Con trai của kinh dương vương là ai

TP - Lâu nay, con dân nước Việt luôn hướng về đất Tổ ngày 10-3 âm lịch, nhưng ít người biết, dịp tháng Giêng vào ngày 18, còn có ngày giỗ Thuỷ tổ nước Nam Kinh Dư­­­ơng Vương, là ông nội vua Hùng ở làng Á Lữ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.  

Con trai của kinh dương vương là ai

Đầu xuân, chúng tôi tản bộ dọc theo bờ đê con sông Đuống, lần đầu tiên tôi dừng chân thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành thắp nén nhang lăng mộ Vua Thuỷ Tổ Kinh Dương Vương.

Anh Ngọc, Phó phòng Văn hóa huyện Thuận Thành bảo: “Các anh nên vào dâng hương Đền thờ Vua Thủy Tổ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ trước, đền thiêng lắm”.

Ngồi trên chiếc chiếu hoa trước điện, nhấp chén trà nóng, ông Biện Xuân Phẩm, thủ nhang Đền thờ Kinh Dương Vương, tự giới thiệu chỉ học qua lớp 4, nhưng ông tỏ ra thông thạo, thuộc lòng truyền thuyết Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ cho đến vua Hùng.

Ông bảo: “Các nhà báo muốn tìm hiểu gì, cứ dâng hương trước, vì mới hôm qua, nhóm phóng viên truyền hình tỉnh về quay, vừa đưa máy lên thì mất điện. Hỏi ra mới biết họ chưa kịp làm lễ dâng hương. Tôi làm lễ dâng hương, sau vài phút lại có điện ngay…”.

Không biết chuyện mất điện mà ông Phẩm kể có phải do bị cắt điện ngẫu nhiên, hay do điện quá tải nhảy át-tô-mát, nhưng sau khi thắp nén nhang, làm lễ dâng hương, tôi thấy lòng nhè nhẹ, lâng lâng khó tả.

Quả thực, trong vốn kiến thức hạn hẹp, lâu nay tôi cũng chỉ biết đến đất Tổ, vua Hùng ở Phú Thọ, ngày giỗ mùng 10-3 âm lịch hàng năm.

Ngay cả sách giáo khoa viết về truyền thuyết Lạc Long Quân, Âu Cơ, Vua Hùng, cũng tuyệt nhiên không nhắc tới địa danh Á Lữ, có ngôi đền thờ Kinh Dương Vương và Lăng mộ của ngài, thuộc loại cổ nhất Việt Nam.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư: “Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam-Trung Quốc) gặp một nàng tiên, lấy nhau, sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vu phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), tự xưng là Kinh Dương Vương.

Kinh Dương Vương làm vua năm Nhâm Tuất (2879 TCN), lập nước lấy quốc hiệu là Xích Qủy, đóng đô ở Ngũ Lĩnh (Hồng Lĩnh - Hà Tĩnh ngày nay). Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân (còn có tên là Thần Long) là Long Nữ, đẻ ra Sùng Lãm.

Sau này Sùng Lãm kế vị, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu cơ: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hóa khắc nhau, chung hợp thật khó”.

Vợ chồng từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về miền biển, phong cho con trưởng là Hùng Vương, nối ngôi vua. Cứ theo truyền thuyết ấy, thì vua Hùng, là cháu nội Kinh Dương Vương.

Sinh thời, Kinh Dương Vương đi kinh lý khắp núi cao, rừng sâu, biển xa nước Việt. Vương trông nom, gây dựng, mở mang, gìn giữ bờ cõi giang san.

Vương lấy đức mà cảm hóa dân. Trên đường đi kinh lý, Ngài qua đất Phúc Khang (làng Á Lữ ngày nay) phát hiện ra thế đất quý, có tứ linh: long, ly, quy, phượng, có sông núi bao quanh, rồng chầu, hổ phục.

Vì vậy Ngài đã đem những cư dân Việt cổ quy tụ về lập nên những xóm làng đầu tiên. Vùng đất Phúc Khang bắt đầu trỗi dậy sức sống mạnh liệt và trở thành “Thánh địa” của thị tộc, bộ lạc người Việt.

