Chính sách đối ngoại Việt Nam từ 1954 đến 1975

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, đồng chí có thể cho biết ý nghĩa của dịp kỷ niệm 60 năm thành lập ngành ngoại giao?

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Nhân kỷ niệm 60 năm thành lập nước CHXHCN Việt Nam [1945 - 2005], chúng ta nhìn lại quá trình trưởng thành của nền ngoại giao cách mạng và đổi mới, phục vụ đắc lực sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Ngoại giao Việt Nam, hiểu theo nghĩa rộng bao hàm tất cả các hoạt động của đất nước, của hệ thống chính trị - xã hội nước ta với bên ngoài, chứ không thuần túy chỉ liên quan đến Bộ Ngoại giao. Kỷ niệm 60 năm Ngày thành lập ngành còn là dịp để chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trình phân tích và diễn giải, đánh giá và khai thác các tương quan khu vực và thế giới trong sáu thập kỷ qua, phục vụ sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Ðảng CS Việt Nam.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, 60 năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công, 30 năm sau ngày giải phóng miền nam, thống nhất đất nước, Bộ trưởng có thể khái quát những mốc lớn cũng như những đóng góp của ngành ngoại giao vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam?

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Có thể khái quát những mốc lớn trong chính sách và hoạt động ngoại giao của Ðảng, Nhà nước thành nhiều giai đoạn. Trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất [1945 - 1954], hoạt động ngoại giao đã góp phần tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng, phân hóa hàng ngũ đối phương, tránh cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai [1954 - 1975], ngoại giao thật sự là một trong ba mặt trận, góp phần làm sáng tỏ lập trường chính nghĩa của công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, tập hợp lực lượng rộng rãi nhân dân thế giới, trước hết là chính phủ, nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa và nhân loại tiến bộ trên thế giới đồng tình, giúp đỡ, ủng hộ Việt Nam. Những năm sau chiến tranh, ngoại giao đã chủ động phá thế bị bao vây, cấm vận, tạo môi trường quốc tế cho công cuộc đổi mới. Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế thì ngoại giao là lực lượng xung kích trong việc thực hiện chủ trương đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại trên tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, góp phần vào việc bảo đảm an ninh, giữ gìn môi trường hòa bình và tranh thủ sự hợp tác và ủng hộ quốc tế cho sự nghiệp phát triển đất nước.

Phóng viên: Song hành với những mốc lớn của cách mạng Việt Nam, Bộ trưởng có thể cho biết tư tưởng xuyên suốt của Ngoại giao Việt Nam 60 năm qua là gì?

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Ðó là tiếp tục tư tưởng hòa hiếu, nhân nghĩa của ngoại giao Việt Nam qua các thời đại, đồng thời đó còn là kế thừa, phát triển tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh từ ngày nhà nước công nông ra đời đến nay. Tiền nhân trước đây trong "Binh thư yếu lược" đã nâng hòa hiếu thành ÐẠO, "hòa mục là đạo rất hay cho việc trị nước và hành binh...", còn Bác Hồ ngay từ những ngày đầu của cách mạng đã khẳng định chính sách ngoại giao "làm bạn với tất cả các nước dân chủ và không gây thù oán với một ai". Bác đã để lại những di sản tinh thần to lớn cho Ðảng ta và dân tộc ta. Ðó là tinh thần "Không có gì quý hơn độc lập tự do", là phương pháp dự báo, nắm đúng thời cơ, ngoại giao tâm công, dĩ bất biến ứng vạn biến; đó là phong cách ngoại giao độc lập - tự chủ - sáng tạo, ứng xử linh hoạt, biết cách cảm hóa, thuyết phục; đó là nghệ thuật "ngũ tri" [biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừng và biết biến], vận dụng mâu thuẫn và nhân nhượng có nguyên tác nhằm phục vụ lợi ích tối cao của đất nước. Hơn bao giờ hết, ngày nay, những cốt lõi tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết nối độc lập - tự chủ với đoàn kết - hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã được thể hiện nhất quán trong chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập khu vực, thế giới để phát triển và hiện đại hóa đất nước.

Phóng viên: Những chủ trương trên đã mang lại những thành tựu cụ thể nào trong việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập 20 năm qua, thưa Bộ trưởng?

