Điểm tương đồng trong chính sách phát triển của Nhật Bản và Xiêm vào cuối thế kỉ XIX là

Vì sao Xiêm là nước duy nhất trong khu vực Đông Nam Á không trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương Tây?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 4: Các nước Đông Nam Á [Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX]

- Chính sách đối ngoại "mềm dẻo" [ Chính sách ngoại giao "ngọn tre"].

- Trước sự xâm nhập của các nước phương Tây, Xiêm đã chủ động "mở cửa", quan hệ với tất cả các nước.

Xiêm liên tiếp kí các hiệp ước hữu nghị và thương mại với các nước phương Tây: năm 1826 kí với Anh, 1833 với Mỹ, 1907 với Pháp.....

- Xiêm còn biết lợi dụng mấu thuẫn giữa các cường quốc để họ tự kiềm chế nhau.VD: dựa vào thế lực của Hà Lan để chống lại thế lực đang lớn mạnh của Bồ Đào Nha. Nhưng khi thế lực của Hà Lan ngày càng cho phối mạnh mẽ ở Xiêm thì họ lại dựa vào Anh để chống Hà Lan...

- Cải cách ở Xiêm cuối thế kỉ XIX của Ra-ma V

Cuối thế kỉ XIX, vua Rama V tiến hành cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, quân sự......Các chính sách cải cách của Xiêm đi theo hướng "mở cửa". Chính cuộc cải cách này đã giúp Xiêm hòa nhập vào sự phát triển chung của chủ nghĩa tư bản thế giới.

- Vị trí “nước đệm” của Xiêm

Từ 1858-1893, Đông Dương là thuộc địa của Pháp. Trong khi đó Anh chiếm được Ấn Độ và Miến Điện. Xiêm đứng trước nguy cơ bị xâm lược. Tuy nhiên, Anh-Pháp là 2 nước đối đầu ở Châu Âu, Châu Mĩ, Châu Phi...Anh và Pháp không muốn có sự va chạm ở Xiêm. Sự mâu thuẫn của 2 quốc gia này trong vấn đề Xiêm đã buộc Pháp đi đến một đề nghị hòa giải để đảm bảo quyền lợi. Như vậy Xiêm biến thành "vùng đệm" của Anh và Pháp.

- Trong bối cảnh chung của châu Á, Xiêm nhờ đó mà thoát khỏi thân phận thuộc địa giữ được độc lập.

Xem tiếp...

Những cải cách của Ra-ma V có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển của Xiêm?

Chi tiết Chuyên mục: Bài 4: Các nước Đông Nam Á [Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX]

- Xóa bỏ được chế độ nô lệ, giải phóng sức lao động, góp phần đưa nền kinh tế phát triển theo con đường Tư bản chủ nghĩa.

- Trong nông nghiệp, hình thái kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp đã bị loại bỏ và thay bằng nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa.

- Xiêm trở thành nước xuất khẩu gạo, gỗ, đường và nhiều mặt hàng quan trọng khác có uy tín trên thế giới.

- Công nghiệp khai khoáng và xây dựng hạ tầng cơ sở, hệ thống đường sắt, đường bộ phát triển mạnh.

- Hệ thống giáo dục Xiêm được chuẩn hóa và hiện đại hóa, tầng lớp tri thức ngày càng được trọng dụng và đề cao.

- Các tôn giáo ổn định, nâng cao trình độ dân trí và nhận thức tốt trong nhân dân.

- Nhờ chính sách đối ngoại mềm dẻo nên bảo vệ được nền độc lập, chủ quyền.

- Tuy đã có những thành công nhất định nhưng Xiêm vẫn còn phải phụ thuộc nhiều đến các nước Phương Tây.

Xem tiếp...

Trình bày các biện pháp cải cách của Ra-ma V.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 4: Các nước Đông Nam Á [Cuối thế kỉ XIX-đầu thế kỉ XX]

- Giữa thế kỉ XIX đứng trước sự đe dọa xâm lược của phương Tây, Ra-ma IV [Mông-kút ở ngôi từ 1851-1868] đã thực hiện mở cửa buôn bán với nước ngoài.

- Ra-ma V [Chu-la-long-con ở ngôi từ 1868 - 1910] đã thực hiện nhiều chính sách cải cách.

* Nội dung cải cách

- Kinh tế

     + Nông nghiệp: để tăng nhanh lượng gạo xuất khẩu nhà nước giảm nhẹ thuế ruộng, xóa bỏ chế độ lao dịch.

     + Công thương nghiệp: khuyến khích tư nhân bỏ vốn kinh doanh, xây dựng nhà máy, mở hiệu buôn, ngân hàng

- Chính trị

     + Cải cách theo khuôn mẫu Phương Tây.

     + Đứng đầu nhà nước vẫn là vua.

     + Giúp việc có hội đồng nhà nước [nghị viện].

     + Chính phủ có 12 bộ trưởng.

- Quân đội, tòa án, trường học được cải cách theo khuôn mẫu phương Tây.

- Về xã hội: xóa bỏ chế độ nô lệ , giải phóng người lao động.

- Đối ngoại:

     + Thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo.

     + Lợi dụng vị trí nước đệm .

     + Lợi dụng mâu thuẫn giữa 2 thế lực Anh - Pháp đã lựa chiều có lợi để giữ chủ quyền đất nước.

Xem tiếp...

Thuở xa xưa, Singapore từng được gọi là Thị trấn Biển [Sea Town].

Mặc dù những bản ghi chép đầu tiên về lịch sử Singapore đã bị phai nhòa theo thời gian, một tài liệu tiếng Hoa vào thế kỷ thứ 3 đã miêu tả mảnh đất này là "Pu-luo-chung", ý muốn nói đến "Pulau Ujong", nghĩa là "hòn đảo ở tận cùng bán đảo" trong tiếng Mã Lai. Sau đó, khi những cộng đồng dân cư đầu tiên được hình thành từ năm 1298 đến năm 1299 Sau Công nguyên, mảnh đất này được biết đến với tên gọi là Temasek [nghĩa là “Thị trấn Biển”].

Vào thế kỷ 14, hòn đảo nhỏ bé nhưng nằm ở vị trí chiến lược này đã có một cái tên mới. Theo truyền thuyết, hoàng tử Sang Nila Utama đến từ xứ Palembang [thủ đô của Srivijaya], trong chuyến đi săn đã gặp một con vật lạ mà chàng chưa bao giờ nhìn thấy. Coi đó là điềm lành, chàng liền đặt cho thành phố nơi xuất hiện con vật lạ cái tên là “Thành phố Sư tử” hay Singapura, mà theo tiếng Sanskrit thì "simha" có nghĩa là sư tử, còn "pura" có nghĩa là thành phố.

Lúc bấy giờ, thành phố này nằm dưới sự cai quản của năm vị vua của Singapura cổ đại. Nằm ở vị trí địa đầu của bán đảo Mã Lai, là điểm quy tụ tự nhiên của các đường hàng hải, thành phố đã khởi sắc trong vai trò là một thương cảng nhộn nhịp dành cho vô số các loại tàu thuyền, như các tàu buôn của người Trung Quốc, thuyền buồm của người Ả Rập, tàu chiến của người Bồ Đào Nha và những thuyền buồm dọc của người Bugis.

Sau đây là thông tin về Singapore, nơi hội tụ các nền văn hóa và sắc tộc đa dạng. Đó chính là sự pha trộn sống động góp phần làm nên nét đặc trưng độc đáo của đất nước.

Vị trí chiến lược của thành phố khiến nơi đây trở thành một trung tâm thương mại lý tưởng.

Singapore hiện đại được khai lập vào thế kỷ 19, nhờ vào chính trị, thương mại và một người đàn ông được biết đến với cái tên Ngài Thomas Stamford Raffles.

Trong thời kỳ này, đế chế Anh Quốc đang lăm le tìm một bến cảng trong khu vực để neo đậu các tàu buôn của mình, và để chặn trước các bước tiến của người Hà Lan. Singapore, lúc đó đã là một thương cảng đầy triển vọng, nằm dọc theo Eo biển Malacca, có vẻ là một lựa chọn lý tưởng.

Ngài Raffles, khi đó là tỉnh trưởng của vùng Bencoolen [ngày nay là Bengkulu] ở xứ Sumatra, đặt chân đến Singapore vào ngày 29 tháng 1 năm 1819. Nhận ra tiềm năng lớn của một hòn đảo được bao phủ bởi đầm lầy, ông liền thương thảo một hiệp ước với những người cai trị khu vực này, và xây dựng Singapore thành một trung tâm thương mại. Thành phố này nhanh chóng phát triển thành một trung tâm thương mại xuất nhập khẩu, thu hút dân di cư từ Trung Quốc, Ấn Độ, Quần đảo Mã Lai và các vùng xa hơn nữa.

