Nhà thơ Quang Dũng được mênh danh là gì
Skip to content
Quang Dũng (tên thật là Bùi Đình Diệm; 1921 – 13 tháng 10 năm 1988) là một nhà thơ Việt Nam. Ông là tác giả của một số bài thơ nổi tiếng như Tây Tiến, Đôi mắt người Sơn Tây, Đôi bờ… Ngoài ra Quang Dũng còn là một họa sĩ, nhạc sĩ. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ miền Bắc trưởng thành và nổi danh sau Cách mạng tháng Tám. Cuộc đời và sự nghiệp của Quang Dũng đã được một số người so sánh với một tên tuổi đương thời khác là Văn Cao (1923–1995) do có không ít những điểm rất tương đồng (dù không hoàn toàn giống nhau) giữa hai con người nổi tiếng đa tài này của lịch sử văn nghệ Việt Nam trong thế kỷ 20. Cùng chúng tôi tìm hiểu thêm về nhữn sáng tác nổi tiếng của nhà thơ Quang Dũng cũng như đôi nét về tiểu sử của nhà thơ qua bài viết dưới đây bạn nhé! Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi ! Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi Mường Lát hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời ! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Tây tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu, anh về đất Sông Mã gầm lên khúc độc hành Tây tiến người đi không hẹn ước Đường lên thăm thẳm một chia phôi Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi. Em ở thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến cũng ra đi Bất Bạt Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì Vừng trán em vương trời quê hương Mắt em dìu dịu buồn Tây Phương Tôi thấy xứ Đoài mây trắng lắm Em có bao giờ em nhớ thương? Mẹ tôi em có gặp đâu không? Những xác già nua ngập cánh đồng Tôi cũng có thằng em còn bé nhỏ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông Tử độ thu về hoang bóng giặc Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn Đất đá ong khô nhiều suối lệ Em đã bao ngày lệ chứa chan? Thương vườn ruộng khôn khuây Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng Bao giờ tôi gặp em lần nữa Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ Còn có bao giờ em nhớ ta? Thương nhớ ơ hờ, thương nhớ ai? Sông xa từng lớp lớp mưa dài Mắt kia em có sầu cô quạnh Khi chớm heo về một sớm mai? Rét mướt mùa sau chừng sắp ngự Bên này em có nhớ bên kia Giăng giăng mưa bụi quanh phòng tuyến Hiu hắt chiều sông lạnh bến Tề Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ Thoáng hiện em về trong đáy cốc Nói cười như chuyện một đêm mơ Xa quá rồi em người mỗi ngã Bên này đất nước nhớ thương nhau Em đi áo mỏng buông hờn tủi Dòng lệ thơ ngây có dạt dào? Tôi khách qua đường, trưa nắng gắt Nghỉ nhờ đây quán lệch tường xiêu Giàn mướp nghèo không hứa hẹn bao nhiêu Mùa gạo đắt, đường xa, thưa khách vắng Em đắp chăn dầy, tóc em trĩu nặng Tôi mồ hôi ra ngực áo chan chan… Đường tản cư bao suối lạ sương ngàn Em mê sảng sốt hồng đôi má Em có một mình nhà hoang vắng quá Mảnh chăn đào em đắp, có hoa thêu Hàng của em, chai lọ xác xơ nghèo Tôi nhìn lại mảnh quần xưa đã vá Tôi chợt nhớ chúng ta không nhà cửa Em tản cư, tôi là lính tiền phương Xa Hà Nội, cùng nhau, từ một thuở Lòng rưng rưng thương nhau quá dọc đường Tiền nước trả em rồi. Nắng gắt Đường xa xa mờ núi và mây Hồn lính vương vài qua sợi tóc Tôi thương mà em đâu có hay… Một người nhìn sau trước… Chép miệng trong hơi chăn Lính mấy chàng phanh ngực Kênh đào, cuối thu đông 1948 Cuối năm trên đường đi Bố Hạ Tháng chạp mùa cam lửa đốm vườn Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm Cheo leo cầu tạm vắt sông Thương Xe ngựa bình yên leo dốc đỏ Cuối năm trên đường đi