Đánh giá vai trò của nguyễn ái quốc đối với cách mạng việt nam 1919-1930

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam 1919 - 1930?

Mục lục nội dung
  • 1. Câu hỏi
  • 2. Trả lời
Mục lục bài viết

Câu hỏi

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam 1919 - 1930?

Trả lời

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam 1919 - 1930 là:

  • Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc
  • Nguyễn Ái Quốc đã chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự thành lập Đảng
  • Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên

Ghi nhớ:

Từ năm 1911 đến năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lenin và tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam: con đường cách mạng vô sản.

Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội liên hiệp thuộc địa ở Pari. Tháng 6/1923, Người sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế Nông dân. Tháng 7/1924, Người dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V. Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu.

Năm 1929, ở Việt Nam ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở Việt Nam, sự hoạt động riêng rẽ của cả ba tổ chức này gây ảnh hưởng rất lớn tới cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức và chủ trì thống nhất ba tổ chức thống nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trên đây là đáp án và giải thích chi tiết cho câu hỏiVai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam 1919 - 1930? giúp các em ôn tập kiến thức. Để luyện tập thêm, các em có thể tham gia làm bài tập trắc nghiệm sử 9 với các câu hỏi hay đã được ĐọcTàiLiệu biên soạn hoặc có thể tham khảo thêm một số câu hỏi tiếp theo:

Các câu hỏi liên quan

  • Công lao to lớn đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1920-1930 là gì?
  • Công lao lớn nhất của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam là gì?

Chúc các em học tập tốt và đạt được những kết quả cao.

Cập nhật ngày 05/06/2020 - Tác giả: Thanh Long

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng

Cập nhật: Thứ ba , 02/02/2021 21:26

Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên gieo hạt giống Mác – Lênin trên đất nước Việt Nam, làm cho cách mạng Việt Nam nở hoa kết quả. Người đã sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và dày công đào tạo cho Đảng ta một đội ngũ cán bộ ưu tú, chăm lo xây dựng Đảng ta thành một khối đoàn kết, thống nhất, vững mạnh.

Bến cảng Nhà rồng - nơi Bác Hồ rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh tư liệu

Từ khi còn ít tuổi, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã đau xót trước cảnh đồng bào sống dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến. Trước hoàn cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lầm than, đói rét, với khát vọng giải phóng dân tộc, ngày 05/6/1911, Người đã rời Bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn – Gia Định sang phương Tây để học tập kinh nghiệm cách mạng để “về giúp đồng bào”.

Nguyễn Ái Quốc ở Pháp năm 1920
Suốt nhiều năm bôn ba, Người đã đặt chân đến nhiều nước, tiếp xúc với nhiều lớp người, thuộc nhiều dân tộc khác nhau. Hướng đi của Người trước hết là sang Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân. Cuộc tìm kiếm lịch sử và cuộc hành trình ra thế giới đã mở rộng nhận thức của Người về vấn đề dân tộc và con người. Người đã thấy không chỉ dân tộc mình mất tự do mà nhiều dân tộc khác cũng “cùng chịu chung một nỗi đau khổ: sự bạo ngược của của chế độ thực dân”[1] và không chỉ đồng bào mình bị đối xử như nô lệ mà nhân dân lao động các nước khác không kể chủng tộc, màu da hay quốc tịch cũng “đều là nạn nhân của một kẻ sát nhân: chủ nghĩa tư bản đế quốc”[2], Người nhận xét: “Vậy là dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà cũng chỉ có mỗi một tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”[3]. Có thể nói, nhận thức đó đã bổ sung thêm tiêu chuẩn cho Người trong sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, con đường đó phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người không chỉ cho dân tộc và con người Việt Nam mà cho tất cả các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động bóc lột trên toàn thế giới.
Cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917.

Năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, đây là sự kiện rung chuyển thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử loại người. Cuộc cách mạng này đưa học thuyết của C.Mác từ sách vở trở thành hiện thực đầu tiên, đưa cách mạng thế giới bước sang thời đại mới, thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội. Cùng thời điểm đó, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Với hành trang chủ nghĩa yêu nước – nhân văn truyền thống và với những nhận thức mới về dân tộc và con người, đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Tháng 6/1919, các nước thắng trận họp Hội nghị hòa bình ở Vécxây [Pháp], Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách của những người An Nam, bản yêu sách gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam, đây là lần đầu tiên những quyền lợi cơ bản, chính đáng, thiết thực của nhân dân Việt Nam được nêu ra trong diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, bản yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ ““chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn”. Từ thực tiễn đó, Người càng khẳng định ý tưởng phải giải quyết vấn đề dân tộc và con người theo một học thuyết khoa học – cách mạng khác học thuyết tư sản và bằng một con đường cách mạng triệt để. Trong quá trình hoạt động, tư tưởng và lý luận của Người đã hướng đến sự thành công củaCách mạng Tháng Mười Nga và Chủ nghĩa Mác Lênin.

Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp được tổ chức ở
thành phố Tua[nước Pháp], tháng 12/1920.

