Giá trị của kênh vĩnh tế với vùng đất an giang

Cửu đỉnh khắc hình con kênh Vĩnh Tế trên đỉnh

2. Kênh Vĩnh Tế tầm nhìn chiến lược của nhà Nguyễn

Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy hiệu Gia Long mở ra một triều đại mới và cũng là triều đại cuối cùng của lịch sử dân tộc Việt Nam. Triều Nguyễn ra đời trong bối cảnh chế độ phong kiến ở Việt Nam đã bước bước vào chu kỳ suy yếu với hàng loạt biểu hiện. Song triều đại này vẫn để lại những dấu ấn hết sức đậm nét trong lịch sử dân tộc, nhất là thông qua những công trình bất hữu để lại cho hậu thế. Một trong những thành tựu đó thì kênh Vĩnh Tế được xem là kỳ quan của nhà Nguyễn còn lưu lại cho đến ngày nay.

Ngay từ khi lên ngôi vua, Nguyễn Ánh một mặt lo trị an, nội chính; mặt khác ra sức phát triển kinh tế và khôi phục thống nhất quốc gia sau hơn 250 năm chiến tranh và chia cắt. Một trong những vấn đề vua Gia Long rất quan tâm đó là việc phòng vệ, cũng như phát triển kinh tế ở vùng biên giới giáp với Chân Lạp.

Từ sau năm 1802, quan hệ tam giác Đại Việt - Chân Lạp - Xiêm có những biến chuyển mới. Với Xiêm, chính sách đối ngoại của nhà Nguyễn là mềm dẻo và hoà hiếu nên về cơ bản, trong khoảng thập niên đầu của thế kỉ XIX, Chân Lạp vẫn thuộc vùng ảnh hưởng và chịu sự chi phối mạnh mẽ từ Xiêm. Năm 1806, vua Xiêm đưa Ang Chan [Nặc Ông Chân] lên làm vua Chân Lạp. Do bị Xiêm áp đặt quá mức, Ang Chan quyết định dựa vào nhà Nguyễn để giảm những áp lực từ Xiêm. Đến đây, triều Nguyễn đã đóng vai trò như một đối trọng với triều đình Xiêm trong ảnh hưởng đối với Chân Lạp và mâu thuẫn Việt - Xiêm bùng lên trong vấn đề Chân Lạp.

Nam bộ là vùng đất mới được khai phá trong thời các chúa Nguyễn và được nhà Nguyễn xúc tiến mạnh mẽ trong thời gian quản lý đất nước. Nam bộ có đường biên giới trên bộ giáp với Chân Lạp, lại có đường biên giới trên biển giáp với Xiêm nên vấn đề quốc phòng và an ninh vùng biên giới được các vua triều Nguyễn đặc biệt chú trọng. Theo Quốc triều chính biên toát yếu, năm 1816, trấn thủ Vĩnh Thanh Lưu Phước Tường tâu với vua Gia Long về việc xây dựng thành Châu Đốc. Vua xem địa đồ miền Châu Đốc miền Châu Đốc Tân Cương rồi truyền rằng: "Xứ này nếu mở đường thuỷ thông với Hà Tiên thì hai đàng nông thương đều lợi. Trong tương lai, dân đến ở càng đông, đất mở càng rộng, sẽ thành một thị trấn to vậy" [6, tr.940]. Qua sự kiện này có thể thấy rằng vua Gia Long với tầm nhìn chiến lược sớm đã có ý tưởng về việc đào một con kênh nối liền Châu Đốc với Hà Tiên. Nên vì đất này mới mở, dân còn nhiều cơ cực nên vua Gia Long tạm gác chủ trương này lại. Mấy năm sau, khi kênh Thoại Hà được hoàn thành, vua rất đổi vui mừng và thấy được tài năng chỉ huy công việc của Nguyễn Văn Thoại, bèn lệnh cho ông chỉ huy quân dân tiếp tục phụ trách việc đào kênh mới - kênh Vĩnh Tế.

Quân đội nhà Nguyễn lập tức được điều động cùng với dân Việt và dân Cao Miên bắt tay vào công việc vô cùng gian khó. Đại nam thực lục ghi chép: "Cho vét đào đường sông Châu Đốc thông đến Hà Tiên. Cho tên là sông Vĩnh Tế. Vua chiếu dụ dân Vĩnh Thanh rằng: "Đào con sông này công việc rất khó nhọc. Kế sách của nhà nước, mưu hoạch về biên thuỳ, đều quan hệ không nhỏ. Các ngươi nay khó nhọc, mà thực có lợi muôn đời. Vậy nên bảo nhau đừng sợ khó nhọc". Lại dụ vua Chân Lạp rằng: "Bên đó giáp giới với Vĩnh Thanh. Nay đào sông này không những lợi cho người nước ta mà còn lợi cho nước ngươi vô cùng. Vương nên họp nhân dân bảo cho biết ý nhọc một lần mà nhàn mãi mãi" [6, tr. 997].

Năm 1822, vua Minh Mạng lại có chỉ dụ tương tự:

Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta [ý nói vua Gia Long] mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.

Như vậy, từ khi đắp xong thành Châu Đốc [1816], vua Nguyễn nghĩ đến việc đào một con kênh để tạo hướng phát triển và phòng thủ cho vùng đất này, sau nhiều suy ngẫm, nhân lúc thiên thời, địa lợi, nhân hoà, tháng 9 năm 1819 vua truyền chỉ đào kênh.

3. Vấn đề xác lập chủ quyền và vai trò của kênh Vĩnh Tế trong chính sách quốc phòng của nhà Nguyễn.

3.1. Vấn đề xác lập chủ quyền trên vùng đất mới.

Từ đầu thế kỷ XVIII, vùng đất Nam Bộ tiếp tục khai phá dần mở rộng vào sâu nội địa theo các kênh rạch và theo tiến trình xác lập chủ quyền của các chúa Nguyễn. Hệ thống chính quyền lần lượt ra đời, các đồn lũy bảo vệ đất đai, dân cư của chúa nguyễn mọc lên; hệ thống kênh rạch được nạo vét, đào mới phục vụ cho việc trị an, quốc phòng; chính sách khuyến khích khẩn hoang, lập làng của chính quyền... là những đảm bảo chắc chắn để lưu dân người Việt ngày càng vững tâm tiến vào khai phá lập nghiệp. Từ đó, khu vực miền trung Nam bộ [ bao gồm vùng bắc sông Tiền và vùng nằm giữa sông Tiền và sông Hậu] về cơ bản đã được khai khẩn xong; vùng Hà Tiên với vai trò bảo hộ của chính quyền và khả năng tổ chức khai phá hiệu quả của dòng họ Mạc cũng đã cơ bản hoàn tất công cuộc tạo dựng và trở nên phát triển.

Đất Gia Định đến năm 1756 về cơ bản đã thành hình như trên bản đồ Nam bộ ngày nay. Tuy nhiên, một số vùng dọc theo giữa hai sông, sông Tiền và sông Hậu, và phía đông dọc theo hữu ngạn Hậu Giang là Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp, người Chân Lạp vẫn quản lý. Sự kiện 1757, vua Chân Lạp Preah Outey [Nặc Ông Tôn [1758-1775]] dâng đất Tầm Phong Long, Tầm Bôn và Xuy Lạp đã chính thức hoàn tất quá trình mở đất về phương Nam của các chúa Nguyễn, đánh dấu sự sáp nhập hoàn toàn đất Nam bộ vào lãnh thổ Đại Việt.

Ngay trong năm 1757, Nguyễn Cư Trinh xin dời dinh Long Hồ lên xứ Tầm Bào [Vĩnh Long], để tiện cho việc quản lý miền đất mới lấy được. Ông sai lập đạo hai bên sông Cửu Long gần biên giới: Tân Châu đạo [Cù Lao Giêng] ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang; lại lập thêm Đông Khẩu đạo, ở xứ Sa Đéc, để làm hậu thuẫn. Các đạo ấy dùng binh ở Long Hồ dinh để trấn áp, giữ mặt vịnh Xiêm La, phòng Xiêm làm hỗn. Nguyễn Cư Trinh còn phối hợp với Mạc Thiên Tứ đặt ra Kiên Giang đạo ở Rạch Giá và Long Xuyên đạo ở vùng Cà Mau, nhằm đẩy mạnh khai phá và đảm bảo an ninh quốc phòng.