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Qua 20 năm đổi mới, thực hiện Nghị quyết của các Ðại hội Ðảng, chính sách đối ngoại theo định hướng mở đã mang lại những thành tựu hết sức to lớn. Thế và lực của nước ta hoàn toàn khác trước; chưa bao giờ các mối quan hệ giữa Việt Nam với thế giới, dù gần hay xa, song phương hay đa phương, cả bề rộng lẫn chiều sâu, lại sôi động, phong phú như hiện nay. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nay chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước trên thế giới, lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn. Chúng ta cũng đã tạo được khuôn khổ đối tác hữu nghị, ổn định lâu dài trên cơ sở những lợi ích đan xen với tất cả các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống, góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc xây dựng, phát triển ở trong nước. Chúng ta cũng đã chủ động và tích cực hội nhập thế giới, tham gia nhiều tổ chức và định chế  khu vực và quốc tế, đặc biệt là đẩy mạnh đàm phán để sớm gia nhập WTO. Phóng viên: Bộ trưởng có thể cho biết những thuận lợi và khó khăn sắp tới của Ngoại giao Việt Nam? Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Bên cạnh  những thành tựu và thuận lợi cơ bản nói trên, môi trường đối ngoại của Việt Nam những năm tới đây vẫn tiếp tục phức tạp. Giữa các nước lớn, đấu tranh và thỏa hiệp tiếp tục đan xen; khủng bố và chống khủng bố vẫn là vấn đề nổi trội; một số điểm nóng trên thế giới, trong khu vực vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ. Trong thập kỷ trước mắt, ít có khả năng xảy ra chiến tranh thế giới, nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột, chạy đua vũ trang còn có thể xảy ra nhiều nơi, với quy mô, mức độ có thể khác nhau. Tuy nhiên, hòa bình - hợp tác, phát triển - hội nhập vẫn là những xu thế chủ đạo. Kinh tế thế giới, khu vực mặc dù có nhiều dấu hiệu phục hồi, phát triển, song vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc do những mặt trái của toàn cầu hóa. Trong bối cảnh trên, Việt Nam ta tuy thế và lực đã được tăng lên đáng kể, nhưng vẫn phải cảnh giác đối phó nhiều thách thức, cả truyền thống lẫn phi truyền thống. Những âm mưu diễn biến hòa bình gây mất ổn định chính trị, xã hội vẫn hiện hữu; những hành động xâm hại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta vẫn còn đó. Bốn nguy cơ đối với đất nước mà các Ðại hội Ðảng đã chỉ rõ vẫn là những vấn đề nổi cộm. Tham gia sâu vào tiến trình hội nhập, bên cạnh những mặt được, Việt Nam sẽ đứng trước nhiều sức ép mới. Muốn tránh khỏi những tình thế bất lợi do những cạnh tranh gay gắt trên chính trường và thị trường thế giới, Ngoại giao Việt Nam phải chủ động hơn nữa trong dự báo và tham mưu cho Ðảng và Nhà nước. Phải nhận thức rõ, những thuận lợi và khó khăn sắp tới sẽ luôn luôn đan xen, nhưng về cơ bản thuận lợi là chủ yếu, nếu chúng ta biết hóa giải nhanh các thách thức và nắm bắt tốt các thời cơ. Nhân tố có ý nghĩa quyết định ở đây là sự nhất trí trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội ngày càng cao, thế và lực của nước ta ngày càng được tăng cường qua những năm đổi mới.

Phóng viên: Thưa Bộ trưởng, từ những bài học kinh nghiệm lịch sử, Bộ trưởng có thể khái quát một số phương hướng cho công tác ngoại giao thời gian tới, đặc biệt là để góp phần chuẩn bị cho Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ X của Ðảng?

