Nguyễn Du tập trung thể hiện vẻ đẹp nào của Thuý Vân

Một tiêu chuẩn quan trọng về cái đẹp của cha ông ta xưa là sự hài hoà, cân đối, sự chừng mực, nhẹ nhàng... Vẽ tranh, các cụ chỉ chấm phá vài nét. Tả cảnh, tả người cũng chỉ dăm ba câu, một hai hình ảnh. Vì thế, miêu tả hai trang tuyệt sắc giai nhân là chị em Thuý Kiều, thi hào Nguyễn Du dùng đúng 12 câu thơ, phân chia ba nhịp rõ ràng, nét bút đậm nhạt chính xác:

Đầu lòng hai ả tố nga
Lời giới thiệu đấy! Người chưa ra, vẻ đẹp đã lồ lộ. chưa biết tên chưa rõ ai là chị, chỉ thấy “hai ả tố nga”. Chữ Hán “tố” là đẹp [tranh tố nữ, tranh vẽ cô gái đẹp]. “Nga” là Hằng Nga, mặt trăng. Ngòi bút ẩn dụ thật tự nhiên. Thuý Kiều, Thuý Vân nhẹ nhàng hiện ra như hai vầng trăng sáng, mát dịu.
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần

Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.

Hai nàng Kiều bước ra, ngay trước mắt chúng ta, với dáng hình thanh tú như hai cành mai, tâm hồn, phẩm hạnh trong trắng như băng như tuyết. Thật ra, đấy là những ước lệ của văn chương cổ. Cụ Nguyễn Du viết theo phép tắc có sẵn, nhưng không sao chép hững hờ mà gửi vào câu chữ biết bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Lời khen chia đều cho hai người, nét bút lại muốn đậm nhạt “mỗi người một vẻ”. Vì thế, liền sau đó, thi sĩ tập trung rọi sáng từng người. Trước hết là cô em, Thuý Vân. Sao không vẽ chị trước mà lại vẽ em trước? Chắc không phải thi sĩ vô tình. Nhưng xin hãy gác lại băn khoăn ấy. Vì Vân đã tới gần rồi. Nàng tới bằng những nét hình rất cụ thể. Bốn dòng thơ đủ vẽ một sắc đẹp tươi tắn, trẻ trung, đúng một cô gái đang độ trăng tròn.
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
“Khuôn trăng đầy đặn” nghĩa rõ ràng rồi. Khuôn mặt Thuý Vân phúc hậu sáng đẹp như trăng rằm. Ai cũng hiểu như thế, sự thật cũng là như thế. Còn câu “nét ngài nở nang”, hiểu rằng Nguyễn Du tả lông mày, lông mi nàng Vân như sách vở từng giảng liệu đã ổn chưa? Thành ngữ “mày ngài mắt phượng” thường dùng tả những trang nam tử, những đấng anh hùng, chứ mấy ai dùng để tả những cô gái trẻ trung! Nhà thơ Vương Trọng, người gốc xứ Nghệ cho rằng, ở câu ấy, cụ Tiên Điền mượn cách nói quê hương dể tả dáng người Thuý Vân. “Tốt con ngài hơn dài quần áo”, nhân dân Nghệ Tĩnh thường nói vậy. Từ “con người” nói trệch thành “con ngài”. Và anh đề nghị hiểu câu “nét ngài nở nang” của Nguyễn Du là: nét người, dáng người Thuý Vân khoẻ mạnh, đầy đặn, nở nang.. Còn những nét đẹp gì nữa?
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
Phép ẩn dụ, kết hợp nhân hoá được sử dụng thật đắc. Câu chữ tiết kiệm tối đa mà dựng được một chân dung khá nhiều chi tiết. Có nét hình, có màu sắc, có cả âm thanh, tiếng cười, giọng nói. Sắc đẹp của Thuý Vân sánh ngang những nét kiều diễm, sáng trong của hoa lá, ngọc vàng, mây tuyết,... toàn những báu vật tinh khôi trong trẻo của đất trời. Chỉ thoáng nhìn hình dáng, thoáng nghe Vân chuyện trò, chúng ta đã cảm nhận tất cả sự dịu dàng, đoan trang, thanh thản của một tâm hồn và ta cũng dễ dàng dự cảm một tương lai mai hậu êm ả, bằng phẳng của cuộc đời. Những từ “mây mưa”, “tuyết nhường” nghe mát dịu lòng thơ, mát dịu cả lòng người. Vẻ đẹp tính tình tương lai cuộc sống của Thuý Vân như vậy, trọn vẹn hài hoà trong bốn câu thơ. Còn cô chị, Thuý Kiều ra sao?
