Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân pháp của đảng

- Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp được thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, được giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh. Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

- Kháng chiến toàn dân: Tất cả nhân dân đều tham gia đánh giặc, không phân biệt tuổi tác, giới tính, dân tộc, tôn giáo... Mỗi người Việt Nam là một chiến sĩ. Góp phần tạo ra sức mạnh tổng hợp, huy động toàn thể dân tộc tham gia kháng chiến, cung cấp sức người, sức cửa phục vụ kháng chiến thì nhất định sẽ thành công.

- Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ngoại giao... Bởi lẽ, Pháp đánh Việt Nam không chỉ về mặt quân sự mà còn đánh trên nhiều lĩnh vực: chúng phá hoại kinh tế của ta, làm cho ta suy yếu về chính trị, thực hiện chính sách ngu dân, tìm cách cô lập ta với quốc tế... Mặt khác, ta vừa phải thực hiện kháng chiến, vừa kiến quốc, xây dựng chế độ mới.

- Kháng chiến trường kỳ: kháng chiến lâu dài, vì trên thực tế khi so sánh tương quan lực lượng, Pháp mạnh hơn ta rất nhiều, đó là một quân đội nhà nghề, có trang bị vũ khí hiện đại, lại có sự hậu thuẫn của các nước đế quốc. Âm mưu của Pháp là “đánh nhanh thắng nhanh” để kết thúc chiến tranh. Còn Việt Nam, quân đội mới được thành lập, còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Nên buộc ta phải vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, nên ta phải tiến hành kháng chiến lâu dài, đợi đến khi mạnh hơn Pháp mới đánh bại được chúng.

- Kháng chiến dựa vào sức mình là chính: nghĩa là, lấy sức người, sức của của toàn dân tộc để phục vụ kháng chiến, phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Bên cạnh đó, cần tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng không được ỷ lại, phụ thuộc vào sự giúp đỡ đó.

- Lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt tiến trình cách mạng của nhân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là con đường duy nhất để tăng cường sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.

(Nguồn: trang 131 sgk Lịch Sử 12:)

Quá trình hình thành và phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống pháp của Đảng?

Chúng ta đi sâu phân tích hai vấn đề:

    • Đường lối kháng chiến được hình thành như thế nào??

Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó:

- Đảng, Chính phủ và nhân dân ta muốn hoà bình nên đã nhân nhượng kí với Pháp Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước 14/9. Chấp hành chủ trương của Chính phủ, nhân dân ta kiên trì đấu tranh giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian để chuẩn bị lực lượng, đề phòng khả năng bất trắc phải kháng chiến chống Pháp lâu dài.

    • Chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.

+ Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.

+ Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, thực dân Pháp khiêu khích, tiến công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12/1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.

+ Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16/12, quân Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi: đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên, khu Cửa Đông… Trắng trợn hơn, trong các ngày 18 và 19/12/1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thư đòi ta phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20/12/1946, quân Pháp sẽ chuyển sang hành động!

    • Trước hành động ngang ngược của thực dân Pháp, nhân dân ta chỉ có một con đường: cầm vũ khí kháng chiến chống thực Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập, tự do.
    • Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời. Ngày 12/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân kháng chiến. Ngày 18 và 19/12/1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
    • Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến đã tác động mạnh mẽ đến toàn thể dân tọc ta. Lời kêu gọi của Người là tiếng gọi của non sông, là mệnh lệnh tiến công cách mạng, giục giã, soi đường cho nhân dân ta đứng lên đánh giặc, cứu nước.
    • Nội dung và phương châm kháng chiến của Đảng ta?

- Cơ sở lý luận và thực tiễn:

Xuất phát từ những nguyên lý cơ bản về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mac-Lenin; Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của cách mạng, của bối cảnh lịch sử lúc bầy giờ; Xuất phát từ truyền thống yêu nước của nhân dân ta và được kế thừa những kinh nghiệm đánh giặc ngoại xâm của cha ông. Đường lối kháng chiến của Đẳng đã được đề ra vô cùng đúng đắn, sang tạo và kịp thời. Có tác dụng to lớn trong việc đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng vào giai đoạn ổn định và phát triển đúng hướng.

- Nội dung đường lối đề cập đến những vấn đề sau:

- Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng được thể hiện thông qua các văn kiện: Bản chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ thể trong cuốn Kháng chiến nhất định thắng lợi của đồng chí Trường Chinh (9/1947). Đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.

