sự việc phân bổ thường không Reviews được. Có khoảng tầm 20 thế hệ (điểm phân nhánh) từ khí quản đến tiểu phế quản hô hấp and các túi phế nang. Vì vậy có khoảng tầm 250.000 điểm phân nhánh đôi and 500.000 đường dẫn khí sau điểm phân nhánh đi đến những túi phế nang ở phổi non tháng. Nếu sự phân bổ surfactant không tương xứng với con số lượng các túi phế nang sau mỗi điểm phân nhánh, sự phân bổ surfactant sẽ không còn giống hệt. Bất cứ sự không giống hệt nào ngay sau đó 1 điểm phân nhánh sẽ được khuếch đại ở các điểm phân nhánh tiếp nối. Khi bơm surfactant vào phổi, sự phân bổ surfactant làm theo một vài nguyên tắc ở bảng 1. Theo tay nghề, sự phân bổ surfactant là đủ kết quả vì hai phế trường sáng nhanh gọn trên phim phổi and độ bão hòa oxy có khả năng mau chóng cải tổ. Mặc dù thế kỹ thuật điều trị mới là quan trọng. Surfactant sẽ phân bổ trong phổi của cừu non tháng đồng đều đặn hơn khi được đem vào nhanh ngay lúc sinh vì nó sẽ được hòa với dịch phổi để triển khai tăng thể tích and trọng tải thì không thành sự việc ở phổi chứa đầy dịch. Việc bơm surfactant vào phổi chậm nhằm mục đích làm giảm thiểu bất kỳ một sự thay đổi sinh lý cấp tính nào trong lúc điều trị đều sở hữu thể đưa về một sự phân bổ rất kém. Mặc dù sự phân bổ surfactant trong trong thực tế thì không lý tưởng nhưng nó cũng đủ cực tốt do các đặc tính lý sinh của surfactant and chỉ việc 1 lượng bé dại dại cho mỗi vùng trong phổi để sở hữu ưng ý điều trị. Chiêu bài thực hành thực tế để cải tổ sự phân bổ surfactant là đặt trẻ ở tư thế làm giảm thiểu trọng tải, bơm surfactant nhanh với cùng 1 thể tích tương thích and giúp đỡ hô hấp cho trẻ đủ để triển khai thông đường hô hấp một cách nhanh gọn.

Công dụng của sự việc phân bổ nhanh gọn (trong khoảng vài giây đến vài phút) đến phổi non tháng được minh họa cực tốt nhất bằng sự thay đổi trong đường cong stress – thể tích với surfactant điều trị (hình 1). Phổi được điều trị với surfactant mở đầu dãn nở ra với cùng 1 stress tiết kiệm ngân sách hơn (stress mở), dãn nở đến một thể tích to ra nhiều thêm and giữ khí lại lúc đến tiến trình phổi xẹp lại. Công dụng của surfactant làm nở phổi đưa về sự tăng thêm nhanh gọn độ bão hòa oxy vốn có khả năng xẩy ra hầu như tức thì. Cung ứng tiếp sau của surfactant điều trị bắt đầu khởi hành từ cơ học phổi được cải tổ, điều này trình làng chậm hơn and tùy thuộc một phần vào sự lựa chọn chiêu thức thông khí.

Xem Ngay: Oncogene Là Gì – Gen Tiền Ung Thư Là Gì

Tại sao trẻ thường xuyên cải tổ sau thời điểm áp dụng surfactant điều trị?

img

Sự kéo dãn dài của ưng ý điều trị với surfactant được lý giải đa phần bằng sự chuyển hóa surfactant trong phổi non tháng. Dựa vào sự thống kê ở người lớn, trẻ sơ sinh and động vật hoang dã non tháng and thời gian gần đây ở trẻ non tháng, chúng ta biết rằng sự tổ hợp của surfactant lipids and proteins từ các tiền chất bởi các tế bào type II là nhanh gọn. Mặc dù thế, quy trình giải quyết surfactant đến lúc dự trữ giữa những thể dẹp and tiếp nối bài tiết vào các khoảng tầm chứa khí xẩy ra trong khoảng một vài giờ. Thời khắc từ lúc tổ hợp cho tới lúc lượng surfactant đạt đỉnh trong mẫu lấy từ đường dẫn khí là vào lúc 3 ngày ở trẻ non tháng có hội chứng suy hô hấp. Vì vậy, trẻ có hội chứng suy hô hấp phải mất vài ngày để tăng được lượng surfactant đến từ sự tổ hợp and bài tiết nội sinh. Việc dị hóa/thanh thải/thất thoát surfactant có khả năng thống kê được từ phổi and khoảng tầm chứa khí ở động vật hoang dã y như khoảng tầm chứa khí của trẻ có hội chứng suy hô hấp nhờ các mẫu dịch hút khí quản. Tác dụng hằng định là cả surfactant nội sinh and ngoại sinh đều sở hữu thời gian bán hủy dài trong đường dẫn khí, vào lúc 3 ngày ở trẻ bị hội chứng suy hô hấp. Các lipids cũng sẽ có nhiều ngày trong phổi (khoảng tầm chứa khí, tế bào type II, mô phổi). Liều điều trị 100mg/kg surfactant vượt quá lượng nội sinh trong phế nang của không ít người cứng cáp trẻ trung và tràn trề sức khỏe khoảng tầm 20 lần. Vì vậy, liều surfactant là cao and tạo sự gia tăng vọt tổng lượng surfactant trong phổi non tháng kéo dãn dài trong vô số nhiều ngày. Cùng theo đó lúc này, phổi non tháng cũng tổ hợp các surfactant mới.