Vương cho xây một tòa hành cung ở chốn này để quy tụ những hiền tài khắp vùng luận bàn việc non sông xã tắc. Nước cường, dân thịnh, trăm họ yên vui.

Sau này, để ghi nhớ công lao của đấng Tổ tiên, người dân nơi đây dựng lăng, lập miếu thờ để con cháu đời đời ghi nhớ. Bởi thế ngôi đền Kinh Dương Vương tại thôn Á Lữ, thiết kế thờ cả tam vị Thánh Tổ (Thủy Tổ Kinh Dương Vương; Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ).

Hiện cả giới sử gia, chưa xác định được ngôi đền thờ tam vị Thánh Tổ có từ bao giờ, chỉ biết nó được trùng tu, tôn tạo lại thời Lê-Trịnh (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XVII). Sau đó, đến thời vua Gia Long, trùng tu lại đền Kinh Dương Vương.

Năm 1940, vua Bảo Đại tôn tạo hai đại tự “Nam Tổ Miếu” (thờ Thủy Tổ) và Thần Truyền, Thành Kê (thờ các vị thánh, thần).

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều có chung nhận định lăng và đền thờ Kinh Dương Vương phải có từ trước đó rất lâu, bởi nơi đây vẫn đang lưu dấu tích xưa, như: những sắc phong, thần phả, câu đối, đồ thờ… từ các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc và Nguyễn.

Theo ông Nguyễn Bá Khải, Phó Chủ tịch UBND xã Đại Đồng Thành, kiêm Trưởng ban quản lý Lăng và đền Kinh Dương Vương, hiện xã còn lưu giữ 18 sắc phong, trong đó có hai sắc phong đời Trần và 16 sắc phong triều Nguyễn. Ngoài ra, còn có một số đồ vật được các đời vua Nguyễn dâng lên tổ tiên, như: Bát đời vua Lê, mâm đồng…

Sẽ thành điểm du lịch văn hóa - lịch sử

Con trai của kinh dương vương là ai

Cổng đền thờ Kinh Dương Vương có bốn chữ Hán đắp nổi THỦY TỔ ĐÀI MÔN (cửa đền thờ Đức Thủy Tổ).

Từ Đền Kinh Dương Vương, qua bên kia bờ đê, là Lăng Kinh Dương Vương, tựa vào đê, phía trước là dòng sông Đuống “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”, và bên kia sông là chùa Phật Tích.

Lăng Thủy Tổ Kinh Dương Vương không rõ được xây dựng từ bao giờ, hiện chỉ còn bia đá đề bốn chữ Hán: Kinh Dương Vương Lăng, thể hiện được trùng tu thời Minh Mạng nhà Nguyễn năm 1840. Trên lăng có hai chữ Hán: Bất Vong (không bao giờ mất).

Ngoài ra, khu lăng còn có khá nhiều câu đối, như: Thần Nông tứ thế phân/Việt Nam sơ đầu xuất (Thế hệ thứ tư của vua Thần Nông/Nước Việt Nam bắt đầu xuất hiện); Vạn cổ giang sơn tư duy tổ/Nhất khâu phong vũ ngật hồng bi (Hàng vạn năm cháu con quy về miếu Tổ/Một nấm mồ phong ba bão táp vẫn ửng hồng)…

Năm 2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, về dâng hương tại đền và lăng, để lại bút tích: “Tôi nhiệt liệt hoan nghênh và trân trọng cám ơn nhân dân và lãnh đạo địa phương đã giữ gìn, tôn tạo một di tích lịch sử, một trong những cội nguồn dân tộc để đời đời con cháu mai sau chiêm ngưỡng, học tập”.

Hiếm có nơi nào như đất Thuận Thành, Bắc Ninh, chỉ gọn trong một huyện, có đến ba thủy tổ: Kinh Dương Vương, vua Thủy Tổ; Sĩ Nhiếp, Thủy Tổ sự học; chùa Dâu, Tổ chùa của Phật giáo Việt Nam.