Xác lập chủ quyền bằng đường biên giới, khu vực chịu ảnh hưởng chỉ là bước đầu, việc đưa dân tới sinh sống, biến vùng đất thành nơi cư trú, sinh sống, sản xuất mới là yếu tố quyết định chủ quyền đối với vùng đất đó. Vì thế với vai trò của Nguyễn Cư Trinh, của Nguyễn Văn Thoại cùng với những chủ trương, biện pháp đầy sáng tạo của các ông đối với đất Tầm Phong Long; với bàn tay và khối óc lao động cần cù, dũng cảm của các cộng đồng cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer trong hơn một thế kỷ [từ giữa thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX] là những nhân tố vô cùng có ý nghĩa trong việc khẳng định vai trò cũng như chủ quyền của người Việt tại đây.

Nhận thức của vua Gia Long và vua Minh Mạng khi cho tiến hành đào kênh Vĩnh Tế đã phản ánh nhãn quan chính trị và quyết tâm sắt đá của nhà Nguyễn đối với vấn đề chủ quyền và an ninh trật tự ở vùng biên cương tây nam "Công trình đào sông này rất khó khăn, nhưng kế giữ nước và cách biên phòng quan hệ chẳng nhỏ, các ngươi ngày nay tuy là chịu khó, nhưng mà lợi ích cho muôn đời về sau. Vậy dân chúng cần bảo nhau cho biết, đừng nên sợ nhọc" . Đường sông Vĩnh Tế liền với Tân Cương, xe thuyền qua lại đều là tiện lợi. Đức Hoàng Khảo Thế Tổ Cao Hoàng Đế ta [ý nói vua Gia Long] mưu sâu, tính xa, chú ý việc ngoài biên. Công việc đào kênh mới bắt đầu chưa xong. Nay ta theo chí tiên hoàng, cố nghĩ cách khó nhọc một lần mà được thong thả lâu dài về sau.

Đất Tầm Phong Long từ khi sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt đã hoàn tất quá trình xác lập lãnh thổ trên vùng đất Đàng Trong của các chúa Nguyễn. Từ đây, bản đồ Đàng Trong của các chúa Nguyễn đã hoàn chỉnh và phân định rạch ròi với các quốc gia láng giềng. Công cuộc khai phá đất đai, phát triển hệ thống kênh rạch, ổn định hệ thống hành chính trên vùng đất mới từ năm 1757 đến giữa thế kỷ XIX của chính quyền và nhân dân đã khẳng định chắc chắn chủ quyền lãnh thổ của Đại Việt [Việt Nam sau này ].

3.2. Vai trò to lớn của kênh Vĩnh Tế đối với chiến lược quốc phòng - an ninh.

Kênh Vĩnh Tế là công trình quy mô nhất thời bấy giờ, không những thể hiện tầm nhìn chiến lược của chính quyền nhà Nguyễn mà trên thực tế đã phát huy được vai trò và lợi ích to lớn của nó đối với chính trị, an ninh quốc phóng, đối ngoại cũng như việc phát triển vùng biên viễn trên toàn bộ khu vực phía Tây Nam từ Châu Đốc đến Hà Tiên. Đại Nam nhất thống chí chép: " Từ đấy đường song thông, việc biên phòng và việc buôn bán đều được hưởng mối lợi vô cùng" [8, tr. 207].

Thực vậy, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một phòng tuyến quân sự có khả năng phòng ngự trong hoàn cảnh đất nước có xảy ra chiến tranh cả với Chân Lạp, cả với Xiêm. Ở khía cạnh này chắc hẳn vua Gia Long hiểu quá rõ về chính sách Đông tiến của người Xiêm sau thời gian dài "tị nạn" ở đó. Kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một con hào giao thông khổng lồ, một phòng tuyến kiên cố rất khó vượt qua. Con kênh dài 91km, nối liền hai trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội, quân sự của triều đình.

Mặt khác, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một như một tiền đồn dung để vươn ra khống chế, củng cố và duy trì chế độ bảo hộ ở Chân Lạp. Gia Long hiểu rằng bất kì một hành động đóng quân nào của lực lượng quân đội nước ngoài, dù với mục đích gì đi nữa thì cũng sẽ gây nên sự phản cảm từ phía người dân. Đó là chưa kể quan niệm về chủ quyền của vùng đất "Thuỷ Chân Lạp" của một bộ phận không nhỏ người Khmer ở Chân Lạp. Tất cả những yếu đó buộc Gia Long phải tìm một chổ đứng quân sự vững chắc nhưng không thuộc lãnh thổ Chân Lạp [tránh khoét sâu thêm những mâu thuẫn với người dân Chân Lạp], nhưng đồng thời cũng không làm suy giảm đi ảnh hưởng của triều Nguyễn đối với Chân Lạp. Và như vậy, kênh Vĩnh Tế đã giải quyết thoả đáng tất cả những vấn đề trên.