Tháng 7/1920, tại thủ đô Pa-ri nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã được đọc bản “Sơ thảo luần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo L’Humanite [Nhân đạo], số ra ngày 16 và 17/7/1920, Người đã đọc đi đọc lại nhiều lần và qua lăng kính chủ nghĩa yêu nước chân chính, Người tìm thấy ở đó con đường đúng đắn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của thực dân sau gần mười năm tìm kiếm. Để nói lên niềm vui và hạnh phúc của Bác khi bắt gặp Luận cương của Lênin, trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước” nhà thơ Chế Lan Viên đã viết “…Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc: Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!”. Bằng trí tuệ thiên tài và quá trình hoạt động cách mạng của Người, vượt qua sự hạn chế trong chủ nghĩa yêu nước của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin và đi vào con đường cách mạng vô sản. Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp [12/1920], tại Đại hội, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba [Quốc tế Cộng sản do V.I.Lênin thành lập]. Đây là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập của Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc, từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Từ một người yêu nước chân chính, Người đã trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, những năm hoạt động trong phong trào cộng sản, phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, học tập kinh nghiệm của Đảng Cộng sản, kinh nghiệm của Liên Xô - quê hương Cách mạng tháng Mười, Người đã tích lũy được những kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn phong phú, và hình thành dần dần đường lối cứu nước. Người đi đến khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Công lao vĩ đại đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin”. Được chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng, Nguyễn Ái Quốc “vụt lớn lên, ngang tầm sứ mệnh của con người làm ra lịch sử”[4].
Nguyễn Ái Quốc và Báo Le Paria [Người cùng khổ].
Trong những năm hoạt động ở nước ngoài, tâm hồn và nghị lực của Nguyễn Ái Quốc luôn hướng về Tổ quốc Việt Nam, luôn ở bên cạnh đồng bào. Tên đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tờ báo “Người cùng khổ” và cuốn sách “Bản án chế độ thực dân Pháp” nhắc lại thời kỳ hoạt động cách mạng rất có ý nghĩa của Người. Người tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng mọi khả năng, mọi hình thức để dìu dắt phong trào cách mạng trong nước, để động viên và cổ vũ các tầng lớp nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và thanh niên, đứng lên đấu tranh; mặt khác Người tích cực tố cáo, lên án bản chất bóc lột của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân thuộc địa và kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng. Người tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước, đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam nhằm chuẩn bị các tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời chính đảng tiên phong ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin đến với nhân dân Việt Nam như đến với “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”, chủ nghĩa Mác - Lênin lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi vào con đường cách mạng vô sản và làm dấy lên khắp trong nước một làn sóng dân tộc và dân chủ mạnh mẽ, trong đó giai cấp công nhân đã trở thành một lực lượng chính trị độc lập. Sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng mang tính thời đại của Nguyễn Ái Quốc, với phong trào đấu tranh quyết liệt của giai cấp công nhân liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân, cùng với phong trào yêu nước của một dân tộc đang sục sôi cách mạng đã dẫn đến việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ký họa Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 2-1930.
[Nguồn ảnh: baoapbac.vn]

Mùa Xuân năm 1930, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 03/02/1930 Người đã chủ trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Đông dương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng do Người trực tiếp soạn thảo như: Chánh cương vắn tắt; Sách lược vắn tắt; Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đây là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của nước ta, trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ta. Đó là “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đường lối ấy gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế chân chính, gắn cách mạng Việt Nam với trào lưu cách mạng vô sản. Đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình thành, con đường cứu nước của Việt Nam đã được Người vạch ra, sự đúng đắn ngay từ đầu của Nguyễn Ái Quốc đã được quá trình cách mạng khảo nghiệm và khẳng định. Từ đó, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mở ra thời đại mới, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam./.
CN. Văn Thị Như Quỳnh
Trường Chính trị Hoàng Đình Giong tỉnh Cao Bằng

[1], [2] Hồ Chí Minh toàn tập, t.1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.191.200.
[3] Hồ Chí Minh Sách đã dẫn, t.1.tr.266, 191, 416.
[4] Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh – một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, tr.14.

Tags:

Nguyễn Ái Quốc và sự ra đời của báo chí cách mạng Việt Nam

[ĐCSVN] - Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, lịch sử nhân loại chứng kiến một sự kiện có tính bước ngoặt đối với sự phát triển của thế giới: Thắng lợi vang dội của cách mạng Tháng Mười Nga mở ra thời đại mới: Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Bác Hồ với các phóng viên báo chí. [Ảnh tư liệu]

Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, các nước thắng trận họp Hội nghị hoà bình tại cung điện Versailles ở Thủ đô nước Pháp để phân chia lại thị trường và vùng ảnh hưởng trên thế giới. Nhưng tất cả các cường quốc đều cố tình lờ đi vấn đề khôi phục hay ít ra là nới rộng quyền cơ bản của nhân dân các nước thuộc địa mà họ đã không ít lần lớn tiếng hứa hẹn khi chiến tranh còn chưa phân thắng bại. Tại Hội nghị này, họ đã phớt lờ bản yêu sách đòi các quyền dân sinh dân chủ tối thiểu do Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước gửi đến.

Ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa nhân dân với chủ nghĩa thực dân và tay sai phong kiến ngày càng gay gắt. Các phong trào yêu nước do các tầng lớp sỹ phu, trí thức, tiểu tư sản lãnh đạo đều bị đàn áp dã man và lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Giai cấp công nhân Việt Nam từng bước lớn mạnh sẵn sàng đảm đương sứ mệnh lịch sử là lãnh đạo cách mạng. Tình hình trên đòi hỏi truyền bá một cách có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin. Học thuyết cách mạng chân chính vào Việt Nam; vận động, tổ chức đẩy mạnh phong trào yêu nước và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, tích cực chuẩn bị các tiền đề chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một Đảng cách mạng, một tổ chức tiên phong đại diện lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho toàn dân tộc. Lịch sử dân tộc Việt Nam đòi hỏi và trên thực tế đã hình thành những tiền đề cần thiết cho sự ra đời một tờ báo cách mạng chân chính. Trong bối cảnh của Việt Nam vào thời điểm này, người gánh trách nhiệm lịch sử đưa ra chủ trương xuất bản tờ báo này phải là người cách mạng, hiểu sâu sắc vai trò của báo chí cách mạng và chỉ có thể xuất bản và lưu hành bí mật ngoài vòng pháp luật của thực dân Pháp. Sứ mệnh lịch sử này đã được nhà yêu nước, người cộng sản Việt Nam đầu tiên nhận trách nhiệm thực hiện.

Trên con đường đi tìm đường cứu nước cứu dân, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu sự nghiệp báo chí của mình từ cuối năm 1917 khi Người từ Anh trở lại Pháp và sau đó tham gia Đảng xã hội Pháp. Động cơ làm báo lúc này của Người là phát biểu chính kiến của mình trên các phương tiện thông tin đại chúng ngay tại nước Pháp để đấu tranh cho đội lập tự do cho dân tộc mình. Lúc đầu vốn tiếng Pháp của Người còn chưa đủ. Người phải nhờ một người bạn là luật sư Phan Văn Trường viết hộ. Không phải lúc nào ông bạn cũng nói hết hoặc nói đúng ý của Người. Nguyễn Ái Quốc hiểu chỉ có một cách là tự mình phải viết lấy để diễn đạt đầy đủ ý kiến của mình. Được sự khuyến khích của Charles Longuet, cháu ngoại của C.Mác, chủ nhiệm báo Lepopulaire [Người bình dân] cơ quan của Đảng xã hội Pháp thời kỳ này và của Gaston Monmousseau chủ bút báo La Vie Ouvrière [Đời sống thợ thuyền] Nguyễn Ái Quốc đã đi vào con đường báo chí. Sau này, Bác Hồ đã kể lại kinh nghiệm làm báo của mình như sau: “Lúc ở Pari, tuy biết nhiều tội ác của thực dân Pháp, nhưng không biết làm thế nào để nêu lên được. Một đồng chí công nhân ở toà báo Đời sống thợ thuyền cho Bác biết ở báo ấy có mục “tin tức vắn” mối tin chữ năm, ba dòng thôi và bảo Bác có tin tức gì thì cứ viết, đồng chí ấy sẽ sửa lại cho. Từ đó ngoài những giờ lao động, Bác bắt đầu viết những tin rất ngắn, mỗi lần viết làm hai bản, một bản đưa cho báo, một bản thì giữ lại. Lần đầu tiên thấy tin đã được đăng thì rất sung sướng. Mỗi lần đều đem tin đã đăng trên báo so với bài mình đã viết, xem sai chỗ nào. Về sau đồng chí ấy bảo Bác viết dài thêm vài dòng nữa, rồi lại vài dòng nữa… cứ thế kéo dài 15, 20 dòng, rồi đến cả một cột dài. Lúc đó đồng chí ấy lại bảo: “Thôi bây giờ phải viết rút ngắn lại, cũng những việc như vậy nhưng phải viết cho rõ, cho gọn”[1]”.

Bài báo đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc mà ngày nay chúng ta được biết là một bài luận chiến sắc sảo với tiêu đề: “Tâm địa thực dân”. Bài báo đã phê phán những luận điệu xuyên tạc của một nhà báo Pháp ở Đông Dương. Từ năm 1919, nhiều tờ báo ở Pháp trong đó có những tờ nổi tiếng như: L’Humanité, Lepopulaire, La Vie Ouvrière, Le journal purple [Báo của dân], Le cahiers du communisme [Tạp chí cộng sản], La Correspondance internationale [Thư tín quốc tế]… đã đăng nhiều bài của Nguyễn Ái Quốc.