Năm 2004, ông Nguyễn Khoa Điềm, khi đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, cũng ghi bút tích đề nghị tỉnh Bắc Ninh, huyện Thuận Thành, có kế hoạch, đề nghị trung ương “nâng cấp cơ sở thờ tự của tổ tiên khang trang, vững chắc, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân cả nước”. Nhưng đến nay, khu di tích vẫn còn khá sơ sài.

Con trai của kinh dương vương là ai

Ông Biện Xuân Phẩm, giới thiệu chiếc bát từ thời vua Lê - Chúa Trịnh dâng lễ tại đền.

Ông Lê Đình Thanh, Chủ tịch UBND huyện Thuận Thành, cho biết: Hiện tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt quy hoạch khu quần thể di tích Kinh Dương Vương, với diện tích khoảng 30 hec-ta. Có thể sẽ làm cầu hoặc cầu treo nối từ Lăng Kinh Dương Vương sang chùa Phật Tích (huyện Tiên Du), để kết nối, tạo thành các điểm du lịch văn hóa-lịch sử thu hút khách thập phương. Từ đó để người dân Việt Nam biết thêm một địa danh lịch sử, ở đó có vua Thủy Tổ Việt Nam.

Hàng năm, người dân thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành đều tổ chức lễ hội Kinh Dương Vương. Lễ hội chính được tổ chức vào ngày 18 tháng Giêng (ngày mất của Kinh Dương Vương).

Dân làng cùng khách thập phương tổ chức dâng hương, tế lễ tại đền và lăng. Nhiều hoạt động văn hóa, thể thao được tổ chức như đấu vật, cờ tướng, chọi gà, tổ chức biểu diễn các loại hình nghệ thuật, hát dân ca quan họ Bắc Ninh…

Năm nay, lần đầu tiên tỉnh Bắc Ninh đứng ra chỉ đạo tổ chức lễ hội, diễn ra trong ba ngày từ 16 đến 18 tháng Giêng, lễ dâng hương chính thức vào ngày 17 tháng Giêng.

Theo Chủ tịch UBND huyện Thuận Thành Lê Đình Thanh, đây là dịp để chúng ta tưởng nhớ và tri ân vua Thủy Tổ Việt Nam, thể hiện niềm tự hào dân tộc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, từ đó nhận thức rõ trách nhiệm lớn lao xây dựng quê hương, đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Lâu nay, theo truyền thuyết thì người sinh ra các vua Hùng là Lạc Long Quân và người sinh ra Lạc Long Quân là Kinh Dương Vương. Vậy ai sinh ra Kinh Dương Vương?

GiadinhNet - Lâu nay, theo truyền thuyết thì người sinh ra các vua Hùng là Lạc Long Quân và người sinh ra Lạc Long Quân là Kinh Dương Vương. Vậy ai sinh ra Kinh Dương Vương?

Gọi Vua Hùng là “Quốc tổ” thì gọi Kinh Dương Vương là gì? Hơn nữa phải có dân rồi mới có vua, gọi vua là “tổ” có thực đúng không? Đó là những băn khoăn của ông Trần Quốc Thịnh, người đã có một số công trình nghiên cứu về văn hóa ở Bắc Ninh...


Chúng tôi tìm về thôn Thất Giang, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh tìm gặp ông Trần Quốc Thịnh (nguyên chuyên viên Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Hà Bắc cũ, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Giang) – người đưa ra những băn khoăn trên. Ông Thịnh băn khoăn nếu cho rằng Hùng Vương là “Quốc tổ” thì không biết xếp Lạc Long Quân, Kinh Dương Vương vào bậc gì. “Từ thuở nhỏ, ở lớp Vỡ lòng các thày cô đã dạy cho tôi về lịch sử Việt Nam. Theo đó, Kinh Dương Vương sinh ra Lạc Long Quân rồi Lạc Long Quân mới sinh ra Vua Hùng. Vậy bây giờ gọi Vua Hùng là “tổ” thì gọi các vị kia là gì?”, ông Thịnh đặt vấn đề.