Bộ trưởng Nguyễn Dy Niên: Ðiều cần khẳng định tiếp là chúng ta phải giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với những kinh nghiệm lịch sử, đây chính là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta có thể khái quát một số phương hướng lớn cho công tác Ngoại giao thời gian tới, đặc biệt trong khuôn khổ góp phần chuẩn bị Ðại hội X của Ðảng. Xuất phát từ lợi ích tối cao của dân tộc, đây là dịp chúng ta đưa ra thông điệp mạnh mẽ: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước, là thành viên tích cực của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Ðể thực hiện định hướng mới này, cần nhấn mạnh một số nội dung công tác cụ thể: Thứ nhất, phải thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa để đưa các quan hệ đối tác đã được thiết lập ngày càng đi vào chiều sâu, bảo vệ, củng cố an ninh, tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho công cuộc hiện đại hóa đất nước theo hướng dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai, phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, cả song phương lẫn đa phương, tiếp tục củng cố vị trí và nâng cao vai trò của Việt Nam trong các định chế quốc tế, sớm hoàn thành việc gia nhập WTO, cần xây dựng lộ trình hội nhập cho từng giai đoạn, hoàn thiện chính sách tranh thủ đầu tư, viện trợ, xúc tiến thương mại, du lịch, hợp tác lao động. Thứ ba, nỗ lực tạo những chuyển biến trong công tác ngoại giao phục vụ kinh tế, tạo môi trường, khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, góp phần nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ tư, tăng cường, mở rộng sự hợp tác nhiều mặt với các tổ chức quốc tế, khu vực lẫn phi chính phủ, phối hợp giữa ngoại giao song phương với đa phương, chủ động tham gia giải quyết một số vấn đề toàn cầu thiết thân đối với ta. Thứ năm, phát huy hơn nữa vai trò của ngoại giao nhân dân và các hình thức ngoại giao phong phú khác để cùng với ngoại giao của Ðảng, Nhà nước và Quốc hội tạo nên sức mạnh tổng hợp trên mặt trận đối ngoại. Cuối cùng, chúng ta tiếp tục coi trọng và đẩy mạnh công tác vận động đồng bào ta ở nước ngoài nhằm khuyến khích tạo điều kiện cho bà con hướng về Tổ quốc, tham gia công cuộc xây dựng đất nước.

- Xin cảm ơn Bộ trưởng!

[Bqp.vn] - Cách đây đúng 76 năm, ngày 28/8/1945, Bộ Ngoại giao được thành lập cùng với sự ra đời của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Suốt 76 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy truyền thống ngoại giao hòa hiếu của dân tộc và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Ngoại giao Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Phục vụ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Sau khi thành lập trong tình thế đất nước “thù trong, giặc ngoài”, thực hiện những quyết sách ngoại giao mưu lược và khôn khéo của Đảng và Bác Hồ, ngoại giao đã góp phần quan trọng bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ, tạo thời gian hòa bình quý giá để đất nước chuẩn bị lực lượng cho trường kỳ kháng chiến. Những sách lược ngoại giao như “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “tâm công”, “phân hóa kẻ thù”... đã trở thành những bài học kinh điển của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, mang đậm dấu ấn tư tưởng, phong cách, nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh.

Giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ngoại giao đã trở thành một mặt trận chiến lược trong hai cuộc kháng chiến và kiến quốc, tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc. Phối hợp chặt chẽ với mặt trận chính trị và quân sự, ngoại giao đã “chuyển hóa” thắng lợi trên chiến trường thành thắng lợi ngoại giao trên bàn đàm phán ở Giơ-ne-vơ năm 1954 và Pa-ri năm 1973, mở ra thời cơ chiến lược cho dân tộc đi tới ngày toàn thắng, Bắc Nam sum họp một nhà.

Đất nước bước ra từ những năm tháng chiến tranh với vô vàn khó khăn và thử thách, ngoại giao đã tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế cho công cuộc tái thiết đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngoại giao trở thành mặt trận tạo lối, mở đường, đi đầu từng bước phá thế bao vây, cấm vận, khơi thông quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn và nhiều đối tác, mở ra cục diện đối ngoại mới phục vụ đắc lực công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước.

Ngoại giao trong công cuộc Đổi mới và hội nhập quốc tế

Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc, ngoại giao cùng các binh chủng đối ngoại đã “đi đầu trong kiến tạo hòa bình, bảo vệ Tổ quốc và thu hút nguồn lực cho phát triển đất nước” [1] và nâng cao vị thế quốc gia.

Thông qua mở rộng và làm sâu sắc quan hệ với các đối tác, ngoại giao cùng quốc phòng và an ninh góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, đồng thời mở ra nhiều thị trường, tranh thủ nhiều nguồn vốn, công nghệ và tri thức bên ngoài phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đến nay, nước ta có quan hệ hữu nghị hợp tác với 189 quốc gia, trong đó 17 nước đối tác chiến lược và 13 nước đối tác toàn diện; có quan hệ kinh tế với hơn 230 nền kinh tế, đã ký 15 hiệp định thương mại tự do [FTA], trong đó có các FTA thế hệ mới.