Tháng 7/1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà hoạt động cách mạng ở các nước thuộc địa khác của Pháp như Angieri, Tuynidi, Mangát, Máctinie, Marốc, lập Hội liên hiệp thuộc địa và xuất bản báo Le Paria [Người cùng khổ] làm cơ quan tuyên truyền của Hội. Số 1 ra ngày 1/4/1922. Những bài đăng trên tờ báo này đã biểu hiện tài năng báo chí và văn học của Nguyễn Ái Quốc. Sau một năm phát hành tờ Người cùng khổ và đang phát triển tốt đẹp, Nguyễn Ái Quốc dự định xuất bản một ấn phẩm định kỳ bằng tiếng Việt nhằm phục vụ kiều bào ta nơi đất khách. Người dự định đặt tên cho tờ báo này là Việt Nam hồn. Tờ Việt Nam hồn chưa kịp ra mắt thì Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô. Tờ Việt Nam hồn đã được các bạn của Người thực hiện. Tờ Việt Nam hồn cũng được gửi về phát hành ở Việt Nam. Khi bắt đầu bước vào nghề báo, Nguyễn Ái Quốc chưa tới tuổi ba mươi. Từ năm 1923 đến 1924, khi học tập công tác ở Liên Xô, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc làm cộng tác viên của hãng thông tấn Liên Xô và tờ tiếng Anh: Canto Gazette – Cơ quan của quốc dân Đảng Trung Quốc. Từ những bước tập viết những tin ngắn bốn, năm dòng lúc đầu, chỉ vài năm sau, Người đã sử dụng thuần thục ngòi bút của mình giữa làng báo Pari, tạo nên những tác phẩm báo chí cho đến nay vẫn còn là mẫu mực. những chủ đề khi Nguyễn Ái Quốc mới bước vào nghề đề cập thời kỳ này là những vấn đề hệ trọng đến sự tồn vong của dân tộc và đụng chạm đến nhiều nhân vật và sự kiện tầm cỡ quốc tế.

Trong các tác phẩm đầu tay của mình, Người đã vận dụng nhuần nhuyễn lý luận cách mạng. Các bài báo của Người thời kỳ này đã thể hiện rõ một căn bản trí thức sâu rộng. Nguyễn Ái Quốc đã để lại nhiều bài luận chiến ngôn từ sắc bén, lập trường vững chắc, nhiều tiểu phẩm chua cay đối với kẻ thù. Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản 1925 là một tác phẩm lớn mang tính tố cáo đanh thép đối với chế độ thực dân dựa trên những tư liệu đầy sức thuyết phục, không những có giá trị cao về chính trị - lý luận mà còn có giá trị cao về báo chí, văn học! Nguyễn Ái Quốc là một nhà báo như vậy, khi Người chuẩn bị cho sự ra đời của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Cuối 1924, quốc tế cộng sản phái Nguyễn Ái Quốc sang công tác ở Trung Quốc theo đúng nguyện vọng của Người được gần với Tổ quốc để có điều kiện hoạt động hơn tiến tới thành lập Đảng cộng sản Việt Nam là mục đích cao nhất của Người đặt ra trong thời điểm này.

Thời gian này, với cương vị uỷ viên Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam, là nhà yêu nước có sự hiểu sâu sắc văn hoá Đông Tây, là nhà cách mạng thấm nhuần sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một người từng nhiều năm làm báo và hiểu rõ sức mạnh của báo chí. Nguyễn Ái Quốc rất tâm đắc những tư tưởng của Lênin về báo chí: “Trong thời đại ngày nay, không có tờ báo chính trị thì không thể có phong trào gọi là chính trị”, “chúng ta cần trước hết là tờ báo, không có nó thì không thể tiến hành một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền, cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện”[2] “Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung”[3].

Cuối năm 1924, khi về đến Quảng Châu - Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc bắt tay ngay vào việc chuẩn bị xuất bản một tờ báo chính trị đồng thời với việc mở những lớp huấn luyện các thanh niên ưu tú đưa từ trong nước sang để làm nòng cốt cho cách mạng sau này.

Nguyễn Ái Quốc cùng một số đồng chí là học trò của Người thực hiện công việc trọng đại này trên căn gác nhỏ ở khu phố buôn bán sầm uất ở trung tâm Quảng Châu. Căn gác này cũng là nơi thành lập và là trụ sở của Hội Việt Nam cách mạng. Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận và đấu tranh của Tổ chức này.

Báo ra hàng tuần có khuôn khổ 19x13cm, ra mỗi kỳ 2 trang, có số 4 trang. Báo có các mục sau: xã luận, bình luận, diễn đàn Phụ nữ, phê bình, tin tức, thơ ca, vấn đáp, trả lời bạn đọc, việc làm.

Báo Thanh niên đảm trách nhiệm vụ cơ bản là tuyên truyền tôn chỉ và mục đích của Tổng bộ Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Thông qua những bài viết để trình bày có hệ thống một số vấn đề cơ bản về đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam, về chủ nghĩa Mác-Lênin, kêu gọi đồng bào Việt Nam trong và ngoài nước ra sức đoàn kết chiến đấu chống chủ nghĩa đế quốc giành lại độc lập dân tộc. Báo in trên chất liệu giấy sáp rồi được chuyển bí mật về nước. Ở Việt Nam các tờ báo Thanh niên được các cơ sở cách mạng chép tay thành nhiều bản rồi chuyền tay nhau cho các đồng chí của mình đọc và truyền đạt tới nhân dân. Số đầu của tờ Thanh niên xuất bản ngày 21/6/1925 và tiếp tục xuất bản đều đặn hàng tuần. Với gần 90 số, báo Thanh niên đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tuyên truyền Đường Kách mệnh, kêu gọi nhân dân đoàn kết đấu tranh, góp phần tích cực chuẩn bị về mặt lý luận chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một dòng báo chí mới ÷ Báo chí cách mạng Việt Nam.