Bố Hạ Đỉnh đồi quán sậy dựng phên lau Ngựa dừng rủ bụi than tàu hoả Đường ấp chia tay khách hỏi chào Cuối năm trên đường đi Bố Hạ Ruộng bậc thang còn trơ gốc rạ Rừng núi mờ xa khói trẻ trâu Tơi nón trung du em về đâu Nhớ ai trên đường đi Bố Hạ… Rừng xa Yên Thế hùm thiêng nằm Đồn cũ Phồn Xương rét cuối năm Râu tóc tướng quân cờ nghĩa ruổi Ngựa chiến băng đường dấu còn mới Nép bóng vườn cam đường Bố Hạ Mả Tây, tri huyện lập công làm Bia ký quân thù trận Nhã Nam. Đường ấy dừa trăng như cổ tích đường vào những truyện thuở ngày xanh đường qua bến lội ngang người cát biển thuỷ triều dâng mặn nước lành Đường ấy đi về qua bóng núi miếu đêm soi lạnh xuống sông dài lay động màn sương trên khói sóng thuyền khơi ai gõ mạn xa khơi Đường ấy sao khuya đầm nước mắt trong vời như ngọc, lá tre xanh giếng làng còn ướt trăng trên đá chim ngủ xôn xao độn lá cành Là những đường đi qua ngõ trúc mẹ gìà thao thức ngó qua phên hành quân trong đám người đêm ấy biết có con thương của mẹ hiền Là những đường trăng qua bến láng hoa nhài thơm ngõ đượm quân trang lớp này lớp khác người sang hết thuyền lại nằm phơi dưới nguyệt vàng Là bước quân đi đường kháng chiến lòng thôn trăng giải biết bao nhiêu bao nhiêu giấc ngủ làng thôn động gà chợt nhầm canh chợt gáy theo. Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào Gió mát lung linh vầng Bắc Đẩu Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao. Ngồi đây năm năm miền ly hương Quê người đôi gót mải tha phương Có những chiều chiều trăng đỉnh núi Nhà ai chày gạo giã đêm sương Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran Côn trùng im ỉm lối trăng tàn Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn Tóc bạc trông chừng cảnh héo hon Ngõ trúc quanh quanh sầu bóng lá Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa Ngõ cũ không mong người trở lại Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa Đốt khói lên rồi hương viễn vông Dòng xanh thoáng biến cảnh hư không U hiển liễu trai về quá khứ Chuối vườn rũ lá đóm bay vòng Trông về phương ấy ngóng trông người Trăng có soi qua vầng tóc bạc Nẻo về cố quận nhớ thương ôi! Ai biết Hồ Nam giờ ra sao? Xa cách hồn quê động bóng cau Ðám cưới qua đò quai nón mới Mười năm còn tưởng bóng cô dâu Ai biết Hồ Nam giờ đổi thay Bãi sỏi gầm quanh nước réo ngày Em nhỏ tắm trâu chiều núi biếc Giờ em chiến sĩ ở đâu đây Ai nhớ Hồ Nam mây trắng xa Giây nói tham mưu giăng mọi nhà Tư lệnh cùng dân ăn cỗ giỗ Ði rồi còn nhắc mãi quân ta Vàng cũ thời gian trang nhật ký Bâng khuâng y tá mắt trông người Chưa vào chiến dịch – quân y vắng Quê nhà Hà Nội dạ như khơi. Chưa gặp sao đành thương nhớ nhau? Đôi phen số mệnh cũng cơ cầu Người đi mang nửa hồn đơn lẻ Tôi về hoài vọng một đôi câu Khói thuốc chiều sông hỡi dáng người! Phương nào đôi mắt ngó xa xôi Nào ai biết được niềm u ẩn Từng lắng nhiều trong những mảnh đời Tôi viết chiều nay chiều tưởng vọng Làm thơ mình lại tặng riêng mình Sông trôi luống gợi dòng vô hạn Biền biệt ngày xanh xa ngày xanh Thời đại bao lần khô nước mắt Hoa đèn riêng gửi chút tâm tư Ngắn dài đã học người thiên cổ Vạn đại sầu lên chẳng bến bờ Chiều ấy em về thương nhớ ai? Tôi chắc đường đi đã rất dài Tim tím chiều hôm lên bóng núi Dọc đường mờ những cánh hoa phai Giáo đường chuông rời rạc Gian khổ đường ta ta cứ đi Vững tâm theo kháng chiến trường kỳ Trắng trong nguyền giữ lòng cam thảo Son sắt càng thơm dạ quế chi Non nước đã vương tơ đỗ trọng Giàu sang đâu hám chữ đương qui Lênh đênh dầu mấy lênh đênh nữa Tin tưởng ngày mai rộng lối đi.