    • Kháng chiến toàn dân: toàn dân kháng chiến, toàn dân đánh giặc, trong đó lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt.

Đường lối này xuất phát từ truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta; từ mục đích của cuộc kháng chiến là vì độc lập dân tộc, vì tự do dân chủ của nhân dân; từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác – Lênin; từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và từ chủ trương “kháng chiến toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh”. Muốn phát huy sức mạnh của toàn dân kháng chiến phải đánh lâu dài, muốn có lực lượng đánh lâu dài phải huy động lực lượng toàn dân. Có lực lượng toàn dân tham gia mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.

    • Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao.

Sở dĩ phải kháng chiến toàn diện vì địch đánh ta toàn diện, ta cũng phải chống chúng toàn diện. Đồng thời, ta vừa “kháng chiến” vừa “kiến quốc”, tức là xây dựng chế độ mới nên phải xây dựng toàn diện. Mặt khác, thông qua những hình thức của cuộc kháng chiến toàn diện mới tạo điều kiện cho toàn dân tham gia kháng chiến tuỳ theo khả năng của mình.

    • Kháng chiến trường kì: đánh lâu dài.

Đây là một chủ trương sáng suốt của Đảng dựa trên sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh của nước ta một cách khoa học; đồng thời, kế thừa, phát huy truyền thống của dân tộc “lấy yếu chống mạnh”, “lấy chính nghĩa thắng hung tàn”…

Mặt khác, lúc mở đầu chiến tranh, địch mạnh hơn ta rất nhiều về quân sự. Chúng có cả một đội quân nhà nghề, trang bị hiện đại, vũ khí tối tân, lại có các đế quốc khác giúp đỡ. Âm mưu của chúng là đánh nhanh thắng nhanh để kết thúc chiến tranh. Ngược lại, quân đội ta còn non trẻ, vũ khí thô sơ. Ta đánh lâu dài để vừa đánh, vừa tiêu hao dần lực lượng của địch, phát triển dần lực lượng của ta, đợi đến khi ta mạnh hơn địch mới đánh bại được chúng.

    • Tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: kháng chiến dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ quốc tế.

Đảng ta đề ra chủ trương này vì hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất. “Tự lực cánh sinh” sẽ phát huy tiềm năng vốn có của cả dân tộc. Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế nhưng ta không ỷ lại vào sự giúp đỡ đó.

Lấy sức ta mà giải phóng cho ta” là quan điểm xuyên suốt trong tiến trình cách mạng của nhân dân ta do Đảng lãnh đạo. Đây là con đường duy nhất đúng để phát huy tiềm năng vốn có của dân tộc: truyền thống yêu nước, tinh thần tự lực tự cường… Sức mạnh nội sinh một khi được khơi dậy thì sự giúp đỡ của bên ngoài mới được phát huy. Hơn nữa, chỉ khi biết dựa vào chính mình thì mới không trông chờ, ỷ lại.

    • Đường lối kháng chiến trên của Đảng nhằm phát huy sức mạnh toàn dân, toàn diện của dân tộc, khắc phục những nhược điểm về vật chất, kỹ thuật, vừa đánh vừa bồi dưỡng sức dân, làm cho ta càng đánh càng mạnh để cuối cùng giành thắng lợi hoàn toàn.
    • Đường lối kháng chiến của Đảng ngày càng phát triển hoàn chỉnh hơn trong quá trình kháng chiến, nhất là qua Đại hội lần thứ II (1951) và qua các Hội nghị Ban Chấp hành trung ương Đảng trong những năm cuối của cuộc kháng chiến.
    • Đường lối kháng chiến đó được thể hiện một cách phong phú, sinh động trong thực tiễn kháng chiến của quân và dân ta trên tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá,…

Đường lối kháng chiến của Đảng là ngọn cờ để đoàn kết toàn Đảng, toàn dân; động viên cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh thắng kẻ thù xâm lược

Câu 2: Quá trình bổ sung hoàn thành đường lối?