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Đến đây ta mới rõ, tại sao Nguyễn Du tả Vân trước. Thì ra thi sĩ dùng phép đòn bẩy. Tả kĩ, tả đẹp, khiến bức chân dung thành hoàn thiện, như tuyệt hảo rồi, vượt lên trên tất cả, ngỡ đoạt giải vô địch ‘hoa hậu” rồi. Từ đó, nhấn mấy chứ “Kiều càng... so bề... phần hơn...”, Ngôn ngữ có hồn, loé những con mắt sáng, thốt ra những tiếng reo trầm trồ thích thú. Thế là Thuý Vân thành điểm tựa, để chân dung Thuý Kiều bật lên, vượt lên, trội hẳn. Do đó, nhà thơ không tả chi tiết nữa chuyển sang chấm phá, theo kiểu “điểm nhãn”, cốt hương vào bên trong cái hồn của tác phẩm.
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hai nét vẽ lướt nhẹ trên giấy, thông thoáng bởi gam màu xanh mát mà lung linh, rất ấn tượng, khơi gợi nhiều liên tưởng. “Làn thu thuỷ: làn nước mùa thu, chỉ mắt đẹp, trong như nước mùa thu. Nét xuân sơn: nét núi mùa xuân, chỉ lông mày đẹp, tươi non như núi mùa xuân”.. Sách Văn 9 tập 1, NXB Giáo dục, 1989 đã giảng như vậy, e không sát nội dung thơ, không đúng ý tưởng thẩm mỹ của tác giả. Với Thuý Vân, Nguyễn Du đã tả chi tiết tỉ mỉ rồi, nào khuôn mặt, nụ cười, nào mái tóc, nước da... Với Kiều, ngòi bút thiên tài ấy không thể lặp lại một cách vụng về như thế. Nét bút ông khoáng đạt bằng những mảnh lớn, bằng linh giác, bằng sự xuất thần của tâm hồn nghệ sĩ, chứ không vờn vẽ thật thà như một người thợ tầm thường. Vả chăng, nếu bảo rằng lông mày Thuý Kiều “đẹp, tươi non như núi mùa xuân” thì khuôn mặt, dáng hình nàng thế nào, một người... khổng lồ ư? Rõ ràng, Nguyễn Du dùng hình ảnh “làn thu thuỷ, nét xuân sơn” để ẩn dụ, để cảm nhận vẻ đẹp tổng thể, từ dung nhan đến tâm hồn nàng Kiều đang ở độ trong eo, không chú gợn, đang dào dạt sức sống mùa xuân. Ngắm lại Thuý Vân, ta thấy dung nhan nàng được so sánh với trăng, hoa, ngọc mây tuyết... những hình ảnh nhỏ nhẹ. Còn Thuý Kiều, nàng là nước non, là năm tháng sâu thẳm, rộng dài của không gian, thời gian, chẳng dễ gì đo đếm. Cái sắc ấy, lại có thêm cái tài, “so bề tài sắc lại là phần hơn”, nên nó cao quá, nổi trội quá, vượt xa cô em gái đã đành, vượt lên tất cả. Do đó mà:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Câu thơ đọc lên thấy gờn gợn. Chữ “ghen”, chữ “hờn” đâu chỉ là cách nói nhân hoá, miêu tả thái độ ghen ghét, tức giận, dỗi hờn của cây lá. Mượn cây lá thiên nhiên, nhà thơ suy ngẫm về cuộc sống, về con người. Oong như đã linh cảm một tương lai không yên ổn của Thuý Kiều “một vừa hai phải ai ơi. Tài tình chi lắm cho trời đất ghen” ca dao. Cha ông ta thường bảo nhau thế. Và các cụ xem đó là một quy luật, một định mệnh khắc nghiệt. Nghiền ngẫm sâu hơn, chúng ta hiểu cái quy luật, định mệnh ấy bắt nguồn từ một triết lý của Đạo Khổng. Cụ Khổng Tử cho rằng: Con người chúng ta là sự tương giao, tương hợp của khí âm – dương, là một “tiểu vũ trụ” trong cái “đại vũ trụ” thiên nhiên, trời đất. Nếu ai hoà hợp được với thiên nhiên và vũ trụ, thì sống an nhàn, thanh thản. Nếu ai chưa đạt tới, hoặc vượt qua, vượt xa thì than ôi, số phận không tránh khỏi gian truân, vất vả. Phải chăng, trước sắc ấy, tài ấy của hai chị em Thuý Vân và Thuý Kiều, Nguyễn Du, một học trò xuất sắc của Đạo Khổng đã phần nào cảm nhận, dự báo số phận ngày mai của hai người theo triết lý ấy? Còn chúng ta ngày nay, nên hiểu thế nào, nên suy nghĩ, ứng xử thế nào về sắc, về tài, về dung nhan, phẩm hạnh của ta, của mọi người... xin để mỗi người định liệu.