Hát mãi từ khi em bỏ chồng Chiều đến, em ngồi trên bến vắng Gửi người bốn xứ mảnh tình không! Lạnh với trường giang kiếp má hồng Chiều đến em bừng son phấn mộng Rẻ người không tiếc mảnh hồn trong. Ðàn phách là đôi bạn khốn cùng Khách ghé phương nao thây kiếp khách Hoài đâu nước mắt khóc tình chung. Nước chảy ngàn xưa luống chảy ròng Nước chảy không về nguồn quá khứ Em buồn dĩ vãng, mắt khô trong. Ðừng nhớ thương em uổng tấc lòng Tìm em kiếp khác Liễu Trai Nương.
Long lanh nhớ giếng quê nhà.
Em ở thành Sơn chạy giặc về Tôi từ chinh chiến cũng ra đi Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt Chiều xanh không thấy núi Ba Vì Vầng trán em mang trời quê hương Mắt em như nước giếng thôn làng Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm Em đã bao ngày em nhớ thương?… Mẹ tôi em có gặp đâu không? Những xác già nua ngập cánh đồng Tôi nhớ một thằng em bé nhỏ Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông Từ độ thu về hoang bóng giặc Điêu tàn ơi lại nối điêu tàn Đất đá ong khô nhiều suối lệ Em đã bao ngày lệ chứa chan? Thương vườn ruộng khôn khuây Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng Bao giờ tôi gặp em lần nữa Chắc đã thanh bình rộn tiếng ca Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ Còn có bao giờ em nhớ ta?
Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau Ngồi đây mà gửi nhớ phương nào Gió mát lung linh vầng Bắc Đẩu Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao. Ngồi đây năm năm miền ly hương Quê người đôi gót mải tha phương Có những chiều chiều trăng đỉnh núi Nhà ai chày gạo giã đêm sương Tịch mịch sầu vơi bèo râm ran Côn trùng im ỉm lối trăng tàn Người ơi quê cũ đèn hoe ngọn Tóc bạc trông chừng cảnh héo hon Ngõ trúc quanh quanh sầu bóng lá Trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa Ngõ cũ không mong người trở lại Mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa Đốt khói lên rồi hương viễn vông Dòng xanh thoáng biến cảnh hư không U hiển liễu trai về quá khứ Chuối vườn rũ lá đóm bay vòng Em ơi! Em ơi! Đêm dần vơi Trông về phương ấy ngóng trông người Trăng có soi qua vầng tóc bạc Nẻo về cố quận nhớ thương ôi! Trăng sáng năm năm mùa lại mùa Hạ này vơi lại nhớ thu xưa Người đi người đi đường quạnh quạnh Ngày tháng thương vay kẻ đợi chờ.