Nguyên nhân

    • Sự hình thành và lớn mạnh của các nước XHCN, nhất là nước CHND Trung Hoa, làm thay đổi tương quan lực lượng trên trường quốc tế có lợi cho hòa bình và cách mạng.
    • Đế quốc Mỹ can thiệp trực tiếp vào Đông Dương, vừa giúp đỡ Pháp vừa tìm cơ hội hất cẳng Pháp.
    • Đến đầu năm 1951, nước ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa công nhận và đặt quan hệ ngoại giao.
    • Đảng phải ra công khai để lãnh đạo kháng chiến lấy Chính cương của Đảng lao động Việt Namtên Đảng là Đảng Lao động Việt Nam 

Nội dung chính cương của Đảng lao động Việt Nam

    • Chính cương Đảng Lao động Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh chỉ đạo soạn thảo và được Đại hội II của Đảng (tháng 2.1951) thảo luận, thông qua. Chính cương dài 15 trang (khổ giấy 15 x 22 cm) bao gồm 3 chương: Chương I phân tích tình hình thế giới và Việt Nam; Chương II nói về xã hội Việt Nam và cách mạng Việt Nam; Chương III trình bày chính sách của Đảng Lao động Việt Nam.
    • Chính cương nhận định, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, thế giới chia làm hai phe: phe dân chủ chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo và phe phản dân chủ do Mỹ cầm đầu. Nhiệm vụ trọng tâm của giai cấp công nhân và nhân dân thế giới lúc này là đấu tranh bảo vệ hòa bình; phong trào hòa bình phát triển mạnh chưa từng có trong lịch sử. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ngày càng có tính chất phổ biến, trở thành mục tiêu của các nước thuộc địa và phụ thuộc, làm lay chuyển tận gốc hệ thống đế quốc chủ nghĩa. Việt Nam là một tiền đồn của phe dân chủ ở Đông Nam Á; cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào giải phóng dân tộc, bảo vệ hòa bình và dân chủ trên thế giới.
    • Về tình hình xã hội Việt Nam, Chính cương chỉ rõ: trước khi thuộc Pháp, xã hội Việt Nam căn bản là một xã hội phong kiến, nông dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Từ khi thuộc Pháp, Việt Nam là một xã hội thuộc địa nửa phong kiến; giai cấp công nhân Việt Nam hình thành và trưởng thành nhanh; tư bản Việt Nam ra đời nhưng bị tư bản độc quyền Pháp đè nén nên không phát triển được. Khi Nhật xâm chiếm Việt Nam, chế độ thuộc địa của Pháp ở Việt Nam cũng trở nên phát xít hóa, làm cho nhân dân Việt Nam càng thống khổ hơn.
    • Vì vậy, nhiệm vụ căn bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập thống nhất thật sự cho đất nước, xóa bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Động lực của cách mạng Việt Nam lúc này là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị, tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc, những thân sỹ yêu nước và tiến bộ; trong đó nền tảng là công nhân, nông dân, trí thức; lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân. Từ đó Chính cương khẳng định: cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ trọng tâm, trước mắt là phải tập trung sức hoàn thành giải phóng dân tộc.
    • Về chính sách của Đảng, Chính cương chỉ rõ: hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính sách kháng chiến là thực hiện một cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, trường kỳ, kháng chiến đến cùng để giành độc lập thống nhất cho Tổ quốc. Xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân dựa vào Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nhân, nông dân, trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết với các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sỹ trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo nguyên tắc đoàn kết thành thực, thống nhất hành động, hợp tác lâu dài.

Chính cương còn nêu những quan điểm cơ bản về xây dựng quân đội, phát triển kinh tế tài chính, cải cách ruộng đất, phát triển văn hóa giáo dục, chính sách đối với tôn giáo, chính sách dân tộc, chính sách đối với vùng tạm chiếm, chính sách ngoại giao, chính sách đối với Việt kiều,…

    • Về ngoại giao, Chính cương khẳng định nguyên tắc “tôn trọng độc lập, chủ quyền lãnh thổ, thống nhất quốc gia của nhau và cùng nhau bảo vệ hòa bình, dân chủ thế giới, chống bọn gây chiến”; đoàn kết chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân khác, đoàn kết chặt chẽ với hai dân tộc Miên, Lào, mở rộng ngoại giao nhân dân, giao thiệp thân thiện với Chính phủ nước nào tôn trọng chủ quyền của Việt Nam, đặt quan hệ ngoại giao với các nước đó theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và có lợi cho cả hai bên, đấu tranh cho hòa bình thế giới.