Theo ông Thịnh, có lẽ vì trong sử liệu còn có nhiều điểm chưa thống nhất nên việc gọi tên và phong danh cho các vị vua thuộc họ Hồng Bàng có nhiều điểm bất cập. Có thể đây là các nhân vật huyền thoại nhưng rõ ràng tên tuổi những nhân vật đó vẫn hiện hữu trên các di tích và sống trong tâm thức người Việt. Bên cạnh đó, một điểm rất bất hợp lý là hiện nay, cả Lạc Long Quân lẫn Hùng Vương đều được gọi là “tổ”. Như vậy đã phù hợp chưa? Cả cha và con cùng là “tổ” thì quả là một sự bất hợp lý về thứ bậc.

Còn một vấn đề khác, đó là việc phong “Quốc tổ” cho Vua Hùng, Lạc Long Quân hay thậm chí Kinh Dương Vương đi nữa, cũng là chưa thỏa đáng. Bởi lẽ, ông Thịnh cho rằng Kinh Dương Vương không phải là người sinh ra nòi giống Việt, mà chỉ là vị vua đầu tiên của nước ta. Với ý nghĩa này thì nên cách gọi Ngài là Vương Thủy tổ thì hợp lý hơn.

Con trai của kinh dương vương là ai

Gian thờ trong khu lăng mộ.


Kinh Dương Vương sinh ra ở Bắc Ninh?


Trong cuốn “Danh nhân lịch sử Kinh Bắc” của mình, ông Trần Quốc Thịnh cho rằng Kinh Dương Vương là người bộ lạc Dâu, cư trú tại địa bàn phía Nam sông Đuống, tỉnh Bắc Ninh ngày nay. Không chỉ Kinh Dương Vương mà cả Lạc Long Quân cũng từng sinh, trưởng tại vùng đất này. Có lẽ một trong những căn cứ để ông Thịnh nhận định Kinh Dương Vương từng sinh sống tại Bắc Ninh là do đến nay, ngôi đền thờ cùng lăng mộ vị của vị vua này hiện vẫn còn tồn tại ở làng Á Lữ,  xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành (Bắc Ninh). Khu di tích đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (cũ) công nhận là Di tích quốc gia năm 2008.

Lăng mộ Kinh Dương Vương nằm ở ngoài đê sông Đuống, trên một diện tích đất rất rộng khoảng trên 20.000m2. Theo một thông tin thì vào khoảng năm 1949, khu lăng mộ và đền thờ đã bị thực dân Pháp phá huỷ, đến năm 1971 mới được phục dựng lại. Hiện nay tại đây vẫn còn lưu giữ được tấm bia đá, phía trên bia trang trí hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh trang trí hoa dây cách điệu, phía dưới là hình sóng nước. Trong lòng bia được khắc chìm 19 chữ. Chính giữa là bốn chữ Kinh Dương Vương lăng. Bia có niên đại năm Minh Mệnh 21 (1840). Còn ở khu đền thờ, ngoài thờ Kinh Dương Vương còn thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ. Đền thờ hiện lưu giữ nhiều đạo sắc phong có niên đại từ năm 1810 đến 1924 và một bức đại tự có chữ Đại Nam tổ miếu.


Khu di tích sạch sẽ nhưng lại khá hiu quạnh. Ông Vương Hữu Thông, người trông coi ngôi đền cho biết, vào năm 2000 khu di tích được tỉnh đầu tư sửa sang một lần, từ đó đến nay không có gì cả. Dù cũng có nhiều đoàn khách đến thăm, nhưng di tích vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng tầm của nó. Ngay cả Lễ hội tưởng nhớ Kinh Dương Vương vào ngày 18/1 âm lịch hàng năm, phần lớn cũng là do dân làng tự tổ chức. Là người trông coi di tích, ông Thông không khỏi chạnh lòng. Theo ông Thông thì cần có sự quan tâm, đầu tư hơn nữa để khu di tích xứng với vai trò, tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của thời đại các Vua Hùng. “Từ năm 2009, cả nước đã góp giỗ trong ngày Giỗ tổ Vua Hùng, việc này thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn của cả dân tộc, đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, nếu xét theo lịch sử, Kinh Dương Vương còn là ông nội của Hùng Vương. Việc phải quan tâm đến Ngài về đạo lý cũng là điều nên làm”, ông Thông nói.