Hình 1: Đường màn trình diễn stress – thể tích ở phổi non tháng thiếu surfactant and ở phổi điều trị với surfactant. Surfactant giúp nở phổi với stress thấp, cho phép phổi xuất hiện với thể tích to ra nhiều thêm and ngăn chặn phổi xẹp khi stress giảm (ổn định khi thổi ra).

Chất surfactant có tác dụng gì
BẢNG 1 Các biến số đóng góp thêm phần vào sự phân bổ surfactant trong phổi
Tính chất Công dụng
Hoạt tính mặt phẳng Hút nhanh and giàn trải rộng
Trọng tải Surfactant phân bổ bằng trọng tải ở các đường dẫn khí lớn
Thể tích Thể tích lớn tạo nên sự phân bổ cực tốt hơn
Gia tốc bơm thuốc Bơm nhanh cải tổ sự phân bổ
Thiết lập máy thở Stress and PEEP giúp làm sạch dịch trong đường khí
Thể tích dịch trong phổi Thể tích lớn của dịch phổi thai nhi hoặc dịch phù nề cải tổ sự phân bổ

Điều kỳ diệu của surfactant điều trị là chiêu thức surfactant tương tác với tế bào type II. Các phần tử surfactant được tái dùng bằng cách được chuyển từ khoảng tầm chứa khí trở lại tế bào type II, ở đây các lipids được chuyển vào các thể dẹp sẽ tiến hành tái bài tiết(1). Nói kết luận, sự tái dùng này kết quả ở trẻ non tháng hơn là ở phổi người lớn. Thời khắc bán hủy sinh học rất dài của surfactant trong khoảng tầm chứa khí được lý giải bằng sự tái hấp thu and tái bài tiết thường xuyên. Liều điều trị của surfactant có tầm quan trọng như cơ chất để phổi non tháng chưa bị tổn thương tái dùng, đưa về kết quả điều trị kéo dãn dài trong vô số nhiều ngày.

Điều kỳ diệu thứ 2 là công dụng của phổi non tháng trên surfactant được áp dụng cho điều trị. Trong tầm một vài giờ điều trị với surfactant, phổi cừu non tháng đã cải tổ tính năng của surfactant được áp dụng cho điều trị. Phổi được coi như đã góp thêm các protein surfactant and tái dùng các phần tử của surfactant để tiết vào các túi phế nang đúng nơi and đúng vào lúc. Vì vậy sự kéo dãn dài ưng ý với surfactant điều trị sau đó 1 liều độc tôn xuất phát điểm từ phổi không xẩy ra tổn thương tích hợp surfactant điều trị vào các tuyến đường chuyển hóa surfactant đôi chút. Một liều độc tôn chữa khỏi cho phần tử thiếu hụt surfactant của hội chứng suy hô hấp ở phần đông trẻ nhỏ.

Xem Ngay: Dự Án Aqua City Hạ Long – Aqua City Hạ Long Bãi Cháy, Quảng Ninh

Biến số quan trọng cho có nhu cầu dùng liều surfactant thứ 2 là việc tổn thương ở phổi. Trẻ non tháng có ít surfactant and nếu phổi bị thương tổn thì sẽ gây ra ra phù nề, rồi các protein trong dịch phù nề có khả năng sẽ cản trở sự tính năng của surfactant. Trẻ non tháng thở tự nhiên có khả năng làm tổn thương phổi nếu phổi quá thiếu surfactant hoặc nếu PEEP không được ưng ý để ổn định phổi. Thở máy hẳn nhiên có khả năng gây tổn thương ở phổi. Một khi phổi bị tổn thương thì các khoảng tầm chứa khí sẽ chứa đầy dịch, protein and bị viêm. Tính năng surfactant có khả năng suy giảm bằng nhiều chính sách mà được kết luận là việc ức chế surfactant (12). Phổi tổn thương cũng can thiệp vào sự chuyển hóa đôi chút của surfactant bởi tế bào type II. Hậu quả sau cùng là mất tính năng lý sinh and mất tính năng của phổi. Việc xử dụng các liều lặp lại đang tiếp tục giảm dần đi trong thực hành thực tế lâm sàng có khả năng vì người ta đã đưa ra cảnh báo nhiều hơn thế đến việc làm giảm tổn thương phổi trước and sau thời điểm dùng liều thứ nhất.

Thể Loại: San sẻ Kiến Thức Cộng Đồng

Bài Viết: Surfactant Là Gì – Chất Hoạt Động Bề Mặt Là Gì

Thể Loại: LÀ GÌ

Nguồn Blog là gì: https://hethongbokhoe.com Surfactant Là Gì – Chất Hoạt Động Bề Mặt Là Gì