Thực hiện chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đóng góp có trách nhiệm vào các vấn đề chung của quốc tế, phát huy vai trò tại nhiều cơ chế đa phương, vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được khẳng định và nâng cao trên trường quốc tế. Việt Nam đã tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn cũng như hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế như Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc [2008 - 2009 và 2020 - 2021], Hội nghị cấp cao ASEAN [1998, 2010 và 2020], Hội nghị cấp cao ASEM [2004], Hội nghị thượng đỉnh APEC [2006, 2017], Diễn đàn Kinh tế giới về Đông Á [2010] và về ASEAN [2018], Hội nghị thượng đỉnh Hoa Kỳ - Triều Tiên [2019]…

Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa, thông tin đối ngoại đã góp phần quảng bá mạnh mẽ hình ảnh đất nước vươn lên trong Đổi mới. Bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng hiệu quả, góp phần củng cố đại đoàn kết dân tộc, tạo thuận lợi cho đồng bào ta ở nước ngoài tham gia phát triển quê hương, đất nước.

Từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát và diễn biến phức tạp trên thế giới và trong nước, ngành Ngoại giao đã tiên phong cùng các Bộ, ngành đẩy mạnh “ngoại giao y tế”, “ngoại giao vắc-xin”, tranh thủ sự hỗ trợ kịp thời, hiệu quả của cộng đồng quốc tế về vắc-xin, thiết bị y tế và thuốc điều trị, chung tay cùng cả nước phòng, chống dịch bệnh và phát triển kinh tế - xã hội.

Những thành tựu đối ngoại nói trên đã đóng góp quan trọng vào thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm Đổi mới, khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, là kết tinh nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, sự phối hợp chặt chẽ giữa các binh chủng đối ngoại, trong đó có nỗ lực và đóng góp quan trọng của ngành Ngoại giao. Chính trong Đổi mới, ngành Ngoại giao ngày càng trưởng thành và phát triển hướng tới toàn diện, hiện đại.

Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới

Để góp phần thực hiện mục tiêu phát triển đất nước theo đường lối Đại hội Đảng XIII, nhiệm vụ của đối ngoại là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển và nâng cao vị thế, uy tín đất nước.

Để thực hiện những nhiệm vụ nói trên, Đại hội XIII đặt ra yêu cầu “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”. Tính toàn diện trước hết thể hiện ở chủ thể đối ngoại gồm cả hệ thống chính trị, địa phương, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và người dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, y tế, môi trường, văn hóa - xã hội…; đối ngoại trong thế giới thực và không gian mạng; với tất cả đối tác, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương quan trọng, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc.

Tính hiện đại thể hiện ở sự kết hợp hài hòa, vận dụng sáng tạo truyền thống và bản sắc ngoại giao độc đáo của dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và tinh hoa ngoại giao của thời đại; ở vận hành nền ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện, gắn kết chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; ở tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình; ở lực lượng cán bộ ngoại giao toàn diện về bản lĩnh, phẩm chất và trí tuệ, hiện đại về tư duy, phong cách và phương pháp làm việc, đạt tới tầm khu vực và quốc tế.

Nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các binh chủng đối ngoại và trụ cột của ngoại giao nỗ lực đóng góp vào thực hiện tầm nhìn và mục tiêu phát triển đất nước, trong đó ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển là nòng cốt, “lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm”. Với tư duy “phục vụ”, ngoại giao cùng các cấp, các ngành góp phần mở rộng không gian phát triển, tạo thuận lợi cho người dân, địa phương và doanh nghiệp tiếp cận thị trường, thu hút đầu tư, công nghệ và tri thức.

Ôn lại chặng đường 76 năm trưởng thành và phát triển của ngoại giao cách mạng Việt Nam, các thế hệ cán bộ ngành Ngoại giao bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người sáng lập và để lại cho nền ngoại giao cách mạng Việt Nam một di sản tư tưởng ngoại giao đặc sắc và vô giá. Phát huy tư tưởng ngoại giao của Người và truyền thống vẻ vang 76 năm xây dựng và trưởng thành, toàn ngành Ngoại giao dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước nỗ lực cùng cả nước sớm đẩy lùi đại dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, quyết tâm xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển đất nước vì một Việt Nam độc lập, hòa bình, hùng cường và thịnh vượng.

[1] - Trích phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 28 năm 2013.

Bùi Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao

Video liên quan

Chủ Đề