Quan trọng hơn, kênh Vĩnh Tế đóng vai trò như một công trình đánh dấu, xác lập chủ quyền của người Việt trên vùng đất Nam Bộ. Như đã nói ở phần trên, vấn đề chủ quyền trên giữa người Việt và người Khmer mà những thế lực chống đối có thể lợi dụng để gây chia rẽ và kích động. Gia Long hiểu rõ điều này, ngay từ khi lên ngôi ông đã có nhiều biện pháp để củng cố và thiết lập chủ quyền lãnh thổ quốc gia ở vùng đất Nam Bộ. Việc xúc tiến đào kênh Thoại Hà rồi sau đó là cho đào con kênh Vĩnh Tế đã minh chứng rõ điều này. Vốn là những người đến sau khai phá, nhưng triều Nguyễn đã cho thấy quyết tâm chinh phục vùng đất mới với hàng loạt các công trình lớn, mang tầm vóc, thể hiện quyết tâm, khả năng chinh phục tự nhiên, là bang chứng thuyết phục nhất về chủ quyền của người Việt ở vùng đất này. Rõ ràng, Gia Long đã thể hiện là một người có tầm nhìn xa và am hiểu tường tận vùng đất Nam Bộ.

Một điều đáng ghi nhận nửa về vai trò đặc biệt quan trong của Kênh Vĩnh Tế trong việc phát triển kinh tế - xã hội vùng đất Nam Bộ, nơi đây nhanh chóng trở thành một trung tâm kinh lớn ở khu vực ngã ba của ba nước Việt - Chân Lạp - Xiêm. Đó không chỉ là một công trình nhằm thu hút thuyền bè các nước láng giềng đến làm ăn buôn bán, mà còn có ý nghĩa về mặt chính trị, quân sự. Bởi lẽ, một trung tâm quân sự vững mạnh phải đồng thời vững mạnh về khả năng kinh tế. Nơi ấy có thể trực tiếp và chủ động những nguồn lực quân sự một khi chiến tranh xảy ra. Đồng thời, tâm lý chung của bất kỳ người dân nào là đều muốn một cuộc sống ổn định để làm ăn, sinh sống, không ai muốn chiến tranh loạn lạc. Chính vì vậy, tạo điều kiện cho người dân hai nước, cả Việt Nam và Chân Lạp có điều kiện thuận lợi để làm ăn sinh sống chính là biện pháp "phòng thủ từ xa" hữu hiệu nhất. Đồng thời, để đảm bảo tính ổn định cho vùng đất mới thì kênh đào đến đâu Nguyễn Văn Thoại cho dân lập làng đến đó. Quy chế lập làng được thực hiện chặt chẽ theo dọc bờ kênh Vĩnh Tế đến Thất Sơn . Đến năm 1823, lập được 5 làng: Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Thông [xã Lạc Quới ngày nay], Vĩnh Gia và Vĩnh Điều. Mỗi làng có trên 20 hộ và trên 100 nhân khẩu. Năm 1839, ra đời phủ Tịnh Biên, ba làng Vĩnh Thông, Vĩnh Gia và Vĩnh Điều lập thành Tổng Thành Tín. Rải rác theo bờ kênh Vĩnh Tế đến hậu cứ Thất Sơn, Nguyễn Văn Thoại cho xây dựng nhiều đồn, bảo, thủ, sở tập trung nhiều nhất ở vùng đất từ Tịnh Biên trãi dài đến Châu Đốc, có thể kể đến như: Vĩnh Điều, Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, An Nông, Vĩnh Tế, Vĩnh Thịnh, Thân Nhân, Hưng Nhượng, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hoà, Thuyết Nật, Đàm Triết. Rất thuận tiện cho việc canh phòng, bảo vệ hữu hiệu phòng tuyến biên giới Tây Nam Tổ quốc, không còn quá lo lắng việc bị ngoại xâm.