Sau báo Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc lập ra báo Kông nông [1926], Báo Đường Kách mệnh [1927]. Ngày 1/10/1929, Báo Búa liềm, cơ quan ngôn luận của Đông Dương cộng sản Đảng ra số đầu tiên. Tháng 8/1929, chi bộ An Nam cộng sản ở Thượng Hải ra báo Đỏ viết tay trên giấy sáp. Kể từ tờ Thanh niên mở đường, đến cuối năm 1929, báo chí cách mạng Việt Nam đã có trên 50 tờ báo và tạp chí là cơ quan của các cấp Hội của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng và 2 tổ chức cộng sản là Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng. Ngày 3/2/1930, tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, dưới sự chủ trì của Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thông qua nghị quyết về kế hoạch thành lập một Đảng cộng sản chân chính. Trong mục q của nghị quyết này ra nghị quyết về báo chí với các nội dung sau:

1. Bỏ những tờ báo do Đông Dương cộng sản Đảng và An Nam cộng sản Đảng xuất bản trước đây.

2. Ban Trung Ương có thể xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền.

3. Bỏ những tờ báo của các hội quần chúng do Đảng chỉ đạo.

4. Duy trì tất cả những tờ báo do quần chúng chủ trương[4]

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, báo chí cách mạng Việt Nam từ tờ báo đầu tiên - báo Thanh niên xuất bản ngày 21/6/1925, qua mỗi thời kỳ cách mạng 1925-1930, 1930-1945, 1945-1954, 1954-1975, 1975-1986, 1986-đến nay, đều có sự phát triển mạnh mẽ. Đến nay là một hệ thống quốc gia các cơ quan thông tin đại chúng gồm nhiều loại hình, ở nhiều cấp, thuộc nhiều cơ quan chủ quản, xuất bản bằng tiếng Việt và tiếng các dân tộc thiểu số, bằng ngoại ngữ với những chức năng và nhiệm vụ hết sức đa dạng, nhằm nhiều loại đối tượng và sử dụng nhiều công nghệ hiện đại.

Ngày nay với trên 600 cơ quan báo chí với tất cả các loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử đều tiếp cận công nghệ làm báo hiện đại để đưa thông tin báo chí lên các hạ tầng, nền tảng truyền thông hiện đại, với gần 20.000 nhà báo có bản lĩnh chính trị, có đạo đức và nghiệp vụ báo chí, Báo chí cách mạng Việt Nam là một nền báo chí kiểu mới, do Đảng cộng sản tổ chức lãnh đạo, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng chính trị tư tưởng. Đó là nền báo chí vừa là cơ quan ngôn luận của các tổ chức trong hệ thống chính trị vừa là diễn đàn của Nhân dân.

Đây thực sự là nền báo chí của Nhân dân, vì lợi ích cao cả của nhân dân mà hoạt động và chịu sự giám sát của Nhân dân. Rất đỗi tự hào trước những trưởng thành và cống hiến to lớn trong lịch sử 96 năm qua, hơn 20.000 nhà báo Việt Nam tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống bút sắc, lòng trong tâm sáng, ra sức phấn đấu xây dựng nền báo chí Việt Nam cách mạng, chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại, hiệu quả - là người tuyên truyền, cổ động, tổ chức chung góp phần hiện thực hóa thắng lợi khát vọng 2045: Việt Nam thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.


[1] Hồ Chí Minh toàn tập. NXB chính trị quốc gia - Hà Nội 2011. Tập 12. Trang 168

[2] Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam [1925-2010] NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2013. Trang 46.

[3] Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh: Bàn về báo chí, xuất bản. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2004. Trang 366.

[4] Văn kiện Đảng toàn tập. NXB chính trị quốc gia. Hà Nội 2002. Tập 2. Trang 12,13.

PGS.TS Đào Duy Quát - Nguyên Phó Trưởng ban thường trực Ban Tư tưởng – Văn hóa TW

Vai trò của Nguyễn Ái Quốc với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam

Ngày đăng: 06/08/2016 03:00
Mặc định Cỡ chữ

Cuối thế kỷ XIX, sau khi xâm lược Việt Nam, thực dân Pháp bắt tay thực thi các chính sách thực dân hà khắc, biến nước ta từ một nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp tháng 12-1920, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp: Ảnh Tư liệu

Sự thống trị tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho mâu thuẫn dân tộc diễn ra hết sức gay gắt. Hàng loạt phong trào yêu nước theo các khuynh hướng khác nhau liên tiếp nổ ra nhằm giải quyết mâu thuẫn chủ yếu đó, tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết khởi xướng; phong trào Đông Du của Phan Bội Châu; phong trào cải cách của Phan Chu Trinh, khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo... Các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc tuy diễn ra quyết liệt, nhưng cuối cùng đều bị thất bại vì thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn, thiếu một tổ chức lãnh đạo có khả năng tập hợp sức mạnh của toàn dân tộc.