So sánh nội dung chính cương của Đảng Lao Động Việt Nam với Đường lối toàn quốc kháng chiến:
So với đường lối trước đó, “Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.”đã bổ sung thêm tính chất xã hội, con đường tiến lên CNXH và đặt quan hệ quốc tế.
Về tính chất xã hội: “Xã hội Việt nam hiện nay gồm ba tính chất : dân chủ nhân dân, một phần thuộc đĩa và nửa phong kiến”
Về quan hệ xã hội: Việt Nam đứng về phe hòa bình và dân chủ, thực hiện đoàn kết Việt-Trung-Xô, Việt-Miên-Lào
Về con đường tiến lên CNXH:
-Hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc-Xoá phong kiến; hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.-Xây dựng cơ sở cho CNXH, tiến lên thực hiện CNXH

Kết quả của giai đoạn 1951-1954

    • 1951- 1953: Các chiến dịch tiến công giữ vững chủ động trên chiến trường
    • 1953- 1954: Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân giành thắng lợi

Bài tập nhóm môn Đường lối

Đề bài: Đường lối kháng chiến chống Mỹ của nước ta trong giai đoạn 1095-1975

Đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước, thống nhất Tổ quốc được chia làm hai giai đoạn:

I/ Giai đoạn 1954-1964

Bối cảnh lịch sử cách mạng Việt Nam sau tháng 7- 1954

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.

miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.

Để thực hiện âm mưu nói trên, trước khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, ngày 7-7-1954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về Sài Gòn làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17-7-1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23-10-1955 đã tổ chức cái gọi là "trưng cầu dân ý" để phế truất Bảo Đại, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống.

Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất nước ta. Thực chất, đây là một cuộc chiến tranh đơn phương đẫm máu chống lại nhân dân miền Nam trong tay không có vũ khí. Với chính sách "tố cộng", "diệt cộng", loại cộng sản ra ngoài vòng pháp luật để trừng trị, và với khẩu hiệu "thà giết nhầm hơn bỏ sót", chúng thẳng tay đàn áp tất cả các lực lượng chống đối. Chỉ tính đến cuối năm 1955, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng đã bị bắt và bị giết hại.

Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành.

- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học- kỹ thuật; miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến.
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng

Bối cảnh lịch sự nêu trên chính là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định đường lối kháng chiến chung cho CM cả nước

    • Quá trình hình thành và nội dung Đường lối kháng chiến chống Mỹ.

- Yêu cầu bức thiết đặt ra cho Đảng ta sau tháng 7-1954 là phải vạch ra được đường
lối đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình từng miền, tình hình đất nước, vừa phù hợp với xu thế chung của thời đại.
- Tháng 9-1954, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình
trong lúc cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới là: từ chiến tranh chuyển sang hoà bình; nước nhà tạm chia làm hai miền; từ nông thôn chuyển vào thành thì; từ phân tán chuyển đến tập trung.
Tại Hội nghị lần thứ bảy (tháng 3-1955) và lần thứ tám (tháng 8-1955) Trung ương Đảng nhận định: Muốn chống đế quốc Mỹ và tay sai, củng cố hoà bình, thực hiện
thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ, điều cốt lõi là phải ra sức củng cố miền Bắc, đồng thời giữ vững miền Nam và đẩy mạnh cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị Trung ương lần thứ 13, đường lối tiến hành đồng
thời hai chiến lược cách mạng được xác định: “Mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta hiện nay là: Củng cố miền Bắc, đưa miền Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương Pháp hoà bình”.
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 họp bàn về cách mạng miền Nam.
Sau nhiều lần họp và thảo luận, Ban Chấp hành Trung ương đã ra nghị quyết về cách
mạng miền Nam. Trung ương Đảng nhận định: “ Hiện nay, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau… nhằm phương hướng chung là giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là “giải phóng miền Nam
khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam”.
“Con đường phát triển của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành
chính quyền về tay nhân dân”. Đó là con đường “lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở
đường cho cách mạng miền Nam tiến lên mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.
Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là
quá trình hình thành đường lối chiến lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.

    • Nhiệm vụ chung: “ Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững

hoà bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ , xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.

    • Nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai

nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”.

    • Mục tiêu chiến lược: hoà bình và thống nhất Tổ quốc.
    • Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên

“Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”

    • Vai trò, nhiệm vụ của cách mạng mỗi miền đối với cách mạng cả nước: Cách

mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoà thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.