Còn ông Trần Quốc Thịnh cũng cho rằng, Kinh Dương Vương phải được tôn sùng hơn nữa vì là Ngài vị vua đầu tiên có danh vị trên địa phận Việt Nam.

Con trai của kinh dương vương là ai


Không nên hiểu là giỗ vị tổ đầu tiên


Trước các băn khoăn trên, GS sử học Phan Huy Lê cho rằng, lịch sử bất cứ nước nào cũng bắt đầu từ kho tàng huyền thoại và truyền thuyết. Kinh Dương Vương hay Lạc Long Quân, Âu Cơ đều là nhân vật huyền thoại. Việc ghi nhớ đến những nhân vật này là sự tưởng niệm đến nguồn gốc xa xưa của tổ tiên, của cội nguồn dân tộc. Việc tìm thấy những khu lăng mộ cũng đều là chứng tích của những huyền thoại được các thế hệ về sau lịch sử hoá. Ví dụ như cột đá thề trên đền Thượng của Đền Hùng được nhân dân ta gắn với truyền thuyết Thục Phán thề nguyền khi được vua Hùng nhường ngôi. Thực ra, thông qua các mộng ghép của cột, các nhà khoa học chứng minh rằng chiếc cột đá đó có niên đại gần đây, do ai đó lấy từ một kiến trúc đá đem về dựng lên bên đền Thượng để cụ thể hóa một truyền thuyết. Một số huyền thoại thường được lịch sử hoá là chuyện bình thường, nằm trong quy luật lưu truyền và phát triển của loại hình văn hóa dân gian. Sử học mới chỉ chứng minh được thời kỳ Hùng Vương là có thật theo ý nghĩa là thời kỳ hình thành nhà nước đầu tiên trong lịch sử, dù còn sơ khai, phôi thai. Trong lịch sử của bất cứ một quốc gia - dân tộc nào trên thế giới thời cổ đại, đều có hai mốc lịch sử quan trọng. Thứ nhất là sự xuất hiện của con người trên lãnh thổ nước đó, mốc mở đầu lịch sử gắn liền với cuộc sống của con người. Thứ hai là sự hình thành nhà nước đầu tiên khi cư dân nước đó bắt đầu tập hợp lại thành cộng đồng quốc gia, mở đầu lịch sử dựng nước và giữ nước. “Thời Hùng Vương là mốc thứ hai và do đó, không nên hiểu Giỗ tổ Hùng Vương là giỗ của vị tổ đầu tiên của người Việt, của dân tộc Việt Nam”, GS Phan Huy Lê nói.

Theo GS Phan Huy Lê, trước thời Hùng Vương, khảo cổ học đã phát hiện được rất nhiều di tích thời đại đồ đá và đồ đồng, chứng tỏ cách ngày nay hàng vạn năm, trên lãnh thổ nước ta đã tồn tại và phát triển cuộc sống con người thời tiền nhà nước. Đó là thời tiền sử theo cách gọi của khảo cổ học và sử học. Những huyền thoại, truyền thuyết thời trước Hùng Vương phản ánh lịch sử thời tiền sử, trong đó có sự xuất hiện của con người và nguồn gốc của tổ tiên. Truyện Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân- Âu Cơ là huyền thoại phản ánh cội nguồn của dân tộc.

Kinh Dương Vương là ông nội Hùng Vương?


