Đảng ta chủ trương phát triển quan hệ sản xuất bằng cách nào

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật phổ biến và có tác động mạnh mẽ đến cuộc sống của con người. Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có mối quan hệ thống nhất và chặt chẽ. Đó là quan hệ tương tác giữa hai bộ phận cấu thành trong một chỉnh thể của phương thức sản xuất. Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất còn quan hệ sản xuất là hình thái xã hội của sự tồn tại, phát triển của phương thức sản xuất.

Quy luật này là điều kiện tất yếu cho sự phát triển của kinh tế – xã hội. Do vậy việc nghiên cứu quy luật này là vô cùng quan trọng. Vì vậy em xin được mạnh dạn chọn đề bài: “Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay”.

Danh mục tài liệu tham khảo:

  • Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin [Giành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh], Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2009.
  • Giáo trình Triết học Mác – Lê nin, [Dùng trong các trường Đại học cao đẳng], Bộ Giáo dục và đào tạo, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, 2008.
  • Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam, Lê Hữu Nghĩa, Bài trích, Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Số 7/2014, trang 63 – 69.
  • Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong đặc trưng kinh tế của Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng, Trần Văn Phòng, Lý luận Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Số 9/2013, trang 32-37.
  • Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Lê Văn Dương, Triết học, Viện Triết học, Số 1/2002, trang 5 – 9.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên trong quá trình sản xuất, nó thể hiện năng lực chinh phục tự nhiên của con người.

Bất kỳ một quá trình sản xuất vật chất nào cũng cần phải có các nhân tố thuộc về người lao động, [như năng lực, kỹ năng, tri thức,… của người lao động] cùng các tư liệu sản xuất nhất định [như đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất,…]. Toàn bộ các nhân tố đó tạo thành lực lượng sản xuất của các quá trình sản xuất.

Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố người lao động là nhân tố giữ vai trò quyết định. Bởi vì, suy đến cùng thì các tư liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất. phụ thuộc vào trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động.

Mặt khác, trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới tự nhiên.

Lực lượng sản xuất là nhân tố cơ bản tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản xuất; không một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra thiếu một trong hai nhân tố người lao động và tư liệu sản xuất. Thế nhưng chỉ có lực lượng sản xuất vẫn chưa thể diễn ra quá trình sản xuất hiện thực được mà cần phải có những quan hệ sản xuất đóng vai trò là hình thức xã hội của quá trình sản xuất ấy.

Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay

Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất.

Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.

Quan hệ sản xuất bao gồm 3 mặt: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất [Quan hệ sở hữu], Quan hệ về tổ chức quản lý quá trình sản xuất, Quan hệ về phân phối sản phẩm [là sự thể hiện việc phân chia các lợi ích kinh tế từ sản xuất cho đến người tham gia sản xuất.

Trong ba mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho từng quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng hư các quan hệ xã hội khác.

Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên có trường hợp, quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.

Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, nên nó tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.

Ba mặt trên của quan hệ sản xuất tác động lẫn nhau trong đó qua hệ sở hữu quyết định các mặt còn lại. Đồng thời quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối tác động trở lại quan hệ sở hữu theo hai hướng tích cực và tiêu cực.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật

Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.

Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động.

Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kĩ năng lao động của con người , trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.

Gắn liền với trình độ lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.

Sự vận động, phát triển quá trình sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động và tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.

Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở nên không phù hợp. Khi đó quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kiềm hãm lực lượng sản xuất phát triển.

Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất, tác động đến thái độ con người trong lao động sản xuất, đến tổ chức phản công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,… và do đó tác đọng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác Động trong toàn bộ quá trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển của lịch sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.

Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển

 Sự vận dụng sai lầm trước năm 1986

Sau khi kháng chiến giành thắng lợi, nước ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong kinh tế. Nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn trong một thời gian dài. Lực lượng sản xuất có trình độ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, ít ỏi với hình ảnh quen thuộc là “con trâu đi trước cái cày đi sau”, người lao động mặc dù cần cù nhưng còn hạn chế về kĩ thuật.

Nông nghiệp bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, công nghiệp kém đa dạng chủ yếu là thủ công nghiệp và một số ngành công nghiệp nhẹ. Thương nghiệp kém phát triển, đặc biệc việc giao lưu buôn bán với nước ngoài hết sức hạn hẹp.

Rơi vào tình trạng như vậy là do sự sai lầm trong chính sách của Đảng là nhà nước ta trong quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Đó là đối với những cá thể sản xuất nhỏ không được tư hữu về tư liệu sản xuất mà trong sản xuất sở hữu công cộng trở chiếm đa số, người lao động bị tách khỏi tư liệu sản xuất , không được làm chủ quá trình sản xuất, phụ thuộc vào lãnh đạo hợp tác xã, họ cũng không phải là chủ thể sở hữu thực sự, làm cho kinh tế kém phát triển.

Kinh tế quốc doanh lại được thiết lập tràn lan, mặc dù theo pháp luật thì người dân là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra nhưng trên thực tế thì người lao động chỉ là những người làm công ăn lương, trong khi đó chế độ lương mỗi người lao động được nhận lại vô cùng ít và cũng không phụ thuộc vào khối lượng sản phẩm làm được.

Vì vậy người lao động mất dần tính chủ động, sáng tạo, mất động lực lợi ích, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả nhưng không ai chịu trách nhiệm, không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm, nên người lao động thờ ơ với kết quả hoạt động của mình.

Đây là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối, chỉ có một số người có quyền quyết định phân phối vật tư, vật phẩm, đặc quyền đặc lợi.

Hiện nay Đảng ta đang tích cực vận dụng quy luật này một cách đúng đắn hơn để đẩy mạnh kinh tế phát triển.

Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay

 Thực trạng lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn. Từ năm 1986 đến nay tình hình kinh tế nước ta đã có sự biến đổi về lực lượng sản xuất. Cụ thể như sau:

Người lao động nước ta không ngừng được nâng cao về cả chất lượng và số lượng. Năm 2005, dân số lao động hoạt động kinh tế ở nước ta là 42,53 triệu người, chiếm 51,2 tổng số dân, mỗi năm nước ta có thêm khoảng 1 triệu lao động. Về chất lượng lao động, nếu như năm 1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3% thì đến năm 2005 là 25%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần,…

Số lao động có chuyên môn kĩ thuật đang làm việc trong các đơn vị sản xuất kinh doanh chiếm khoảng 21% so với tổng số lao động trong cả nước. Đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ tính riêng số sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng tăng nhanh. Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209 trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thông, 226 trường dân tộc nội trú được mở.

Mặc dù chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của đất nước. So với yêu cầu hiện nay lực lượng lao động có trình độ vẫn còn mỏng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật lành nghề còn thiếu nhiều, 75% lao động nước ta vẫn là lao động chưa qua đào tạo.

Các loại máy móc, trang thiết bị được sử dụng rộng rãi trong các ngành kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên nhìn chung công cụ lao động của nước ta vẫn còn lạc hậu so với thế giới. Máy móc phục vụ cho sản xuất vẫn còn chậm cải tiến, chủng loại máy móc nhìn chung khá nghèo nàn.

Như vậy, lực lượng sản xuất ngày càng phát triển song ở các trình độ không đều khiến cho nền kinh tế ước ta mặc dù đã phát triển theo hướng tích cực hơn trước nhưng vẫn chưa ổn định và còn nhiều hạn chế.

Thực trạng các quan hệ sản xuất ở Việt Nam hiện nay

Trước hết cần khẳng định: quan hệ sản xuất chúng ta thiết lập và xây dựng là quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường và theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính xác hơn là quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì chúng ta chưa thực sự có chủ nghĩa xã hội mà mới đang trên đường xây dựng nó.

Sự sở hữu tư liệu sản xuất còn chưa đồng đều trong nhân dân dẫn đến sự phân hóa giàu nghèo càng trở nên sâu sắc, tạo nên sự phân tầng xã hội về mặt kinh tế trong đó tầng lớp trên chiếm tỉ trọng lớn tài sản và các ưu thế kinh tế và tầng lớp dưới chiếm một tỉ trọng nhỏ các tài sản và một phần nhỏ các ưu thế kinh tế.

Nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh đa dạng, phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân , kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan hệ sản xuất tư bản, manh mún của quan hệ sản xuất phong kiến… được công nhận.

Quan hệ sản xuất được xây dựng và hoàn thiện bao gồm cả Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đại diện cho định hướng đi lên Chủ nghĩa xã hội trình độ cao, Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa – thấp hơn…

Kết luận về sự vận dụng này

Như vậy, trong thời kỳ này, nhà nước ta đã biết áp dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất đã đem lại nhiều tín hiệu tích cực cho nền kinh tế nước nhà, đó là sự tăng nhanh về năng suất, chất lượng sản phẩm, khiến cho Tổng sản phẩm trong nước mỗi năm tăng cao, Việt Nam từ một nước thiếu ăn với nền kinh tế chậm phát triển đã vươn lên thành một nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới cũng như là một nước có nền kinh tế đang phát triển.

Các quan hệ sản xuất ở trình độ khác nhau được thiết lập đa dạng hóa các hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đã từng bước tạo nên sự phù hợp với trình độ phát triển không đồng đều về mọi yếu tố trong kết cấu của lực lượng sản xuất.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật

Một số phương hướng để tiếp tục vận dụng quy luật này

Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất

Điều đầu tiên mà chúng ta cần thực hiện để tiếp tục vận dụng tốt quy luật này chính là nâng cao chất lượng, trình độ người lao động bằng cách mở các trường lớp đào tạo ngành nghề, đầu tư phát triển giáo dục. Tập trung vào việc đào tạo các ngành nghề có nhu cầu lớn trong xã hội, chú trọng nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao động. Quan tâm, học hỏi chất lượng đào tạo nước ngoài.

Đồng thời, cải tạo các loại máy móc, dây chuyền sản xuất để nâng cao năng suất, khối lượng sản phẩm. Nhà nước cần quan tâm đầu tư ứng dụng khoa học – kĩ thuật vào trong sản xuất cũng như việc nghiên cứu, sáng chế, mua các thiết bị, máy móc sản xuất hiện đại.

Phương hướng hoàn thiện các quan hệ sản xuất

Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, thúc đẩy cơ cấu lại nền doanh nghiệp, và điều chỉnh chiến lược thị trường. Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau.

Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, khuyết tật của cơ chế thị trường…

Mặc dù quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đem lại cho ta những lợi ích, hiệu quả lớn trong sự phát triển kinh tế của đất nước nhưng nếu áp dụng không đúng cách sẽ gây sai lầm. Chính vì vậy chúng ta cần hiểu biết rõ quy luật để biết áp dụng một cách đúng đắn.

Trên đây là những hiểu biết của em về đề bài. Mặc dù đã có nhiều cố gắng tìm tòi kiến thức nhưng chắc chắn vẫn còn nhiều thiếu sót. Mong thầy cô góp ý để bài làm của em được hoàn chỉnh hơn.

Trên đây là toàn bộ thông tin mà chúng tôi cung cấp đến bạn về vấn đề: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay. Để được tư vấn cụ thể hơn bạn vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn luật trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy.

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề