Mối quan hệ giữa lý luận và kinh nghiệm

Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn là một trong những vấn đề quan trong của triết học. Nhận thức đúng đắn và sâu sắc nội dung mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa lớn lao đối với đời sống và sự phát triển của xã hội.


- Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn:
Quan hệ giữa thực tiễn và lý luận:

Khái niệm thực tiễn:
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng thực tiễn là hoạt động nhận thức, hoạt động tinh thần. Các nhà tôn giáo cho hoạt động sáng tạo ra vũ trụ của những lực lượng siêu nhiên là thực tiễn. Có nhà triết học duy vật trước Mác cho rằng: hoạt động thực nghiệm khoa học là thực tiễn. Đây là quan niệm đúng nhưng chưa đầy đủ.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho thực tiễn là hoạt động vật chất - cảm tính, mang tính lịch sử, có mục đích của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Từ quan niệm này của triết học duy vật biện chứng về thực tiễn, chúng ta thấy thực tiễn có ba đặc trưng sau:

Một là, thực tiễn không phải là tất cả hoạt động của con người mà chỉ là những hoạt động vật chất - cảm tính. Đó là những hoạt động mà con người phải sử dụng công cụ vật chất, lực lượng vật chất tác động vào các đối tượng vật chất để làm thay đổi chúng. Ví dụ hoạt động sản xuất ra của cải vật chất như xây nhà, đắp đê, cày ruộng,v.v

Hai là, thực tiễn là những hoạt động có tính lịch sử - xã hội. Nghĩa là hoạt động thực tiễn là hoạt động của con người, diễn ra trong xã hội với sự tham gia của đông đảo người, và trải qua những giai đoạn lịch sử phát triển nhất định.

Ba là, thực tiễn là hoạt động có tính mục đích nhằm trực tiếp cải tạo tự nhiên và xã hội phục vụ con người tiến bộ. Đặc trưng này nói lên tính mục đích, tính tự giác của hoạt động thực tiễn.

Có ba hình thức thực tiễn cơ bản:
Một là, sản xuất vật chất. Đó là những hoạt động sản xuất ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng và trao đổi của con người.
Hai là, những hoạt động chính trị-xã hội. Chẳng hạn như đấu tranh giải phóng dân tộc, mít tinh, biểu tình ...
Ba là, hoạt động thực nghiệm khoa học. Đây là hình thức đặc biệt, bởi lẽ trong thực nghiệm khoa học, con người chủ động tạo ra những điều kiện nhân tạo để vận dụng thành tựu khoa học, công nghệ vào nhận thức và cải tạo thế giới.
Ba hình thức thực tiễn này liên hệ, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, trong đó, sản xuất vật chất đóng vai trò quyết định, hai hình thức kia có ảnh hưởng quan trọng tới sản xuất vật chất.

- Khái niệm lý luận:
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, lý luận là hệ thống những tri thức, được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối quan hệ bản chất, tất nhiên, mang tính quy luật của các sự vật hiện tượng trong thế giới và được biểu đạt bằng hệ thống, nguyên lý, quy luật, phạm trù.

Lý luận có những đặc trưng :
Thứ nhất, lý luận có tính hệ thống, tính khái quát cao, tính lô gic chặt chẽ.
Thứ hai, cơ sở của lý luận là những tri thức kinh nghiệm thực tiễn. Không có trí thức kinh nghiệm thực tiễn thì không có cơ sở để khái quát thành lý luận.
Thứ ba, lý luận xét về bản chất có thể phản ánh được bản chất, hiện tượng.

Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Vai trò của thực tiễn đối với lý luận:
Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, lý luận. Thông qua và bằng hoạt động thực tiễn con người tác động vào sự vật, làm cho sự vật bộc lộ thuộc tính, tính chất, quy luật. Trên cơ sở đó, con người có hiểu biết về chúng. Nghĩa là thực tiễn cung cấp « vật liệu » cho nhận thức. Không có thực tiễn thì không thể có nhận thức. Chính việc đo đạt ruộng đất trong chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hi Lạp - La Mã cổ đại là cơ sở cho định lý Talét, Pitago... ra đời.

Thực tiễn luôn đặt ra nhu cầu, nhiệm vụ đòi hỏi nhận thức phải trả lời. Nói cách khác, thực tiễn là người đặt hàng cho nhận thức giải quyết. Trên cơ sở đó, nhận thức phát triển.

Thực tiễn còn là nơi rèn luyện giác quan cho con người. Chẳng hạn, thông qua các hoạt động sản xuất, chiến đấu, sáng tạo nghệ thuật... những cơ quan cảm giác như thính giác, thị giác... được rèn luyện. Các cơ quan cảm giác được rèn luyện sẽ tạo ra cơ sở cho chủ thể nhận thức hiệu quả hơn, đúng đắn hơn.

Thực tiễn còn là cơ sở chế tạo công cụ, máy móc cho con người nhận thức hiệu quả hơn như kính thiên văn, máy vi tính... đều được sản xuất, chế tạo trong sản xuất vật chất. Nhờ những công cụ máy móc này mà con người nhận thức sự vật chính xác hơn, đúng đắn hơn. Trên cơ sở đó, thúc đẩy nhận thức phát triển.

Thực tiễn là mục đích của nhận thức, lý luận. Nhận thức của con người bị chi phối bởi nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại. Ngay từ tưở mông muội, để sống, con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh, tức là để sống, con người phải nhận thức. Nghĩa là ngay từ khi con người xuất hiện trên trái đất, nhận thức của con người đã bị chi phối bởi nhu cầu thực tiễn.