Xuất phát từ lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, mang trong mình những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước. Với nhiều nghề lao động khác nhau để mưu sinh, tìm hiểu nền văn minh phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh và nhiều nước thuộc địa của đế quốc, thực dân, Người đã rút ra một kết luận quan trọng: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo, độc ác và ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.

Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 thành công, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động chính trị. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đảng Xã hội Pháp - một chính đảng tiến bộ nhất lúc đó ở Pháp. Người đã thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây bản yêu sách tám điểm[1]. Tuy những yêu sách của Người không được Hội nghị đáp ứng nhưng đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ: “Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn”[2].

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên báo L'Humanite [Nhân đạo], số ra ngày 16 và 17/7/1920. Những luận điểm cách mạng của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Lý luận của V.I. Lênin và lập trường đúng đắn của Quốc tế Cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là cơ sở để Người xác định thái độ ủng hộ việc gia nhập Quốc tế Cộng sản tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng Xã hội Pháp [tháng 12/1920]. Tại Đại hội này, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ ba [Quốc tế Cộng sản do Lênin thành lập]. Đây cũng là sự kiện Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam, đánh dấu bước chuyển biến quyết định trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc - từ lập trường yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản. Sự kiện đó cũng mở ra cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam một giai đoạn phát triển mới - “giai đoạn gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân Việt Nam đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác -Lênin”[3]. Nguyễn Ái Quốc từ người tìm đường trở thành người dẫn đường cho cách mạng Việt Nam, với những đóng góp to lớn có tính quyết định cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã chuẩn bị các tiền đề tốt nhất về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của Đảng.

Về tư tưởng: Xác định vị trí, vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, giác ngộ nhân dân, giữa năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng của các nước thuộc địa khác thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, sau đó sáng lập tờ báo “Le Paria” [Người cùng khổ] vào ngày 01/4/1922. Người viết nhiều bài báo tố cáo chế độ áp bức của bọn thực dân phong kiến đăng trên các báo Nhân đạo, Đời sống công nhân, Tạp chí Cộng sản, tập san Thư tín quốc tế... Năm 1922, Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp được thành lập, Nguyễn Ái Quốc được cử làm Trưởng Tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương. Người đã góp phần quan trọng vào việc tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp ở các thuộc địa, chỉ rõ bản chất, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới nhằm kêu gọi, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đấu tranh giải phóng dân tộc.

Đặc biệt, Người đã dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Mác - Lênin, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa những người cộng sản và nhân dân lao động Pháp với các nước thuộc địa và phụ thuộc. Nét đặc sắc trong việc nghiên cứu, tuyên truyền và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam là Người không sao chép nguyên văn các tác phẩm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà có sự vận dụng phương pháp biện chứng duy vật để phân tích xã hội thuộc địa, chỉ ra mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với đế quốc xâm lược; xây dựng nên một lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và truyền bá vào Việt Nam. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc cho rằng: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời kỳ mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thức của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử. Nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại. Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông. Đó chính là nhiệm vụ mà các Xôviết đảm nhiệm”[4]:

Về chính trị: Từ thực tiễn lịch sử phong trào cách mạng của thế giới lúc bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc khẳng định con đường cách mạng của các dân tộc bị áp bức “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Mặt khác, Người nhấn mạnh đặc điểm của một nước thuộc địa như Việt Nam: “Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”, xác định cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng chính quốc có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.

Người chỉ rõ: trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng: "công nông là gốc của cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ... là bầu bạn cách mệnh của công nông". Do vậy, Người xác định: cách mạng "là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người", cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.

Lý luận về Đảng Cộng sản, Người khẳng định: cách mạng muốn giành được thắng lợi "trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"[5].

Những quan điểm đó được truyền bá qua Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, từng bước được chuyển tải về trong nước [qua phong trào vô sản hóa từ năm 1928-1929] làm cho phong trào công nhân và các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển biến mạnh mẽ.

Về tổ chức: Sau một năm rưỡi hoạt động ở Liên Xô, tháng 11/1924 Người quyết định về Quảng Châu [Trung Quốc] - nơi có rất đông người Việt Nam yêu nước hoạt động để xúc tiến các công việc tổ chức thành lập chính đảng mác xít. Tháng 2/1925, Người lựa chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã, lập ra nhóm Cộng sản đoàn. Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu [Trung Quốc], nòng cốt là Cộng sản đoàn. Hội đã công bố chương trình, điều lệ của Hội với mục đích: để làm cách mệnh dân tộc [đập tan bọn Pháp và giành độc lập cho xứ sở] rồi sau đó làm cách mạng thế giới [lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản]. Về tổ chức gồm 5 cấp: tổng bộ, xứ [kỳ] bộ, tỉnh bộ, huyện bộ và chi bộ. Sau khi thành lập đã mở lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Ngoài ra, ban lãnh đạo Hội còn cử người đi học trường Đại học Cộng sản phương Đông [Liên Xô], trường Quân chính Hoàng Phố [Trung Quốc]. Để tuyên truyền, Hội cho xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ, ra được 208 số.