Tóm lại chỉ đọc 12 dòng thơ trong Truyện Kiều, chúng ta đủ thấy tài năng sáng tạo của thi hào dân tộc Nguyễn Du. Ngòi bút của vụ linh hoạt vô cùng, khi tả chi tiết, khi chỉ lướt qua, lúc vẽ người, lúc so sánh ẩn dụ... kết hợp tính ước lệ của sách vở và cách nói dân gian, vừa làm văn chương, vừa gửi gắm tâm tư tình cảm. Tất cả, bắt nguồn từ một tấm lòng nhân đạo, một quan điểm thẩm mĩ, một triết lý vì con người lo lắng cho con người.

d] Khi gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật nào? Nhận xét về nhan sắc và tính cách của Thúy Vân.


Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp của Thúy Vân: một vẻ đẹp cao sang, quí phái.

Khi gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân tác giả đã sử dụng những biện pháp nghệ thuật: Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”, “hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”

=> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang, thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm;lông mày sắc nét như mày ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn màng hơn tuyết. Vẻ đẹp của Thúy Vân hài hòa với thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm đềm với xung quanh. Dự báo về một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.


Từ khóa tìm kiếm Google: giải bài 6 truyen kieu - chi em thuy kieu, truyen kieu - chi em thuy kieu trang 48, truyen kieu - chi em thuy kieu sách vnen ngữ văn 9, giải ngữ văn 9 sách vnen chi tiết dễ hiểu.

Chứng minh: Nguyễn Du miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều là ngầm dự báo về số phận mỗi người

Quân tử đa truân, hồng nhan bạc phận không những thường xảy ra mà đã thành câu cửa miệng của người đời. Có thể nói, trong “Truyện Kiều”, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du, mỗi nhân vật dù chính diện hay phản diện đều hiện lên với một chân dung hết sức sinh động, đồng thời tuân thủ theo quan niệm nhân sinh nghiệt ngã ấy. Đó là Kim Trọng “phong lưu tài mạo tót vời”, là Từ Hải “râu hùm hàm én, mày ngài”, là Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”, là Hồ Tôn Hiến “lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”… Đặc biệt, nổi bật trong số đó là bức chân dung chị em Thúy Kiều. Cách miêu tả bức chân dung của Thúy Kiều và Thúy Vân phải chăng Nguyễn Du đã ngầm dự báo về tương lai của hai nàng?

Mở đầu đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, Nguyễn Du giới thiệu khái quát về hai chị em Thuý Kiều. Lời giới thiệu cũng chính là một lời ca ngợi :

“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”.

Bằng bút pháp ước lệ, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của người thiếu nữ. Đó là vẻ đẹp của “cốt cách”, dáng vẻ thanh tú như cành mai ; là vẻ đẹp của “tinh thần” trong trắng, thanh khiết như tuyết. Câu thơ: “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười” đã khẳng định sự hoàn mĩ, hơn người của hai nàng và ý thức lý tưởng hoá cao độ vẻ đẹp người con gái của nhà thơ.

Sau lời giới thiệu chung, lẽ ra theo đúng trật tự nghi lễ phong kiến, tác giả phải giới thiệu Thuý Kiều trước. Nhưng ở đây, Nguyễn Du lại bắt đầu bằng việc gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân :

“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt trong trắng, rực rỡ, vững bền để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân như: “khuôn trăng”, “hoa cười”, “ngọc thốt”, “mây tuyết”… Nhà thơ nhấn mạnh tính chất “trang trọng, đoan trang” của vẻ đẹp Thuý Vân. Khuôn mặt nàng đầy đặn, phúc hậu tựa trăng rằm ; lông mày cong, đậm ; miệng cười tươi như hoa nở ; tiếng nói trong trẻo như ngọc rung; mái tóc đen óng, mượt mà hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Nét nào ở Thuý Vân cũng hoàn hảo hơn những vẻ đẹp vốn có trong thiên nhiên, trời đất. Nhưng điều quan trọng là, vẻ đẹp ấy luôn tạo được sự hoà hợp, êm ấm với xung quanh, báo trước một cuộc đời bằng phẳng, suôn sẻ. Chỉ với 4 câu thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên một chân dung Thuý Vân với những dự cảm về số phận nhân vật.

Thuý Vân đã đẹp, nhưng Thuý Kiều còn đẹp hơn. Để thể hiện vẻ đẹp, tài năng của nàng Kiều, tác giả đã dùng đến 12 câu thơ :

“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước, nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”

Ấn tượng chung về bức chân dung này là vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” – một vẻ đẹp nổi bật, có sức hấp dẫn, cuốn hút mạnh mẽ. Nếu miêu tả Thuý Vân, Nguyễn Du đã dừng ở nhiều chi tiết trên khuôn mặt nàng, thì ngược lại, khi tả Thuý Kiều tác giả chỉ tập trung vào đôi mắt. Đôi mắt là phần gợi cảm nhất, phần hồn của khuôn mặt. Đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ. Đôi mắt Kiều được ví như làn nước mùa thu biếc xanh thăm thẳm. Nét lông mày thanh tú càng tôn thêm vẻ đẹp sâu thẳm của đôi mắt. Nguyễn Du đã thực sự công phu, tinh vi trong việc đặc tả đôi mắt – nơi thể hiện cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn Thuý Kiều. Bằng sự lựa chọn đó, thi hào đã làm nổi bật chân dung nhân vật mà ông trân trọng và yêu thương nhất.

Vẻ đẹp của Thuý Vân khiến mây “thua”, tuyết “nhường”, nhưng vẻ đẹp của Kiều thì khiến hoa phải “ghen”, liễu phải “hờn”. Tuy là ước lệ, nhưng những hình ảnh trên cũng đủ gợi cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế.

Không chỉ đẹp, Kiều còn rất đa tài :

“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm
Cung thương, làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên “bạc mệnh” lại càng não nhân”.

Kiều vốn là người thông minh. Chính năng lực ấy là sức mạnh gìn giữ vẻ đẹp và nhân cách, nhân phẩm của nàng trong nghịch cảnh đầy trái ngang.

Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, người tài là người hội đủ cả bốn khả năng: cầm, kỳ, thi, hoạ. Nếu vậy, có thể nói tài năng ở Kiều đã đạt tới mức lý tưởng theo quan niệm ấy. Nàng biết làm thơ, vẽ tranh, biết ca ngâm, thành thạo âm nhạc và đặc biệt ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc hơn người. Tài thơ của nàng khiến cho Đạm Tiên phải thốt khen :

“Ví đem vào tập Đoạn trường
Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.”

Tài đàn của nàng làm cho chàng Kim, một con người “vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa” cũng phải “ngơ ngẩn”. Khúc “Bạc mệnh” do chính nàng soạn làm cho người nghe buồn thương rơi lệ. Tiếng đàn ấy cũng chính là tiếng lòng của một trái tim nhạy cảm, đa sầu, đa cảm.

Có thể nói, vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hài hoà giữa sắc và tài. Vẻ đẹp hoàn hảo “mười phân vẹn mười” khiến tạo hoá cũng phải ghen ghét. Trong quan niệm xưa, vẻ đẹp thiên nhiên vốn được xem là chuẩn mực, là thước đo vẻ đẹp con người. Đến Nguyễn Du, chuẩn mực đó dường như quá chật hẹp so với vẻ đẹp của con người. Thế nên ông mới miêu tả sự đố kị của tạo vật trước vẻ đẹp nàng Kiều [“hoa ghen”, “liễu hờn”]. Đó cũng chính là sự sắc sảo của Nguyễn Du. Sự đố kị của thiên nhiên dự báo một cuộc đời đầy sóng gió, giông bão đang đón đợi Kiều. Khúc “Bạc mệnh” ai oán được phổ bởi chính tay nàng giữa tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất báo hiệu một số phận éo le, đau khổ của kiếp hồng nhan. Bởi vậy miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du qua đó còn muốn gợi tả tính cách, dự báo số phận, thân phận của mỗi người sau này.

