Phong trào cách mạng 1936 1939 là cuộc diễn tập lần thứ bao nhiêu của cách mạng tháng 8
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên phá bỏ xiềng xích nô lệ gần một thế kỷ dưới ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và hàng nghìn năm của chế độ quân chủ; giành quyền làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mới. Mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH.
Nhưng kẻ thù của cách mạng tìm cách xuyên tạc những thành quả, những giá trị to lớn của Cách mạng Tháng Tám. Sự xuyên tạc của chúng làm cho một số người không hiểu, hoặc không muốn hiểu sự thật của cách mạng. Một số luận điểm cho rằng vào tháng 8-1945, thời cơ xuất hiện khi quân Nhật bại trận phải đầu hàng, lực lượng các nước Đồng minh tiếp nhận sự đầu hàng chưa vào Đông Dương kịp, do đó xuất hiện "một khoảng trống quyền lực" nhờ đó mà dân tộc Việt Nam giành được độc lập một cách quá dễ dàng, không phải đổ máu, chẳng qua là do "vận may". Thậm chí họ còn cho rằng Cách mạng Tháng Tám chẳng qua "may mắn" mà vớ được chính quyền... Những người này coi thường hoặc phủ nhận hoàn toàn vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng đón bắt thời cơ - nhân tố chủ quan quyết định thắng lợi Cách mạng Tháng Tám 1945. Show Ngày 19-8-1945, Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ (Ảnh tư liệu) Đó là sự nhận thức sai lầm và ngoan cố, xuyên tạc. Sự thật lịch sử đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng là nhân tố chủ quan quan trọng nhất quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Nói như vậy, không có nghĩa là phủ nhận nhân tố khách quan. Đến tháng 8-1945, ở Việt Nam tình thế khách quan vô cùng thuận lợi xuất hiện. Thực hiện lời cam kết ở Hội nghị Yanta, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, quân đội Liên Xô tấn công đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất gồm hơn 1 triệu quân của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Bên cạnh việc quân đội Liên Xô tiến đánh quân đội Nhật thì Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hirôsima ngày (6-8-1945) và Nagadaki ngày (9-8-1945). Trước sức mạnh của đồng minh, ngày 11-8-1945 Chính phủ Nhật gửi thông điệp cho Liên Xô, Mỹ và các nước Đồng minh chấp nhận đầu hàng vô điều kiện. Đúng như dự đoán của lãnh tụ Hồ Chí Minh thì đây là cơ hội nghìn năm có một để nhân dân ta thực hiện tổng khởi nghĩa. Lúc này, thời cơ đã đến. Thời cơ xuất hiện trong những ngày tháng 8 - 1945 không chỉ có ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Đông Nam châu Á bị quân đội Nhật chiếm đóng. Các nước này tuy có điều kiện khách quan thuận lợi giống như ở Việt Nam, nhưng không chớp được thời cơ khởi nghĩa hoặc kịp thời phát động tổng khởi nghĩa nhưng thành quả thu được không nhiều, vì lực lượng chưa được chuẩn bị đầy đủ, Đảng tiên phong chưa nắm được quyền lãnh đạo cách mạng… Chỉ có duy nhất ở Việt Nam từ khi Đảng thành lập năm 1930 đến năm 1945, đảng từng bước chuẩn bị lực lượng, sẵn sàng chờ thời cơ đến và kịp thời chớp thời cơ, lãnh đạo nhân dân Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Đảng đã vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, ra sức và tích cực chuẩn bị lực lượng để đón thời cơ giành thắng lợi chứ không khoanh tay chờ thời một cách bị động. Sự lãnh đạo tích cực của Đảng trong việc chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền, được thể hiện trên 3 mặt sau: Một là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng nổi dậy khởi nghĩa khi thời cơ đến. Quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành cao trào cách mạng 1930 - 1931, đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám. Cao trào dân chủ 1936 - 1939, là cuộc tổng diễn tập thứ 2 chuẩn bị cho cách mạng tháng tám. Cuộc vận động giải phóng dân tộc 1939 - 1945 là cuộc diễn tập thứ ba trực tiếp dẫn đến thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Đặc biệt, trong thời kỳ cao trào kháng Nhật, cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa), sau chỉ thị “Nhật pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” ngày 12-3-1945, Đảng lãnh đạo quần chúng tiến hành khởi nghĩa từng phần, làn sóng khởi nghĩa phát triển mau lẹ, kịp thời và dâng lên gần như đồng thời ở nhiều nơi... Trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, quần chúng nhân dân được chuẩn bị mọi mặt. Nhân dân Việt Nam, nhất là quần chúng trong các tổ chức Cứu quốc, từ lâu đã sẵn sàng hy sinh để giành độc lập, quyết tâm chiến đấu. Hai là, Đảng tích cực vận động, lôi kéo tầng lớp trung gian(1)đứng về phía cách mạng. Trong hệ thống lý luận của giai cấp vô sản, vấn đề tranh thủ tầng lớp trung gian có tầm quan trọng lớn mặc dù về cơ bản tầng lớp trung gian không đóng vai trò đầu tàu quyết định trong những bước ngoặt của lịch sử. Nhưng khi các tầng lớp trung gian ngả về phía cách mạng thì nó tạo thêm điều kiện thuận lợi cho cách mạng thành công. Trái lại, nếu Đảng lãnh đạo cách mạnh không tranh thủ được tầng lớp trung gian, thì nhiều khi thời cơ đã chín muồi mà vẫn không thể làm cách mạng thắng lợi nhanh chóng được. Tình cảnh khó khăn của tầng lớp trung gian là tiền đề tạo ra khả năng lôi cuốn họ vào con đường đấu tranh chống Pháp - Nhật. Nhưng từ khả năng đến hiện thực là cả một quá trình vận động. Chính sách của Đảng với tầng lớp trung gian trong thời kỳ Cách mạng Tháng Tám là: phê bình, uốn nắn, vạch đường lối, chân thành đoàn kết cùng nhau đưa cách mạng đến thành công. Chẳng những thẳng thắn phê bình mà Đảng còn chân thành đoàn kết trong hành động thực tế. Đảng giúp đỡ các tầng lớp trung gian lập ra tổ chức của mình để phát huy năng lực phục vụ Tổ quốc. “Tháng 6 năm 1944 Đảng dân chủ Việt Nam ra đời với tư cách là một chính đảng cách mạng của tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức yêu nước tiến bộ”(2)làm cho thành phần tổ chức của Mặt trận Việt Minh ngày thêm phong phú và khả năng hiệu triệu của tầng lớp trung gian tham gia đánh đuổi Nhật càng được tăng thêm. Tuy vậy, cho đến cuộc đảo chính của Nhật ngày 9-3-1945 các tầng lớp trung gian tham gia phong trào cách mạng chống Nhật - Pháp vẫn chưa đông đảo. Sau đảo chính, nhiều nhân vật trung gian vẫn trải qua một bước dao động ngắn rồi với mạnh dạn tham gia phong trào cứu quốc một cách đông đảo. Một số đông quần chúng trung gian thoạt đầu còn bị mắc lừa Nhật và bọn tay sai Đại Việt quốc gia liên minh vì tưởng rằng Nhật đã ban cho mình độc lập thật, cứ thế mà hưởng. Một số nhân vật trung gian khác, tuy hiểu rằng Nhật chẳng tốt đẹp gì, nhưng thiếu quan điểm đấu tranh cách mạng nên lập lờ chủ trương lợi dụng Nhật hoặc lợi dụng chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim để xây dựng lực lượng cho Việt Nam để sau này Nhật thua có thể chống Pháp nếu Pháp quay trở lại xâm lược lần nữa, điển hình là tổ chứcTân Việt Nam hội. Hơn nữa, bộ mặt có vẻ trung gian của nội các bù nhìn Trần Trọng Kim cũng làm cho nhiều người mắc lừa… Trước tình hình đó, Đảng chủ trương phải vạch mặt chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim "Thân phận bù nhìn của nó chỉ giữ được bù nhìn, phương châm của nó hứa hẹn nhiều nhưng thực hành ít, hay thực hành trái với lời hứa. Nhiệm vụ của nó là bọc nhung cho ách Nhật và hùa với giặc áp bức bóc lột nhân dân”(3), và bóc dần cái vẻ độc lập giả hiệu của phát xít Nhật... Sự phê bình, giúp đỡ của Đảng đã làm cho quần chúng trung gian dần dần tỉnh ngộ và đi theo cách mạng. Mặt khác, thực tiễn chứng minh những điều phê bình chỉ dẫn của Đảng là đúng. Ngày 13-8-1945, sau khi Nhật đầu hàng đồng minh tầng lớp trung gian nói chung đều theo cách mạng. Ba là, Đảng tiền phong đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sẵn sàng lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền Ngay từ năm 1930 tại Hội nghị thành lập Đảng, Chánh cương vắn tắt của Đảng xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập"(4). Đường lối chiến lược và sách lược của Đảng đúng đắn ngay từ đầu và không ngừng được bổ sung, phát triển cho phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.