Ngày đầu tiên hòa bình trở lại Cả một tiểu đoàn lính giặc Mồ cao mả thấp ngổn ngang Trắng loáng những cây chữ thập Và đôi dòng chữ tiếc thương Rải rác bên những boongke nham nhở Những bốt đồn hình thù quái gở Đã không ở trong để mà cố thủ Trên bãi cỏ tìm bình yên bảo đảm Mỗi người đều để lại tên mình Như những câu sấm truyền định mệnh Có cả ngày đi, chức tước, quê hương Trời mưa thu, mới hôm qua Ai đã thấy cái buồn nghĩa địa Khi cỏ nằm trong nước ngập mồ hoang Nhoi nhóp kêu trên bãi mộ Đã hy sinh cho nước Pháp” Tên như một bài thơ rất đẹp Còn bao giờ về tới quê hương… Tuổi còn xanh, mắt còn tha thiết Có phải quê ở bờ sông Nin Trên bãi cát dài bóng cây “bao báp” Theo nhịp trống gợi hồn sa mạc Để về với đất trời bên ấy Hai mươi tuổi trẻ nằm đây Lòng đất Việt Nam hiền hậu Thôi những ai bên kia chân trời Đừng dành góc nhà nhỏ thân yêu Đừng mong bóng trang phục quân nhân Những thành phố viễn chinh Về làm quà cho em nhỏ, họ hàng Món tiền lương của Chabbi dành dụm Đổi bằng xương máu nằm đây Mỗi khi qua một vùng nghĩa địa Quân thù gửi đất chúng ta Lúc buông súng trả mình về cho đất Chabbi có bao giờ hiểu nữa Những người bạn thương anh Nằm trên đất nước của mình.
Tuyết lạnh che mờ trời Hán quốc Tỳ bà lanh lảnh buốt cung thương Tang tình năm ngón sầu dâng lệ Chiêu Quân sang Hồ xừ hồ xang Đây Nhạn Môn quan đường ải vắng Trường Thành xa lắm Hán vương ơi! Chiêu Quân che khép mền chiên bạch Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi Ngó lại xanh xanh triều Hán đế Từng hàng châu lệ thấm chiên nhung Quân vương chắc cũng say và khóc Ái khanh! Ái khanh! Lời nghẹn ngùng Hồ xang hồ xang xừ hồ xang Chiêu Quân nàng ơi lệ dâng hàng Lã chã trời Phiên mưa tuyết xuống Chiêu Quân sang Hồ, xừ hồ xang.
Bao nhiêu vành khăn trắng
Mắt sáng trong đang tập đánh vần Tuổi em mười bốn chớm mùa xuân Muối vừng hương thơm ngậy Cày cấy tập đoàn cũng ngừng tay Chiều rồi ba-lô lại ra đi Bâng khuâng hồn lính vấn vương gì Nhớ mẹ già tiền cơm chẳng lấy Nhớ em khó nghèo giữa vườn hoang dại Kẻng vừa đánh lên, cày tập đoàn cũng vãn.
“Người yêu say đắm hơn hoa mùa xuân” Cô ta có người yêu hò hẹn Những lúc chơi giăng đùa gió trở về Tiếng guốc lên thang gác lanh chanh Đường phố chiều nay thứ bảy Tiếng guốc ròn trên đường nhựa Những người thiếu nữ hai mươi Hãnh diện thấy mình nhan sắc Đàn ca, sáo nhị tưng bừng. Trăng Cổ Ngư, đường hoa thơm Mùi dạ hương, gió hoàng lan rạo rực Hoa bay tà áo tiếng cười. Người đi về mấy ngả đường vui. Hoà bình đời đang cải thiện Ca-vát thắt không còn ngượng nghịu “Những bàn tay còn chai súng Dép lốp áo nâu đã thành kỷ niệm Màu sơ mi trắng giàu sang Phơi phới ánh đèn thứ bảy. Đi trong tay một bạn thanh xuân Bốn bước nhịp nhàng tuổi trẻ Cùng người yêu xem văn công nước bạn Trên núi rừng biên giới uy nghiêm Mái tóc và miệng cười như vậy Miệng cười mái tóc của em Run run những dòng kỷ niệm Hai người hẹn ước chờ nhau. Tấm ảnh giữ gìn để trong xà cột Của tấm tình đầu mộng đẹp Soi sáng trăng rừng Việt Bắc Nhớ góc phố chia tay ngày ấy Lúc Hà Nội Tiến quân Ca vùng dậy Như trong bài hát những người đi – Tôi hành quân lên đường Đuôi mắt vời trông nếp áo Tiếng báng súng chạm vào ca sắt Và cánh sao bay trong lá quốc kỳ Của hai năm hoà bình lập lại Thân nằm trên một đỉnh Trường Sơn Trăng lặn sau mồ chiến sĩ Chiều thứ bảy tưng bừng ở đây Người đã cho tôi, cho em, cho Hà Nội Ánh sáng niềm vui đáng sống hôm nay Người chết đã đi vào kỷ niệm Róc rách ru đời tiếng nước. Người đã chết còn làm sao đi được Trên đường vui ánh sáng hôm nay Tôi nhìn qua khói thuốc xanh dài Em thầm lặng đi trong tay bạn mới. Lối nói của một nhà thơ xưa vĩ đại Hai người trẻ tuổi cứ đi đi Và hãy sống làm sao cho xứng đáng Của những người con yêu ngã trước Đàn ông đã ngã trên chiến trường Vất vả nuôi con những ngày kháng chiến Xót xa thương khóc bao ngày Họ đi bên người chồng mới lấy Bên người cha mới hôm qua Ngậm ngùi cất kỹ ảnh chồng Đau khổ đi thêm một bước. Những người cha đã một lần Hy sinh cho Nghĩa Lớn con người Như một người để chân bước lang thang rạp hát trống tuồng nhộn rịp Cho xứng là Dân chủ Cộng hoà Hà Nội nghìn năm ánh sáng của ta Tôi lắng nghe tiếng giầy mình Xương người còn gửi quanh đây Gốc sấu, chân tường, ngay bên cột điện Anh nằm xương trắng mười năm. Sao chính mình vẫn còn trở lại Những lứa tuổi thanh niên thời đại Sao chính mình còn thấy trăng sao Ngó tờ áp-phích xi-nê xanh đỏ Đi trong bóng cây che ánh điện Chính là những bước tường Người quyết tử quân đã nấp Những đêm tháng chạp đầu tiên Sử vàng ghi bảng đẹp gia đình. “Người yêu say đắm hơn hoa mùa xuân” Tiếng hát làm cho tôi rạo rực Bâng khuâng thấy nhiều ước mộng Đã bao người hy sinh cả vợ Cả con, cả tình yêu, cả tuổi xanh mình Cuộc đời có những chiều thứ bảy Đường phố bừng lên Ánh sáng Cuộc đời, dầu là ở nơi cầu thang nhỏ hẹp Cũng có người vừa tiễn người yêu… Quang Dũng tên thật Bùi Đình Diệm, sinh năm 1921 tại làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng (nay thuộc Hà Nội). Trước cách mạng tháng Tám, ông học Ban trung học trường Thăng Long. Sau khi tốt nghiệp, ông đi dạy học tư ở Sơn Tây. Ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, trở thành phóng viên tiền phương của báo Chiến đấu. Năm 1947, ông được điều đi học Trường bổ túc trung cấp quân sự Sơn Tây. Sau khoá học, ông làm Đại đội trưởng ở tiểu đoàn 212, Trung đoàn 52 Tây Tiến. Ông tham gia chiến dịch Tây Tiến đợt hai, mở đường qua đất Tây Bắc. Trong thời gian này, ông còn được cử làm Phó đoàn tuyên truyền Lào – Việt. Cuối năm 1948, sau chiến dịch Tây Tiến, ông làm Trưởng tiểu ban tuyên huấn của Trung đoàn 52 Tây Tiến, rồi làm Trưởng đoàn Văn nghệ Liên khu III. Ông đã viết rất nhiều truyện ngắn xuất bản và viết kịch, cũng như đã triển lãm tranh sơn dầu cùng với các họa sĩ nổi danh. Ông sáng