Nguyên nhân giảm áp trong dây hơi

Định luật Henry cho thấy độ hoà tan của một chất khí trong chất lỏng tỷ lệ thuận với áp lực tác động lên khí và chất lỏng. Do đó, lượng khí trơ [ví dụ: nitơ, heli] hòa tan trong máu và mô tăng lên khi áp suất cao hơn.

Bệnh giảm áp xảy ra trong khoảng từ 2 đến 4/10000 lần lặn ở các thợ lặn không chuyên. Tỷ lệ này cao hơn ở các thợ lặn thương mại, những người thường có tổn thương cơ xương nhỏ. Các yếu tố nguy cơ bao gồm:

  • Lặn ở nhiệt độ thấp

  • Mất nước

  • Tập thể dục sau khi lặn

  • Mệt mỏi

  • Đi máy bay sau khi lặn

  • Béo phì

  • Tuổi cao

  • Lặn kéo dài hoặc lặn sâu

  • Bơi lên nhanh

  • Luồng thông tim phải sang trái

Do lượng nitơ dư thừa vẫn còn hòa tan trong các mô cơ thể ít nhất 12 giờ sau mỗi lần lặn, việc tiếp tục lặn trong vòng 1 ngày có thể gây ra bệnh giảm áp. Bệnh giảm áp cũng có thể tiến triển nếu áp suất giảm xuống dưới áp suất khí quyển [ví dụ, khi đi lên cao].

Nói chung, có 2 loại bệnh giảm áp:

  • Sự liên quan của khớp, da và bạch huyết, hoặc Loại I, nhẹ hơn và thường không đe dọa tính mạng.

  • Liên quan đến thần kinh hoặc tim mạch, hoặc loại II, nghiêm trọng, đôi khi đe dọa tính mạng và ảnh hưởng đến các hệ thống cơ quan khác nhau.

Tủy sống đặc biệt dễ bị tổn thương; các cơ quan dễ bị tổn thương khác bao gồm não, hệ hô hấp [ví dụ, thuyên tắc phổi], và hệ tuần hoàn [ví dụ, suy tim, sốc tim].

Bệnh khí nén liên quan đến đau khớp hoặc đau cơ cục bộ do bệnh giải nén nhưng thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa cho bất kỳ biểu hiện nào của bệnh lý này.

Triệu chứng và Dấu hiệu

Các triệu chứng nghiêm trọng có thể xuất hiện trong vòng vài phút sau khi lên cạn, nhưng ở hầu hết bệnh nhân, các triệu chứng bắt đầu dần dần, đôi khi với các triệu chứng khó chịu, mệt mỏi, chán ăn, và nhức đầu. Các triệu chứng xảy ra trong vòng 1 giờ khi lên cạn ở khoảng 50% bệnh nhân và 6 giờ ở 90% bệnh nhân. Hiếm khi, các triệu chứng có thể xuất hiện từ 24 đến 48 giờ sau khi lên cạn, đặc biệt là khi tiếp xúc với độ cao sau khi lặn [như đi máy bay].

Bệnh giảm áp loại I thường gây đau dần dần ở khớp [thông thường là khuỷu tay và vai],và cơ; cơn đau tăng khi vận động và được miêu tả là "sâu" và "âm ỉ." Các biểu hiện khác bao gồm nổi hạch bạch huyết, da đốm, ngứa và phát ban.

Bệnh giảm áp loại II có xu hướng gây ra các triệu chứng thần kinh và đôi khi có triệu chứng hô hấp. Các triệu chứng điển hình là liệt nhẹ, tê bì và ngứa ran, khó đi tiểu, và mất kiểm soát ruột hoặc bàng quang. Nhức đầu và mệt mỏi có thể xuất hiện nhưng không đặc hiệu. Chóng mặt, ù tai, và mất thính lực có thể xảy ra nếu tai trong bị ảnh hưởng. Các triệu chứng nghiêm trọng bao gồm động kinh, nói ngọng, mất thị lực, lẫn lộn và hôn mê. Tử vong có thể xảy ra.

Ngạt thở [bệnh suy giảm hô hấp] là một biểu hiện hiếm gặp nhưng nghiêm trọng; các triệu chứng bao gồm khó thở, đau ngực, ho do phù phổi. Thuyên tắc mạch máu phổi do bóng khí lớn có thể dẫn đến suy tuần hoàn nhanh chóng và tử vong.

  • Đánh giá lâm sàng

Chẩn đoán dựa vào lâm sàng. CT và MRI có thể giúp loại trừ các bệnh lý khác gây ra các triệu chứng tương tự [ví dụ, thoát vị đĩa đệm liên đốt sống, đột quỵ thiếu máu cục bộ, xuất huyết não]. Mặc dù những biện pháp này có thể cho thấy những bất thường về não hoặc tủy sống, nhưng chúng không nhạy cảm với bệnh giảm áp và điều trị thường bắt đầu dựa trên nghi ngờ trên lâm sàng.

Đối với hoại tử xương do khí nén, x-quang xương có thể phát hiện thoái hóa khớp, nhưng không thể phân biệt với các bệnh lý khớp khác; MRI thường có giá trị chẩn đoán.

  • Oxy 100%

  • Liệu pháp tăng áp

  • Liệu pháp truyền dịch để duy trì thể tích trong lòng mạch

Khoảng 80% bệnh nhân hồi phục hoàn toàn.

Ban đầu, lưu lượng cao oxy 100% làm tăng tốc độ thải trừ nitơ do làm tăng gradient áp suất nitơ giữa phổi và hệ tuần hoàn, do đó tăng tốc độ tái hấp thu bọt khí.

Để khôi phục lại lượng dịch bị mất trong lòng mạch, dịch hồi sức đường uống [hoặc nước lọc] được chỉ định cho bệnh nhân có biểu hiện nhẹ. Truyền dịch đẳng trương, không glucose được chỉ định cho những người có biểu hiện nghiêm trọng.

Nếu cần thiết phải vận chuyển bệnh nhân bằng đường hàng không, máy bay có khả năng chịu áp suất bên trong 1 atmosphere sẽ được ưu tiên sử dụng hơn. Với máy bay không có áp suất, cần duy trì bay ở độ cao thấp [

Chủ Đề