Điểm giống nhau giữa hình thức độc quyền cácten và xanhđica là

. Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền 

Có thể khái quát một số đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc 

quyền như sau: 

a) Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền 

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền. 

Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào 

trong tay một phần lớn (thậm chí toàn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép 

liên minh này phát huy ảnh hưởng quyết định đến quá trình sản xuất và lưu 

thông của ngành đó. 

Những liên minh độc quyền, thoạt đầu hình thành theo sự liên kết ngang, tức là 

sự liên kết những doanh nghiệp trong cùng ngành, dưới những hình thức cácten, 

xanhđica, tờrớt. 

Cácten là hình thức tổ chức độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp định giữa các 

xí nghiệp thành viên để thoả thuận với nhau về giá cả, quy mô sản lượng, thị

trường tiêu thụ, kỳ hạn thanh toán... còn việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm vẫn 

do bản thân mỗi thành viên thực hiện. 

Xanhđica là hình thức tổ chức độc quyền trong đó việc tiêu thụ sản phẩm do 

một ban quản trị chung đảm nhiệm, nhưng sản xuất vẫn là công việc độc lập của 

mỗi thành viên. 

Cácten và xanhđica dễ bị phá vỡ khi tương quan lực lượng thay đổi. Vì vậy, 

một hình thức độc quyền mới ra đời là tờrớt. Tờrớt thống nhất cả việc sản xuất và 

tiêu thụ vào tay một ban quản trị chung, còn các thành viên trở thành các cổ 

đông. 

Tiếp đó, xuất hiện sự liên kết dọc, nghĩa là sự liên kết không chỉ những xí 

nghiệp lớn mà cả những xanhđica, tờrớt... thuộc các ngành khác nhau nhưng có liên 

quan với nhau về kinh tế và kỹ thuật, hình thành các côngxoócxiom. 

Từ giữa thế kỷ XX phát triển một kiểu liên kết mới - liên kết đa 

ngành - hình thành những cônglômêrat (conglomerat) hay consơn (concern) 

khổng lồ thâu tóm nhiều công ty, xí nghiệp thuộc những ngành công nghiệp rất 

khác nhau, đồng thời bao gồm cả vận tải, thương mại, ngân hàng và các 

dịch vụ khác, v.v.. 

Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, các tổ 

chức độc quyền có khả năng định ra giá cả độc quyền. Giá cả độc quyền là giá cả 

hàng hóa có sự chênh lệch rất lớn so với giá cả sản xuất. Họ định ra giá cả độc 

quyền cao hơn giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ bán ra và giá cả 

độc quyền thấp dưới giá cả sản xuất đối với những hàng hóa mà họ mua, trước hết 

là nguyên liệu. Qua đó họ thu được lợi nhuận độc quyền. 

Tuy nhiên, giá cả độc quyền không thủ tiêu được tác động của quy luật giá 

trị và quy luật giá trị thặng dư. Vì xét toàn bộ xã hội thì tổng giá cả vẫn bằng 

tổng số giá trị và tổng lợi nhuận vẫn bằng tổng giá trị thặng dư trong các nước tư 

bản chủ nghĩa. Những thứ mà các tổ chức độc quyền kếch xù thu được cũng là 

những thứ mà các tầng lớp tư sản vừa và nhỏ, nhân dân lao động ở các nước tư bản 

chủ nghĩa và nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mất đi. 

b) Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính 

Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức 

độc quyền trong ngân hàng. Từ chỗ làm trung gian trong việc thanh toán và tín 

dụng, nay do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở 

thành người có quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế - xã hội. 

Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp 

vay và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong 

một thời gian dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm 

đến hoạt động của nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ đó hình thành một loại tư 

bản mới gọi là tư bản tài chính. 

Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc 

quyền ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp. 

Bọn đầu sỏ tài chính (trùm tư bản tài chính) thiết lập sự thống trị của mình 

thông qua "chế độ tham dự". Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tư bản tài 

chính hoặc một tập đoàn tài chính, nhờ nắm được số cổ phiếu khống chế mà chi 

phối được công ty gốc hay "công ty mẹ", rồi qua công ty mẹ chi phối các công ty 

phụ thuộc hay các "công ty con", các công ty này lại chi phối các "công ty cháu" 

v.v.. Bởi vậy, với một số tư bản nhất định, một trùm tư bản tài chính có thể chi phối 

được những lĩnh vực sản xuất rất lớn. 

c) Xuất khẩu tư bản 

Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngoài để thực hiện giá trị và 

giá trị thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư 

bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập 

khẩu tư bản đó. 

Xuất khẩu tư bản trở thành tất yếu, vì trong những nước tư bản chủ nghĩa 

phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và nảy sinh tình trạng "thừa 

tư bản". Tình trạng thừa này không phải là thừa tuyệt đối, mà là thừa tương đối, 

nghĩa là không tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao ở trong nước. Tiến bộ kỹ 

thuật ở các nước này đã dẫn đến tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản và hạ thấp tỷ suất 

lợi nhuận; trong khi đó, ở những nước kém phát triển về kinh tế, nhất là ở các 

nước thuộc địa, dồi dào nguyên liệu và nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu vốn và 

kỹ thuật. 

Do tập trung trong tay một khối lượng tư bản khổng lồ nên việc xuất khẩu tư 

bản ra nước ngoài trở thành một nhu cầu tất yếu của các tổ chức độc quyền. 

Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu 

tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa 

tư bản ra nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản 

gián tiếp là cho vay để thu lợi tức. 