Hiện nay, các tài liệu nghiên cứu về giai đoạn thời Hồng Bàng có nhiều điểm chưa tương đồng. Một số cuốn sách khi đề cập tới cội nguồn của người Việt, đất nước Việt Nam ngày nay đều bắt đầu bằng việc nhắc tới Kinh Dương Vương nhưng thông tin về xuất thân của vị vua này gần như không có gì. Tuy nhiên tại Lăng Kinh Dương Vương ở Bắc Ninh có ghi: “Kinh Dương Vương tên huý là Lộc Tục, là bậc thánh trí có tư chất thông minh, tài đức hơn người, sức khoẻ phi thường. Kinh Dương Vương hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất (2879 Tr.CN), đặt quốc hiệu là Xích Quỷ (tên một vì sao có sắc đỏ rực rỡ), đóng đô ở Hồng Lĩnh (nay là Ngàn Hống, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh). Sau đó dời đô ra Ao Việt (Việt Trì). Kinh Dương Vương lấy thần Long sinh ra Lạc Long Quân (huý là Sùng Lãm). Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra 100 con. Con cả là Hùng Quốc Vương. Kinh Dương Vương tạ thế ngày 18/1(không ghi năm – PV) tại trang Phúc Khang, bộ Vũ Ninh (Bắc Ninh ngày nay).

Cũng có cuốn sách ghi, vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông. Đế Minh truyền ngôi cho 2 con trai là Đế Nghi và Lộc Tục. Đế Nghi làm vua phương Bắc, Lộc Tục làm vua phương Nam. Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy con gái của Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi và xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ và đẻ ra một trăm người con. Lạc Long Quân phong cho con trai cả làm vua và đóng đô ở đất Phong Châu (Phú Thọ ngày nay), lấy hiệu là Hùng Vương.

Như vậy, chỉ có một điểm tương đối thống nhất về Kinh Dương Vương, đó là xét về mặt thứ bậc, Ngài là ông nội của Vua Hùng.

Có bao nhiêu đời Hùng Vương?

Con trai của kinh dương vương là ai

Ông Trần Quốc Thịnh

Theo cuốn Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim thì họ Hồng Bàng làm Vua được 18 đời, đến năm Quý Mão (258 trước TL) thì bị nhà Thục lấy mất nước. Tuy nhiên theo truyền thuyết thì từ Kinh Dương Vương đến đời Hùng Vương cuối cùng có tới 20 vị vua. Tuy nhiên, một số tư liệu khác lại cho rằng có tới 19 đời Hùng Vương, gồm cả Kinh Dương Vương.


Đại Việt sử ký toàn thư thì chỉ ghi Kinh Dương Vương là đời vua thứ nhất, sinh ra Lạc Long Quân, Lạc Long Quân sinh ra Hùng Vương. Hùng Vương truyền được 18 đời. Nhìn chung, thông tin về các đời vua Hùng hiện chưa thống nhất.


Nếu tạm coi các Hùng Vương truyền ngôi được 18 đời, thì tên các vua Hùng được một số các sách ghi lại như sau: 1. Hùng Vương (tức Kinh Dương Vương Lộc Tục); 2. Hùng Hiền (tức Lạc Long Quân Sùng Lãm); 3. Hùng Lân; 4. Hùng Việp; 5. Hùng Hy; 6. Hùng Huy; 7. Hùng Chiêu; 8. Hùng Vỹ; 9. Hùng Định; 10. Hùng Hy; 11. Hùng Trinh; 12. Hùng Võ; 13. Hùng Việt; 14. Hùng Anh; 15. Hùng Triều; 16. Hùng Tạo; 17. Hùng Nghị; 18. Hùng Duệ.

Ông Trần Quốc Thịnh cho rằng, cúng giỗ vua Hùng là chúng ta tri ân vị vua tổ thứ 3 của người Việt thời dựng nước, có công sáng lập nước Văn Lang truyền 18 đời vua. Ông Thinh đưa ra luận điểm: 99 người em của vua không phải do vua Hùng sinh ra thì vua Hùng nên được gọi là “Bác tổ” mới phải. Cúng giỗ vua Hùng ở Phú Thọ xong, lẽ ra chúng ta phải tổ chức lễ hành hương về làng Á Lữ lễ Vương Thuỷ tổ Kinh Dương Vương, Âu Cơ và Vương Thế tổ Lạc Long Quân ở xã An Bình - Thuận Thành, tri ân những người sinh ra Hùng Vương. Như vậy mới là đúng với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”!