Tháng 7/1925, Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông [cùng với một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia...]. Năm 1927, các bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được Hội cho xuất bản lấy tên là Đường kách mệnh. Đây là cuốn sách giáo khoa chính trị đầu tiên của cách mạng Việt Nam do chính Người viết đồng thời làm giảng viên, trong đó tầm quan trọng của lý luận cách mạng được đặt ở vị trí hàng đầu đối với cuộc vận động cách mạng và đối với đảng cách mạng tiên phong.

Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở ở trong nước; đầu năm 1927 các kỳ bộ được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây dựng cơ sở trong bà con Việt kiều ở Thái Lan.

Tuy Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên chưa phải là chính đảng cộng sản nhưng chương trình hành động đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân, là tổ chức tiền thân dẫn tới sự ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Hội là tổ chức trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và cũng là sự chuẩn bị quan trọng về tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Những hoạt động của Hội có ảnh hưởng và thúc đẩy mạnh mẽ sự chuyển biến của phong trào công nhân, phong trào yêu nước Việt Nam những năm 1928-1929 theo khuynh hướng cách mạng vô sản.

Sau khi lựa chọn được con đường cứu nước - con đường cách mạng vô sản cho dân tộc Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện “lộ trình”: “...đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập"[6]. Trong những năm tháng đầy cam go, hiểm nguy, thử thách, với khát vọng cháy bỏng giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã hoạt động tích cực, khẩn trương và đầy sáng tạo chuẩn bị những tiền đề về tư tưởng, chính trị, tổ chức để dẫn tới ra đời các tổ chức cộng sản ở Việt Nam -đẩy bánh xe lịch sử của cách mạng Việt Nam phù hợp với xu thế tiến bộ của lịch sử. Đúng như một tờ báo nước ngoài đã nhận định về Người: “con người đó đã đóng một vai trò lịch sử vô cùng to lớn trong vòng hơn 50 năm nay. Người đã làm lay chuyển hệ thống thực dân. Người đã góp phần biến đổi bản đồ thế giới. Người đã đẩy bánh xe lịch sử theo hướng tiến bộ. Cả ba đặc điểm đó thể hiện khái quát một trong những đường lối chiến đấu hoàn hảo nhất của thời đại chúng ta”[7].

Những hoạt động tích cực của các cấp bộ trong tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên trên cả nước đã có tác dụng thúc đẩy phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, nâng cao ý thức giác ngộ và lập trường cách mạng của giai cấp công nhân. Những cuộc đấu tranh của thợ thuyền khắp ba kỳ với nhịp độ, quy mô ngày càng lớn, nội dung chính trị ngày càng sâu sắc. Số lượng các cuộc đấu tranh của công nhân trong năm 1928 - 1929 tăng gấp 2,5 lần so với năm 1926-1927[8].

Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân ngày càng lên cao, nhu cầu thành lập một chính đảng cách mạng có đủ khả năng tập hợp lực lượng toàn dân tộc và đảm nhiệm vai trò lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc ngày càng trở nên bức thiết đối với cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng Việt Nam, tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không còn thích hợp và đủ sức lãnh đạo phong trào. Trong bối cảnh đó, tháng 3/1929, những người lãnh đạo kỳ bộ Bắc Kỳ [Trần Văn Cung, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu...] họp tại số nhà 5D phố Hàm Long, Hà Nội, quyết định lập Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.

Đầu tháng 5/1929, tại Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên do Tổng hội triệu tập tại Hương Cảng, kiến nghị của đoàn đại biểu kỳ bộ Bắc Kỳ về việc giải tán Hội để thành lập Đảng cộng sản không đựợc chấp nhận. Đoàn đại biểu kỳ bộ Bắc Kỳ đã rút khỏi Đại hội. Sau khi về nước, đoàn đại biểu Bắc Kỳ đã giải thích lý do thoát ly Đại hội và khẳng định đã có đủ những điều kiện để thành lập chính đảng cách mạng. Ngày 17/6/1929, hơn 20 đại biểu của các tổ chức cộng sản ở Bắc Kỳ họp tại số nhà 312 phố Khâm Thiên [Hà Nội] quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng; thông qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ; lấy cờ đỏ búa liềm là Đảng kỳ và quyết định xuất bản báo "Búa Liềm" làm cơ quan ngôn luận.

Trước ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng, kỳ bộ Nam Kỳ quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng [tháng 11/1929], xuất bản tờ báo "Đỏ" làm cơ quan ngôn luận.