Trình tự miêu tả nhân vật của Nguyễn Du mang đầy dụng ý. Trước hết tác giả miêu tả Thuý Vân – một bức chân dung đẹp tưởng không còn vẻ đẹp nào hoàn hảo hơn. Đến Thuý Kiều, mặc dù cũng gợi tả bằng vài hình ảnh ước lệ và đặc tả đôi mắt, tài năng “vốn sẵn tính trời” của nàng, thế nhưng dường như bức chân dung Thuý Vân đã trở nên khiêm nhường trước bức hoạ nàng Kiều. Đó là nghệ thuật đòn bẩy, “hoạ mây lẩy trăng” đầy tài tình của tác giả. Mặt khác, gợi tả tài sắc chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp toàn vẹn, lí tưởng của con người – tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo nhất của tạo hoá. Nó mang đậm cảm hứng ngưỡng mộ, ngợi ca của thi hào Nguyễn Du.

Thế nhưng, cuộc đời thật nghiệt ngã. Những gì tươi đẹp lại thường có số phận hẩm hiu, kẻ tài sắc thường mang lấy tai ương, vận nạn. Rõ rằng: hoa thường hay héo, cỏ thường tươi. Cảm thức được điều đó, Tô Đông Pha từng thốt lên rằng:

Xưa nay giai nhân thường mệnh bạc,
Cửa kín xuân tàn hoa rụng rơi.

Thúy Kiều mang vẻ đẹp hơn người, điều đó thật đáng quý. Tuy nhiên, điều đáng lo ngại đó là sắc đẹp của nàng đạt đến bực ngoại hạng, trác việt, xưa nay chưa từng có và mãi mãi về sau cũng không thể có. Có thể xem sắc đẹp và tài năng, trí tuệ của nàng là báu vật ở trên đời. Trong khi đó, gia thế của nàng thì không tương xứng. Điều đó tạo ra một mối nguy lớn, kẻ có tiền, có quyền sẽ nhòm ngó đến sắc đẹp ấy và ra mưu chiếm đoạt. Kẻ phàm phu thường mê dục, háo sắc, tránh sao được con mắt của người đời. Khởi đầu tai hoạ đối với Thúy Kiều và gia đình nàng, phải chăng cũng vì vẻ đẹp phi thường của nàng mà ra?

Mặt khác, trọng đức hơn trọng sắc là một thực tế kéo dài trong xã hội phong kiến ở cả Trung Quốc và Việt Nam. Giáo sư Trần Đình Hượu từng nhận xét: “Các nhà nho cho sắc đẹp là một thứ của làm nước mất nhà tan, một điềm bất tường. Gia đình xã hội đề cao người con gái nết na đoan trang [phù hợp với Thúy Vân] chứ không đề cao sắc đẹp [như Thúy Kiều vì quá đẹp thành ra không phù hợp]. Cuộc đời lưu lạc của Thuý Kiều thể hiện những triết lý của Nguyễn Du về thuyết “hồng nhan bạc phận” nhưng ta có thể nhận thấy sự đồng cảm và bênh vực của thi nhân đối với những người phụ nữ nhan sắc. Nguyễn Du viết về người phụ nữ tài sắc bằng con mắt thoát ly với định kiến thong thường của xã hội phong kiến và mang tầm tư tưởng nhân đạo cao cả. Viết về Kiều, dù cuộc đời lưu lạc của nàng đầy cay đắng nhưng ông không gợi cho người đọc nàng là một kỹ nữ đáng khinh miệt mà Nguyễn Du luôn đứng trên lập trường bảo vệ nhân phẩm và cảm thông tri âm với nàng.

Nhân vật là hình thức khái quát đời sống, là nơi bộc lộ quan điểm của nhà văn về con người. Nhân vật Thuý Vân, Thuý Kiều không chỉ chuyển tải được những chức năng ấy, mà cao hơn đã trở thành điển hình nghệ thuật, chuẩn mực của văn học trung đại. Liệu còn bức chân dung nào “đoan trang” trong sáng hơn Thuý Vân, đẹp đẽ và toàn bích hơn Thuý Kiều nữa chăng?

Video liên quan

Chủ Đề