Đặc biệt tại Hội nghị lần thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương (5-1941) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực tiếp chủ trì đã đề ra chủ trươngthay đổi chiến lược cáchmạng. Hội nghịquyết định tiếp tục chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất để tranh thủ mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất. Hội nghị nhấn mạnh “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của các bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”(5). Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa. Cuối năm 1944, Hồng quân Liên Xô phản công tiêu diệt phát xít Đức, Ý, giải phóng các nước Đông Âu, làm cho quân Nhật ở Đông Dương hoang mang dao động. Trước tình hình đó, lãnh tụ Hồ Chí Minh nhận định: "Bây giờ tình hình phát triển cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ khởi nghĩa toàn dân chưa đến. Cho nên nếu chỉ hoạt động trong vòng chính trị thì không đủ để đẩy mạnh phong trào tiến tới, nhưng nếu phát động khởi nghĩa ngay thì sẽ bị quân địch làm cho nguy khốn. Đã đến lúc một cuộc đấu tranh phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, nhưng lúc này chính trị vẫn trọng hơn quân sự, cần phải tiến hành hình thức đấu tranh thích hợp thì mới có thể đưa cách mạng tới thành công"(6). Đêm 9-3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, ngay đêm đó Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương mở rộng được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Ban thường vụ Trung ương Đảng nhận định về thời cơ có thể nổ ra khởi nghĩa: Tình hình chính trị trong cả nước khủng hoảng sâu sắc, nạn đói ghê gớm diễn ra, chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt là những cơ hội tốt cho khởi nghĩa đi đến chín muồi một cách nhanh chóng; Khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương, khi phát xít Nhật đưa quân ra ngăn cản quân Đồng minh, để sau lưng sơ hở thì lúc đó là lúc phát động khởi nghĩa vô cùng thuận lợi. Đồng thời bản Chỉ thị nói rõ “Dù sao ta không thể đem việc quân Đồng minh đổ bộ vào Đông Dương làm điều kiện tất yếu cho cuộc khởi nghĩa của ta, vì như thế lại ỷ vào người và tự bỏ tay trong khi tình thế biến chuyển thuận tiện. Nếu cách mạng Nhật bùng nổ và chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật thành lập hay nếu giặc Nhật mất nước như Pháp năm 1940 và quân đội viễn chinh của Nhật mất tinh thần thì khi ấy quân đồng minh chưa đổ bộ vào Đông Dương thì cuộc tổng khởi nghĩa của ta có thể bùng nổ thắng lợi”(7). Dự kiến này gần đúng với sự thật diễn ra trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thực hiện chỉ thị trên, Đảng phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thời kỳ tiền khởi nghĩa) lãnh đạo toàn dân gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Hội nghị thay đổi khẩu hiệu (đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp) trước đây bằng khẩu hiệu đánh đuổi phát xít Nhật và đề ra việc thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân. Bản Chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, kịp thời nhạy bén, bình tĩnh thận trọng và sáng tạo. Bản chỉ thị là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trong cao trào kháng Nhật cứu nước, quyết định trực tiếp đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị về việc tổ chức Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp và trong phạm vi cả nước thì lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tức chính quyền cách mạng lâm thời của nước Việt Nam mới. Để chuẩn bị tích cực và khẩn trương hơn nữa cho việc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước. Ban thường vụ Trung ương triệu tập hội nghị quân sự Bắc Kỳ ở Hiệp Hoà, Bắc Giang (16-4-1945). Hội