Những tri thức, kết quả của nhận thức chỉ có ý nghĩa đích thực khi được vận dụng vào thực tiễn phục vụ con người. Nói khác đi, chính thực tiễn là tiêu chuẩn đánh giá giá trị của tri thức - kết quả của nhận thức.

Nếu nhận thức không vì thực tiễn mà vì cá nhân, vì chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa thành tích thì nhận thức sớm muộn sẽ mất phương hướng.

Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra sự đúng sai của nhận thức, lý luận. Theo triết học duy vật biện chứng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Bởi lẽ chỉ có thông qua thực tiễn, con người mới vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng. Thông qua quá trình đó, côn người có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Phải hiểu thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý một cách biện chứng, nghĩa là nó vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn ở những giai đoạn lịch sử cụ thể là tiêu chuẩn khách quan duy nhất có thể khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, bản thân thực tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển. Cho nên, khi thực tiễn đổi thay thì nhận thức cũng phải thay đổi cho phù hợp. Nghĩa là những tri thức đã đạt được trước đây, hiện nay vẫn phải được kiểm nghiệm thông qua thực tiễn.

Vai trò của lý luận đối với thực tiễn:
Lý luận đóng vai trò soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhờ những đặc trưng ưu trội so với tri thức kinh nghiệm mà lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động thực tiễn của con người. Lý luận khoa học, thông qua hoạt động thực tiễn của con người góp phần làm biến đổi thế giới khách quan và biến đổi chính thực tiễn.

Lý luận khoa học góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên, tập hợp quần chúng để tạo thành phong trào hoạt động thực tiễn rộng lớn của đông đảo quần chúng.

Lý luận đóng vai trò định hướng, dự báo cho hoạt động thực tiễn, giúp hoạt động thực tiễn chủ động, tự giác, giúp cho hoạt động thực tiễn bớt mò mẫm, vòng vo.

- Ý nghĩa phương pháp luận:
Phải có quan điểm thực tiễn trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Quan điểm thực tiễn yêu cầu:
Một là, nhận thức sự vật phải gắn với nhu cầu thực tiễn của con người, xuất phát từ thực tiễn của địa phương, của ngành và đất nước.
Hai là, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học phải gắn với hành.
Ba là, phải chú trọng công tác tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn thiện phát triển lý luận cũng như chủ trương, đường lối, chính sách. Phải lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn kiểm tra sự đúng sai của lý luận.

Trong hoạt động thực tiễn phải chủ động ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa kinh nghiệm thực tiễn, coi thường, hạ thấp lý luận) và bệnh giáo điều (khuynh hướng tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường và hạ thấp kinh nghiệm thực tiễn; hoặc vận dụng kinh nghiệm của người khác, ngành khác, địa phương khác, nước khác không tính đến điều kiện thực tiễn cụ thể của mình).

Trong công tác, mỗi cán bộ phải gương mẫu thực hiện phương châm « nói đi đôi với làm » , tránh nói một đằng, làm một nẻo ; nói nhiều làm ít ; nói mà không làm...

- Liên hệ thực tiễn cách mạng Việt Nam:
Những đường lối chủ trương cơ bản đúng đắn của Đảng đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác đã khẳng định sự vận dụng biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.

Những năm đầu thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã tìm hiểu, nghiên cứu sâu sắc truyền thống văn hóa dân tộc, học tập những tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt nghiên cứu thực tiễn của những cuộc cách mạng trong và ngoài nước, đúc kết thành những vấn đề lí luận cơ bản cho đường lối cách mạng Việt Nam. Xây dựng được mối quan hệ biện chứng ấy, Người đã tổ chức cách mạng, tập trung được lực lượng, đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lí luận và thực tiễn vào cách mạng Việt Nam, Đảng và nhân dân ta tiếp tục giành những thắng lợi vẻ vang, đấu tranh thống nhất đất nước.

Trong quá trình xây dựng, chúng ta đã gặt hái nhiều thành tựu đáng khích lệ, đưa đất nước lên một vị thế mới, trở thành một đối tác quan trọng, một người bạn đáng tin cậy đối với nhiều nước trên thế giới.

Tuy nhiên, trong quá trình đấu tranh cải tạo, xây dựng xã hội mới, đôi lúc chúng ta mắc phải những sai lầm. Đôi khi chủ quan duy ý chí, rơi vào bệnh giáo điều, đề cao lý luận; lý luận không bám sát thực tiễn hoặc nóng vội đốt cháy giai đoạn một cách thiếu biện chứng. Vì thế, có giai đoạn, kinh tế đất nước trì trệ, chậm phát triển, đời sống khó khăn, nhất là từ sau 1975 đến trước Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986.

Cũng có lúc, không ít cán bộ, đảng viên quá đề cao thực tiễn, xem nhẹ lý luận, sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, tự mãn, thiếu sáng tạo, chậm bắt nhịp cuộc sống và xu thế vận hành, phát triển chung của thời đại, đẩy đất nước đến nguy cơ tụt hậu.

Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, trước những vận động và biến đổi nhanh chóng của thế giới, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn. Từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI trở đi, Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự chú trọng đến hiệu quả của hoạt động thực tiễn, đúc kết lý luận, gắn lý luận với thực tiễn, nắm bắt kịp thời xu thế của thời đại, xây dựng những đường lối, chủ trương đúng đắn, đưa đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng, tạo những bước tiến quan trọng, chủ động hội nhập với thế giới.

(tổ 1 soạn)