    • Con đường thống nhất đất nước: Trong tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường hoà bình thống nhất theo tinh thành Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máy cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế giới. “Nhưng chúng ta phải luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc”.

- Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng lợi cuối cùng nhất định sẽ thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Đường lối tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
- Đường lối đó thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng: giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vừa phù hợp với miền Bắc vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước Việt Nam và phù hợp với tình hình quốc tế, nên đã huy động và kết hợp được sức mạnh cả nước và sức mạnh của ba dòng thác cách mạng trên thế giới, tranh thủ được sự đồng tình giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc. Do đó, đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp để dân tộc ta đủ sức đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng ta trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại.
- Là cơ sở để Đảng chỉ đạo quân dân ta phấn đấu giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thắng lợi chống các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.

II/ Giai đoạn 1965-1975

Hoàn cảnh lịch sử của nước ta luc bấy giờ:

    • Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ với quy mô lớn, đồng thời tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc .
    • Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn quốc.

Thuân lợi:

    • Khi bước vào cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, cách mạng thế thới đang ở thế tiến công.
    • Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người sức của đến Miền Nam được đẩy mạnh cả theo đường bộ lẫn đường thủy.

Khó khăn:

    • Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt và không có lợi cho cách mạng Việt Nam.
    • Tương quan lực lượng chênh lệch quá lớn.

Quá trình hình thành, nội dung, ý nghĩa của đường lối trong giai đoạn mới:

Quá trình hình thành:

    • Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 (11/1963) xác định quan điểm quốc tế, hướng hoạt động đối ngoại vào việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để đánh Mỹ và thắng Mỹ. Hội nghị tiếp tục khẳng định đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang đi đôi. Đối với miền Bắc, trách nhiệm là căn cứ địa, hậu phương đối với cách mạng miền Nam, đồng thời nâng cao cảnh giác, triển khai mọi mặt sẵn sàng đối phó với âm mưu đánh phá của địch.
    • Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (3/1965) và lần thứ 12 (12/1965) đã tập trung đánh gái tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên cả nước.

Nội dung đường lối:

    • Về nhận đinh tình hình và chủ trương chiến lược: “ chiến tranh cục bộ” là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, chứa đựng đầy mâu thuẫn về chiến lược. cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng của cả dân tộc từ Bắc chí Nam.
    • Quyết tâm và mục tiêu chiến lược: “ quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “ kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ Miền Bắc, giải phóng Miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà”.
    • Phương châm chỉ đạo chiến lược: tiếp tục đẩy mạnh chống chiến tranh cục bộ, phát động nhân dân chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở Miền Bắc, thực hiện kháng chiến lâu dài
    • Tư tưởng chỉ đạo và phương châm đấu tranh ở Miền Nam: giữ vững và phát triển thế tiến công, kiên quyết tiến công và liên tục tiến công. “ tiếp tục kiên trì phương châm chiến tranh quân sự kết hợp vơi đấu tranh chính trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công”, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược.
    • Tư tưởng chỉ đạo đối với miền Bắc: chuyển hướng xây dựng kinh tế, đảm bảo tiếp tục xây dựng miền Bắc vững mạnh về kinh tế và quốc phòng trong điều kiện chiến tranh, tiến hành cuộc chiến tranh nhaandaan chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ để bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, động viên sức người sức của chi viện cho miền Nam, chuẩn bị phương án đề phòng trong trường hợp chúng tiến hành ra cả nước.
    • Nhiệm vụ và mối quan hệ giữa cuộc chiến đấu ở hai miền: trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của nhân dân cả nước, miền Nam là tiền tuyến lớn, miền Bắc là hậu phương lớn

Ý nghĩa đường lối:

    • Thể hiện quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ, tinh thần cách mạng tiến công, độc lập tự chủ, sự kiên trì mục tiêu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, phản ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.
    • Thể hiện tư tưởng nắm vững, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ 2 chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh cả nước có chiến tranh ở mức độ khác nhau, phù hợp với thực tế đất nước và bối cảnh quốc tế.
    • Đó là đường lối chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính được phát triển trong hoàn cảnh mới, tạo nên sức mạnh mới để dân tộc ta đủ sức đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.