nghị quyết định quyết đinh thống nhất các lực lượng vũ trang thành Việt Nam Giải phóng quân; phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; xây dựng căn cứ kháng Nhật để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ. Trong thời gian, này trong nội bộ Đảng ta phê phán nghiêm khắc quan điểm sai lầm của một vài đồng chí ở Trung Bộ chủ trương cải tổ chính phủ Trần Trọng Kim hy vọng giành độc lập bằng con đường hoà bình với Nhật. Đồng thời, Trung ương phê phán tư tưởng tả khuynh của các đồng chí trong báo Giải Phóng (Nam Bộ) vẫn còn giữ khẩu hiệu đánh đổ phát xít Pháp Nhật sau khi Nhật hoàn thành cuộc đảo chính. Trong cao trào tiền khởi nghĩa, tất cả các hoạt động của Đảng về chính trị, quân sự, tư tưởng đều chĩa mũi nhọn vào phát xít Nhật và chính phủ bù nhìn thân Nhật, nhằm mục tiêu trước mắt là tổng khởi nghĩa giành chính quyền . Vừa được tin quân Nhật hoàn toàn tan rã và xin đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh, ngày 13-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng khai mạc ở Tân Trào (Tuyên Quang). Hội nghị nhận định thời cơ cho ta giành độc lập đã tới, Đảng phải kịp thời phát động, lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và bọn bù nhìn tay sai của chúng trước khi quân Đồng minh Anh, Mỹ vào Việt Nam. Ngay đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư phụ trách. Uỷ ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam đã gửi thư tới đồng bào cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đến đây, trong một thời gian dài chuẩn bị lực lượng từ năm 1930. Đảng sẵn sàng lãnh đạo quần chúng nhân dân chớp thời cơ nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đây là nhân tố vô cùng quan trọng để cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi. Tóm lại, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là sự kết hợp chặt chẽ điều kiện khách quan và chủ quan: Kết hợp chặt chẽ đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng với trí sáng tạo, tinh thần dũng cảm và sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta. Kết hợp những cố gắng của bản thân nhân dân Việt Nam với chiến công của quân đội Liên Xô, quân đội Đồng minh và thắng lợi của các lực lượng dân chủ nói chung trên toàn thế giới chống chủ nghĩa đế quốc. Trong đó, nguyên nhân chủ quan đóng vai trò quyết định. Vì thời cơ cách mạng xuất hiện như một tất yếu, lịch sử đưa quần chúng đến ngưỡng cửa của khởi nghĩa giành chính quyền rồi trôi đi một cách nhanh chóng. Nếu Đảng tiên phong không chuẩn bị đầy đủ, không kịp thời chớp lấy thời cơ thì dù điều kiện khách quan có thuận lợi đến đâu cách mạng cũng không nổ ra được. Thời gian không ngừng trôi, thắng lợi Cách mạng Tháng Tám mãi mãi là mốc son chói lọi của lịch sử cách mạng, lịch sử dân tộc Việt Nam. Những bài học đúc rút từ thắng lợi của Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát huy trong điều kiện mới. _______________ (1) Các tầng lớp trung gian trong Cách mạng Tháng Tám gồm có tiểu tư sản, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước trong giai cấp địa chủ… (2) Ban nghiên cứu lịch sử Đảng,Cách mạng tháng tám 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1971, tr. 80 (3) Thanh Đạm:Vấn đề tầng lớp trung gian trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 163, năm 1975 (4) ĐCSVN:Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 2, tr .2 (5), (7) Sđd, t.7, tr. 113, 373 (6) Hồ Chí MinhToàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 4, tr. 4. ThS Trần Thị Kim Dung (Viện Xây dựng Đảng - Học viện CTQG Hồ Chí Minh)