Theo vị bô lão Trình Văn Mun ở Lạc Quới cho biết: Sau khi đào kênh Vĩnh Tế xong, Nguyễn Văn Thoại cho lập thành 10 đồn từ vàm kênh Vĩnh Tế đến Giang Thành cắt đặt quan binh trấn , giữ, gồm các đồn: Đồn số 1 đặt tại vàm kinh nay là đình Vĩnh Ngươn; Đồn số 2 đặt tại Cống Đồn thuộc xã Vĩnh Tế [Núi Sam]; Đồn số 3 đặt tại làng Cây Mít xã Nhơn Hưng, Phủ Tịnh Biên; Đồn số 4 đặt tại quận lỵ Tịnh Biên; Đồn số 5 đặt ở An Nông, huyện Tịnh Biên; Đồn số 6 ở Vĩnh Thông [Lạc Quới]; Đồn số 7 ở Vĩnh Lạc thuộc quận Tịnh Biên; Đồn số 8 ở Vĩnh Gia thuộc Tịnh Biên, tỉnh Châu Đốc; Đồn số 9 ở Vĩnh Điều thuộc Hà Tiên; Đồn số 10 ở Giang Thành thuộc Hà Tiên.

Kênh Vĩnh Tế chính là tiêu biểu cho chính sách và chiến lược quốc phòng của chính quyền nhà Nguyễn nơi vùng biên giới Tây Nam Tổ quốc. Có thể nói, việc tổ chức quân đội của chình quyền nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang xưa có tác động lớn đến tình hình trị an cũng như biên phòng vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Cùng với các hệ thống căn cứ quân đội được bố trí khắp trên bề mặt vùng đất An Giang xưa lúc bấy giờ đã tạo ra thế và lực mới trong việc khai hoang, phát triển vùng đất còn nhiều hoang hoá, lắm trở ngại trong buổi đầu nhà Nguyễn tiếp quản đất nước. Vua Minh Mạng đã từng nói rằng: " Quân đội là nanh vuốt của nước" [9, tr. 136], do đó việc bố trí quân đội ở những nơi xung yếu trên vùng đất An Giang thời bấy giờ có ý nghĩa sống còn trong công cuộc bảo vệ quốc gia, dân tộc, vừa giữ vững sự ảnh hưởng của Việt Nam trên đất Chân Lạp cũng như tạo ra những tiền đồn vững chắc trước tham vọng "bành trướng" của quân Xiêm La. Kết luận:

Kênh Vĩnh Tế là một công trình quan trọng, có giá trị to lớn về mặt kinh tế, chính trị, quân sự, đặc biệt là trong quan hệ với các nước Chân Lạp, Xiêm La dưới thời vua Gia Long. Kênh Vĩnh Tế hoàn thành không chỉ dân chúng miền biên địa vui mừng vì có thuỷ lộ giao thông thuận tiện, thả sức thương hồ, công cuộc khai hoang khẩn đất được nhiều thành quả, mặc khác giới chức biên phòng thời đó cũng nhẹ bớt gánh nặng, nhờ có đường nước án ngữ ven biên, vừa dễ phòng thủ, vừa dễ tiến công. Kênh Vĩnh Tế là một công trình mang tính "phòng thủ chiến lược" vô cùng độc đáo: phòng thủ vừa có tính thiết yếu đối với an ninh quốc gia, đồng thời lại tăng cường được việc phát triển ảnh hưởng của quốc gia ra bên ngoài; phòng thủ nằm trong chủ trương đối ngoại của triều đình nhà Nguyễn nhưng lại có tác dụng quan trọng, lâu dài, căn bản đối với việc phát triển trong nước. Như vậy, kênh Vĩnh Tế vừa có vai trò củng cố "thế" [với bên ngoài] và "lực" [bên trong] của vương triều Nguyễn...

Kênh Vĩnh Tế không những là minh chứng cho chiến công vĩ đại trong sự nghiệp của Thoại Ngọc Hầu đồng thời cũng là tinh hoa trí tuệ của các bậc tiền nhân trong những vấn đề "kinh ban tế thế". Kinh Vĩnh Tế đã đóng vai trò to lớn vào chiến lược quốc phòng và công cuộc khẩn hoang lập làng của nhà Nguyễn trên vùng đất An Giang - Hà Tiên xưa và vùng đất An Giang ngày nay.

Video liên quan

Chủ Đề