tác nhạc, bài Ba Vì của ông đã nổi tiếng ở trong khu kháng chiến. Ông làm bài thơ Tây Tiến năm 1948 khi dự Đại hội toàn quân ở Liên khu III tại làng Phù Lưu Chanh (Hà Đông). Tháng 8 năm 1951, ông xuất ngũ. Sau 1954, ông làm Biên tập viên tại báo Văn nghệ, rồi chuyển về làm việc tại Nhà xuất bản Văn học. Ông phải đi chỉnh huấn sau vụ tờ báo Nhân Văn – Giai Phẩm. Bài thơ “Tây Tiến” của ông được nhiều người yêu thích, được xuất bản và phổ biến rộng rãi và được nhiều người yêu thích ngay cả ở miền nam thời đó. Tuy nổi tiếng nhưng ông thích sống đạm bạc, không thích khoe khoang tên tuổi với ai. Khi nhận được những lời mời biếu tiền để sáng tác thơ của giới nhà giàu, ông từ chối và nói “Văn chương chữ nghĩa rẻ rúng đến thế ư?”. Về sau này, như những nhà thơ lớn khác, Nguyễn Bính, Hồ Dzếnh,… ông không sáng tác thêm được nhiều tác phẩm nổi bật và mất đi trong âm thầm. Ông mất ngày 13 tháng 10 năm 1988 sau một thời gian dài bị bệnh tại bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Năm 2001, ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông là người tài hoa, vẽ tài, hát giỏi, thơ hay. Bài thơ Tây Tiến của ông mang đậm nét hào hùng, bi tráng pha chất lãng mạn được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông. Một số bài thơ của ông đã được phổ nhạc như Tây Tiến (Phạm Duy phổ nhạc), Đôi mắt người Sơn Tây (Phạm Đình Chương phổ từ hai bài thơ Đôi bờ và Đôi mắt người Sơn Tây), Kẻ ở (Cung Tiến phổ nhạc). Đặc biệt bài thơ Không đề được 4 nhạc sĩ phổ nhạc khác nhau (Việt Dũng (với tựa đề “Có những cuộc tình không là trăm năm”), Phạm Trọng Cầu (tựa đề “Em mãi là 20 tuổi”), Khúc Dương (“Em mãi là 20 tuổi”), Quang Vĩnh). Tác phẩm tiêu biểu là các tập thơ Bài Thơ Sông Hồng (1956), Rừng Biển Quê Hương (1957), Mây Đầu Ô (1986); truyện ngắn Mùa Hoa Gạo (1950); hồi ký Làng Đồi Đánh Giặc (1976)… Hiện nay tại trường Tiểu học Thị trấn Phùng (cấp 3 Đan Phượng cũ – quê ông) có đặt một bức tượng Quang Dũng trong trang phục người lính Tây Tiến. Bài thơ Bố Hạ qua bút tích nhà thơ Mùa hoa gạo (1950), tập truyện ngắn Bài thơ sông Hồng (1956), truyện thơ Rừng biển quê hương (1958), tập thơ in chung cùng với Trần Lê Văn Đường lên châu Thuận (1964), tập bút ký Rừng về xuôi (1964), tập bút ký Nhà đồi (1970), truyện ký Làng Đồi đánh giặc (1976), hồi ký Mây đầu ô (1986), tập thơ Quang Dũng – Tác phẩm chọn lọc (1988) Đoàn binh Tây Tiến (2019), di cảo – hồi kí Năm 2001, Quang Dũng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Hiện nay tại trường tiểu học thị trấn Phùng (trường cấp 3 Đan Phượng cũ –quê của ông) có đặt một bức tượng Quang Dũng trong trang phục người lính Tây Tiến. Trên đây là những thông tin liên quan đến nhà thơ Quang Dũng do dean2020.edu.vn đã tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những chia sẻ trên đây sẽ giúp bạn có thêm nhiều thông tin hơn về nhà thơ Quang Dũng bạn nhé!
|