Dưới sự tác động và ảnh hưởng mạnh mẽ của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, tại Trung Kỳ, Tân Việt cách mạng Đảng [một tổ chức thanh niên yêu nước - lúc đầu gọi là Hội Phục hưng Việt Nam, gọi tắt là Phục Việt] đã đi theo khuynh hướng cách mạng vô sản, thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào đầu năm 1930 tại Hà Tĩnh.

Sự ra đời ba tổ chức cộng sản trên cả nước diễn ra trong vòng nửa cuối năm 1929 và đầu năm 1930 đã khẳng định bước tiến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam theo khuynh hướng cách mạng vô sản, phù hợp với xu thế và nhu cầu bức thiết của lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, sự ra đời của ba tổ chức cộng sản ở ba miền [đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế Cộng sản, kêu gọi Quốc tế Cộng sản thừa nhận tổ chức của mình và đều tự nhận là đảng cách mạng chân chính] không tránh khỏi phân tán về lực lượng và thiếu thống nhất về tổ chức trên cả nước. Đặc biệt, cuối năm 1929 đã xảy ra tình trạng hai tổ chức: Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng tranh chấp ảnh hưởng trong quần chúng, bài xích lẫn nhau và mỗi tổ chức đều muốn đứng ra thống nhất các tổ chức cộng sản. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản nêu rõ nhiệm vụ của những người cộng sản Đông Dương [theo tài liệu ghi ngày 27/10/1929 của Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản Đông Dương]: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức duy nhất ở Đông Dương"[9].

Trước nhu cầu cấp bách của phong trào cách mạng trong nước, với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng [Trung Quốc] triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản lại thành một chính đảng duy nhất của Việt Nam. Trong Báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản, ngày 18/02/1930 Nguyễn Ái Quốc viết: "Tôi cố gắng đi lần thứ ba khi một đồng chí từ Hồng Kông tới Xiêm và tin cho tôi biết tình hình Hội An Nam Thanh niên cách mạng bị tan rã; những người cộng sản chia thành nhiều phái.v.v...

Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó vào ngày 23/12. Sau đó, tôi triệu tập các đại biểu của hai nhóm [Đông Dương và An Nam] chúng tôi họp vào ngày mồng 6/1. Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì. Họ đồng ý thống nhất vào một đảng. Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của Quốc tế Cộng sản... Các đại biểu trở về An Nam ngày 8/2"[10].

Tham dự Hội nghị có các đồng chí Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh, đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng, Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm, đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản[11].

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc nêu ra năm điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là "Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương"[12]. Hội nghị thảo luận, tán thành ý kiến chỉ đạo của Nguyễn Ái Quốc, hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị quyết định chủ trương xây dựng các tổ chức công hội, nông hội, hội phản đế và xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ báo tuyên truyền của Đảng.

Trước khi kết thúc, Hội nghị thông qua Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam gửi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, quần chúng bị áp bức, nói rõ mục đích của việc thành lập Đảng, kêu gọi mọi người gia nhập Đảng, ủng hộ Đảng và đi theo Đảng để thực hiện các nhiệm vụ được nêu ra trong Hội nghị thành lập Đảng.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc có giá trị như một đại hội Đảng. Những văn kiện được thông qua trong Hội nghị hợp nhất dù “vắn tắt”, nhưng đã phản ánh những vấn đề cơ bản trước mắt và lâu dài cho cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam sang một bước ngoặt lịch sử vĩ đại.

Tổ chức Đông Dương Cộng sản liên đoàn [tổ chức cộng sản được thành lập ở Trung Kỳ] đến ngày 24/02/1930 xin gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng tiên tiến của thời đại với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng đường lối cứu nước ở Việt Nam trong mấy chục năm qua.

Đây là khâu chuẩn bị quan trọng đầu tiên cho một thời kỳ đấu tranh mới trong lịch sử dân tộc, vạch ra phương hướng phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng XHCN. Đường lối đó là kết quả của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản và thực tiễn cách mạng Việt Nam. Những văn kiện đó được xem là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho con đường cách mạng của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đó là cương lĩnh cách mạng đầu tiên, đúng đắn và sáng tạo của Đảng có tác dụng chỉ đạo xuyên suốt đường lối cách mạng Việt Nam, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác./.

Nguyễn Minh Tuấn - Viện trưởng Viện Xây dựng đảng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

---------------------------------

Ghi chú:

[1], [2], [4], [6] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.2000, tr.435-436; tr.416; tr.465; tr.192.

[3] Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do tiến lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H.1976, tr.8.

[5] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2000, t.2, tr.267-268

[7] Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch, tập 3, Nxb Sự thật, H.1970, tr.115.

[8] Xem: Ngô Văn Hòa, Dương Kinh Quốc: Giai cấp công nhân Việt Nam những năm trước khi thành lập Đảng, Nxb KHXH, H.1978, tr.335.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H.1998, tr.614.

[10], [12] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.1998, tr.19-20; tr.2.

[11] Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng [9/1960] quyết nghị "... từ nay sẽ lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng".

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Video liên quan

Chủ Đề