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra 

nước ngoài, là công cụ chủ yếu để bành trướng sự thống trị của tư bản tài chính ra 

toàn thế giới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu tư bản, về khách quan có những tác 

động tích cực đến nền kinh tế các nước nhập khẩu, như thúc đẩy quá trình 

chuyển kinh tế tự cung tự cấp thành kinh tế hàng hóa, thúc đẩy sự chuyển biến từ 

cơ cấu kinh tế thuần nông thành cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp, mặc dù cơ 

cấu này còn què quặt, lệ thuộc vào kinh tế của chính quốc.

d) Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền 

quốc tế 

Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến 

việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, 

phân chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị 

trường tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước 

ngoài trở nên gay gắt. Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức 

độc quyền có sức mạnh kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt 

giữa chúng, tất yếu dẫn đến xu hướng thoả hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị 

độc quyền của chúng trong những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó 

hình thành các liên minh độc quyền quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia… 

e) Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc 

Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư 

bản độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là “siêu 

lợi nhuận độc quyền” do có những điều kiện thuận lợi mà tại chính quốc không 

có được như nguồn nguyên liệu dồi rào giá rẻ hoặc lấy không, giá nhân công rẻ 

mạt…Do đó luôn diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền 

thuộc các quốc gia khác nhau. Điều này đòi hỏi có sự can thiệp của nhà nước 

nhằm giúp cho các tổ chức độc quyền của nước mình giành giật thị trường và 

môi trường đầu tư nhằm thu được siêu lợi nhuận độc quyền ở ngoại quốc. Sự can 

thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một nước đế quốc chủ nghĩa. 

Như vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị 

ở nước ngoài của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước. 

Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu 

hiện trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống 

thuộc địa của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền 

của tư bản độc quyền. 

Lợi ích của việc xuất khẩu tư bản thúc đẩy các cường quốc tư bản đi xâm 

chiếm các nước khác và lập nên hệ thống thuộc địa, vì trên thị trường thuộc địa dễ 

dàng loại trừ được các đối thủ cạnh tranh, dễ dàng nắm được độc quyền nguyên 

liệu và thị trường tiêu thụ. Đối với tư bản tài chính, không phải chỉ những nguồn 

nguyên liệu đã được tìm ra mới có ý nghĩa, mà cả những nguồn nguyên liệu có 

thể tìm được cũng rất quan trọng, do đó tư bản tài chính có khuynh hướng mở 

rộng lãnh thổ kinh tế và thậm chí cả lãnh thổ nói chung. Chủ nghĩa tư bản phát 

triển càng cao, nhu cầu nguyên liệu càng lớn, sự cạnh tranh càng gay gắt thì cuộc 

đấu tranh để giành giật thuộc địa giữa chúng càng quyết liệt. 

Bước vào thế kỷ XX, việc phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các đế quốc 

tư bản ra đời sớm đã hoàn thành. Nhưng sau đó các đế quốc ra đời muộn hơn đấu 

 96tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc Chiến tranh 

thế giới lần thứ nhất 1914 - 1918 và lần thứ hai 1939 - 1945, và những xung đột 

nóng ở nhiều khu vực trên thế giới… 

1. Nguyên nhân hình thành tư bản độc quyền và bản chất của chủ 

nghĩa tư bản độc quyền 

a) Nguyên nhân hình thành tư bản độc quyền 

Theo Lênin "tự do cạnh tranh đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản 

xuất này, khi phát triển tới một mức độ nhất định, lại dẫn tới độc quyền"1

Sự độc quyền hay sự thống trị của tư bản độc quyền là cơ sở của chủ nghĩa 

tư bản độc quyền. Sự xuất hiện của tư bản độc quyền do những nguyên nhân chủ 

yếu sau đây: 

Một là, sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác dụng của tiến bộ khoa 

học - kỹ thuật, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới mà ngay từ đầu đã là 

những ngành có trình độ tích tụ cao. Đó là những xí nghiệp lớn, đòi hỏi những 

hình thức kinh tế tổ chức mới. 

Hai là, cạnh tranh tự do, một mặt, buộc các nhà tư bản phải cải tiến kỹ thuật, 

tăng quy mô tích luỹ; mặt khác, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, trình độ kỹ 

thuật kém hoặc bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên kết với nhau để 

đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, xuất hiện một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa 

vị thống trị một ngành hay trong một số ngành công nghiệp. 

Ba là, khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản; 

một số sống sót phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi khủng hoảng, do đó thúc đẩy 

quá trình tập trung sản xuất. Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn 

bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất. 

Bốn là, những xí nghiệp và công ty lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục cạnh 

tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì thế nảy sinh xu hướng 

thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức độc quyền. 

b) Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền 

Chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do phát triển đến độ nhất định thì xuất hiện 

các tổ chức độc quyền. Lúc đầu tư bản độc quyền chỉ có trong một số ngành, một 

số lĩnh vực của nền kinh tế. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế của các tổ chức độc 

quyền cũng chưa thật lớn. Tuy nhiên, sau này, sức mạnh của các tổ chức độc quyền 

đã được nhân lên nhanh chóng và từng bước chiếm địa vị chi phối trong toàn nền 

kinh tế. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn phát triển mới - chủ nghĩa tư bản 

độc quyền. 

Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản độc quyền là một nấc thang phát triển mới 

của chủ nghĩa tư bản. 

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở hầu hết các 

ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ chức tư bản độc quyền và 

chúng chi phối sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. 

Nếu trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, sự phân hóa giữa các 

nhà tư bản chưa thực sự sâu sắc nên quy luật thống trị của thời kỳ này là quy luật 

lợi nhuận bình quân, còn trong chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật thống trị là 

quy luật lợi nhuận độc quyền. 

Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn không làm thay đổi được bản 

chất của chủ nghĩa tư bản. Bản thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là một 

hình thái biến tướng của quy luật giá trị thặng dư.