Năm 1822, Ngài Raffles đã cho thực hiện chương trình quy hoạch Raffles Town Plan, còn gọi là Jackson Plan, để giải quyết tình trạng mất trật tự của khu thuộc địa này. Các khu tập trung sinh sống của các dân tộc được chia thành bốn khu vực. Khu European Town là nơi sinh sống tập trung của những thương nhân châu Âu, người Âu-Á, và những người Châu Á giàu có, trong khi những người Trung Quốc thường sống tập trung ở khu vực ngày nay là Chinatown, và khu vực phía đông nam của Sông Singapore. Những người Ấn thường sống tập trung ở khu Chulia Kampong, phía bắc của khu Chinatown, và khu Kampong Gelam là nơi sinh sống của những người theo đạo Hồi, người Mã Lai và người Ả Rập đã di cư đến Singapore. Singapore tiếp tục phát triển trong vai trò là một thương cảng, với sự thành lập của một số ngân hàng chủ chốt, các Hiệp hội thương mại, và Tổ chức Thương mại. Vào năm 1924, một con đường đắp cao được mở ra nối liền khu vực phía bắc của Singapore với Johor Bahru.

Kiến trúc sư đầu tiên của Singapore, ông George D.Coleman, đã đến Singapore vào năm 1822, và công trình đầu tiên của ông là Nhà ở cho Ngài Stamford Raffles. Ông cũng tạo dựng nhiều ngôi nhà mang phong cách Palladian.

Quân Đồng minh đầu hàng vào năm 1942.

Sự thịnh vượng của Singapore đã bị hủy hoại nặng nề trong Thế Chiến thứ II, khi quân Nhật tấn công vào ngày 8 tháng 12 năm 1941. Quân xâm lược tiến vào từ phía bắc, khiến cho các chỉ huy quân sự Anh lúng túng vì họ nghĩ rằng đối phương sẽ tấn công bằng đường biển từ phía nam. Mặc dù có số lượng quân đông hơn, nhưng Quân Đồng Minh đã đầu hàng quân Nhật vào đúng dịp Tết Âm lịch, ngày 15 tháng 2 năm 1942. Đó là lần đầu hàng lớn nhất trong lịch sử của đội quân do người Anh cầm đầu. Hòn đảo này, từng được mệnh danh là "pháo đài bất khả xâm phạm", giờ đây được đặt tên là Syonan-to [tức "Ánh sáng của Đảo Nam" trong tiếng Nhật].

Khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1945, mảnh đất này đã rơi vào tay Bộ máy Chính quyền của Quân đội Anh [British Military Administration], lực lượng này nắm quyền cho đến khi Khu vực Straits Settlement gồm Penang, Melaka và Singapore tan rã. Vào tháng 4 năm 1946, Singapore trở thành một Thuộc địa của Anh [British Crown Colony].

Singapore đã trải qua một chặng đường dài để trở thành quốc gia như ngày nay.

Vào năm 1959, sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc đã hình thành chế độ tự trị ở quốc gia này, và cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đã diễn ra. Đảng Hành Động Nhân Dân [People’s Action Party - PAP] đã giành được 43 ghế, và ông Lý Quang Diệu trở thành thủ tướng đầu tiên của Singapore.

Vào năm 1963, Malaysia được thành lập, bao gồm Liên bang Malaya, Singapore, Sarawak và Bắc Borneo [nay là Sabah]. Bước đi này nhằm củng cố các mối quan hệ chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, việc hợp nhất không đạt được nhiều thành công và gần hai năm sau đó, cụ thể là vào ngày 9 tháng 8 năm 1965, Singapore đã tách khỏi Malaysia và trở thành một quốc gia độc lập với nền dân chủ có chủ quyền lãnh thổ riêng.

Ngày nay, nhiều lát cắt của quá khứ đa văn hóa, thời kì thuộc địa và giai đoạn chiến tranh của Singapore vẫn được lưu giữ trong và xung quanh thành phố. Bạn có thể đến thăm các công trình tưởng niệm, bảo tàng và đài tưởng niệm, hoặc đi bộ dọc theo những con đường di sản để thực hiện hành trình xuyên thời gian tìm về quá khứ.

Video liên quan

Chủ Đề