Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của đảng
- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, được giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. - Kháng chiến toàn dân: Tất cả nhân dân đều tham gia đánh giặc, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo... Mỗi người Việt Nam là một chiến sĩ. Góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, huy động toàn thể dân tộc tham gia kháng chiến, cung cấp sức người, sức cửa phục vụ kháng chiến thì nhất định sẽ thành công. - Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Bởi lẽ, Pháp đánh Việt Nam không chỉ về mặt quân sự mà còn đánh trên nhiều lĩnh vực: chúng phá hoại kinh tế của ta, làm cho ta suy yếu về chính trị, thực hiện chính sách ngu dân, tìm cách cô lập ta với quốc tế... Mặt khác, ta vừa phải thực hiện kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế độ mới. - Kháng chiến trường kỳ: kháng chiến lâu dài, vì trên thực tế khi so sánh tương quan lực lượng, Pháp mạnh hơn ta rất nhiều, đó là một quân đội nhà nghề, có trang bị vũ khí hiện đại, lại có sự hậu thuẫn của các nước đế quốc. Âm mưu của Pháp là “đánh nhanh thắng nhanh” để kết thúc chiến tranh. Còn Việt Nam, quân đội mới được thành lập, còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Nên buộc ta phải vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, nên ta phải tiến hành kháng chiến lâu dài, đợi đến khi mạnh hơn Pháp mới đánh bại được chúng. - Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: nghĩa là, lấy sức người, sức của của toàn dân tộc để phục vụ kháng chiến, phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Bên cạnh đó, cần tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng không được ỷ lại, phụ thuộc vào sự giúp đỡ đó. - Lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt tiến trình cách mạng của nhân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là con đường duy nhất để tăng cường sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. (Nguồn: trang 131 sgk Lịch Sử 12:)
Quá trình hình thành và phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống pháp của Đảng? Chúng ta đi sâu phân tích hai vấn đề:
Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó: - Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ, nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.
+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta. + Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng. + Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên, khu Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thư đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!
- Cơ sở lý luận và thực tiễn: Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mac-Lenin; Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã được đề ra vô cùng đúng đắn, sang tạo và kịp thời. Có tác dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai đoạn ổn định và phát triển đúng hướng. - Nội dung đường lối đề cập đến những vấn đề sau: - Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện thông qua các văn kiện: Bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ thể trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (9/1947). Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.
Đường lối này xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta; từ mục đích của cuộc kháng chiến là vì độc lập dân tộc, vì tự do dân chủ của nhân dân; từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác – Lênin; từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từ chủ trương “kháng chiến toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh”. Muốn phát huy sức mạnh của toàn dân kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy động lực lượng toàn dân. Có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
Sở dĩ phải kháng chiến toàn diện vì địch đánh ta toàn diện, ta cũng phải chống chúng toàn diện. Đồng thời, ta vừa “kháng chiến” vừa “kiến quốc”, tức là xây dựng chế độ mới nên phải xây dựng toàn diện. Mặt khác, thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện mới tạo điều kiện cho toàn dân tham gia kháng chiến tuỳ theo khả năng của mình.
Đây là một chủ trương sáng suốt của Đảng dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh của nước ta một cách khoa học; đồng thời, kế thừa, phát huy truyền thống của dân tộc “lấy yếu chống mạnh”, “lấy chính nghĩa thắng hung tàn”… Mặt khác, lúc mở đầu chiến tranh, địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự. Chúng có cả một đội quân nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân, lại có các đế quốc khác giúp đỡ. Âm mưu của chúng là đánh nhanh thắng nhanh để kết thúc chiến tranh. Ngược lại, quân đội ta còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh, vừa tiêu hao dần lực lượng của địch, phát triển dần lực lượng của ta, đợi đến khi ta mạnh hơn địch mới đánh bại được chúng.
Đảng ta đề ra chủ trương này vì hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất. “Tự lực cánh sinh” sẽ phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế nhưng ta không ỷ lại vào sự giúp đỡ đó. “Lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt trong tiến trình cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đây là con đường duy nhất đúng để phát huy tiềm năng vốn có của dân tộc: truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường… Sức mạnh nội sinh một khi được khơi dậy thì sự giúp đỡ của bên ngoài mới được phát huy. Hơn nữa, chỉ khi biết dựa vào chính mình thì mới không trông chờ, ỷ lại.
Đường lối kháng chiến của Đảng là ngọn cờ để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân; động viên cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh thắng kẻ thù xâm lược Câu 2: Quá trình bổ sung hoàn thành đường lối? Nguyên nhân
Nội dung chính cương của Đảng lao động Việt Nam
Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách đối với Việt kiều,…
So sánh nội dung chính cương của Đảng Lao Động Việt Nam với Đường lối toàn quốc kháng chiến: Kết quả của giai đoạn 1951-1954
Bài tập nhóm môn Đường lối Đề bài: Đường lối kháng chiến chống Mỹ của nước ta trong giai đoạn 1095-1975 Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc được chia làm hai giai đoạn: I/ Giai đoạn 1954-1964 Bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954 Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống. Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại. Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành. - Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học- kỹ thuật; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến. Bối cảnh lịch sự nêu trên chính là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối kháng chiến chung cho CM cả nước
- Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường
hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ , xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.
“Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoà thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
- Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. - Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn. II/ Giai đoạn 1965-1975 Hoàn cảnh lịch sử của nước ta luc bấy giờ:
Thuân lợi:
Khó khăn:
Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối trong giai đoạn mới: Quá trình hình thành:
Nội dung đường lối:
Ý nghĩa đường lối:
|