Những phong trào thời kỳ cách mạng dân chủ Đông Dương 1936 – 1939Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 – 1933 làm cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản ngày càng sâu sắc. Bọn tư bản lũng đoạn ở một số nước đế quốc thiết lập chế độ độc tài phát xít, nhằm thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng trong nước, trút gánh nặng khủng hoảng kinh tế lên vai nhân dân lao động, gây ra chiến tranh thế giới để chia lại thị trường và xâm lược Liên Xô, thành trì của cách mạng thế giới. Trước tình hình đó, Đại hội VII của Quốc tế cộng sản đã được triệu tập. Đại hội đã thông qua nghị quyết tháng 7/1935 công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập của Quốc tế cộng sản. Căn cứ vào tình hình đó, đồng chí Lê Hồng Phong triệu tập và chủ trì hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị xác định mục tiêu trước mắt là “đấu tranh chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình”. Đảng chủ trương triệt để lợi dụng những khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng. Kết hợp những hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp với hoạt động bất hợp pháp để phát triển tổ chức của Đảng và của Mặt trận dân chủ, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng. Bọn đế quốc âm mưu dập tắt phong trào cách mạng của nước ta, trong đó có phong trào của thị xã Vĩnh Yên. Chúng đã thẳng tay đàn áp, làm cho phong trào lắng xuống một thời gian, sau đó hòa chung với cả nước, Vĩnh Yên lại bùng lên phong trào đòi tự do, cơm áo, hòa bình. Năm 1939, Mặt trận nhân dân Pháp giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử ở Pháp. Trong chương trình hành động của Mặt trận nhân dân Pháp, vấn đề ưu tiên nêu lên là “Đại xá tù chính trị ở các xứ thuộc địa”. Với điều kiện thuận lợi đó và do sự đấu tranh kiên quyết của tù chính trị ở các nhà lao đế quốc, nên phần lớn tù chính trị đã được trả lại tự do. Tháng 6/1936, đồng chí Vũ Duy Cương được trả tự do đã bắt liên lạc ngay với Đảng và được cử về thị xã cùng một số đồng chí khác tiếp tục tổ chức hoạt động, xây dựng các cơ sở mới, chắp nối cơ sở cũ. Từ những cơ sở cách mạng năm 1929-1930, nay được khôi phục và bước vào hoạt động với các hình thức phong phú, đa dạng, thu hút, giác ngộ được nhiều quần chúng cách mạng, đưa phong trào ở thị xã Vĩnh Yên bước sang giai đoạn mới với hình thức đấu tranh mới. Các báo công khai như Letravai (Lao động), Tin tức, Nhành lúa, Bạn dân, Đời nay… và sách “Vấn đề dân cày” đang lưu hành tại địa phương được đem ra đọc và giảng giải ở các tổ chức sách báo. Những buổi đọc sách báo không chỉ có hội viên trong tổ chức, mà có cả quần chúng bên ngoài cùng nghe đã góp phần không nhỏ vào việc bồi dưỡng nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng cho hội viên và hướng dẫn đấu tranh theo các mục tiêu của Đảng đề ra. Trong những năm 1936-1939, trên cơ sở các tổ chức cách mạng trước đây, nay đã phát triển thành nhiều hình thức tổ chức công khai hợp pháp như Hội Ái hữu, hội Tương tế, hội Học võ… lần lượt ra đời ở các làng xóm, ngõ phố trong thị xã. Hình thức đấu tranh của các tổ chức này lúc đầu còn là chơi thể thao, giúp nhau học chữ quốc ngữ, học võ, quyên góp tiền để giúp đỡ nhau. Cán bộ của Đảng còn lãnh đạo các hội viên quần chúng đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đấu tranh chống thu thuế bất công, khất thuế, đòi niêm yết trước mức thuế, đòi giảm thuế, chống các khoản phụ thu lạm bổ đã diễn ra liên tiếp bằng nhiều hình thức như: Biểu tình, làm đơn có nhiều chữ ký. Tiêu biểu là cuộc biểu tình của nhân dân nghèo, tiểu thương, tiểu chủ ở thị xã, đã tập hợp hàng trăm chữ ký rồi kéo lên tòa Chánh sứ đòi được giảm thuế. Các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ trên đây của nhân dân thị xã Vĩnh Yên mặc dù bị bọn thống trị đàn áp, nhưng phần lớn đã giành được thắng lợi. Nạn quan tham nhũng giảm, các loại thuế vô lý phải bãi bỏ, thuế ruộng, thuế môn bài được miễn giảm. Sự ra đời của hàng loạt các tổ chức công khai, hợp pháp thời kỳ này là thắng lợi lớn của Đảng trong đường lối đấu tranh và vận động quần chúng, vì đã tập hợp được lực lượng cách mạng đông đảo, hoạt động giành thắng lợi cho cao trào 1936-1939. Bên cạnh các cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, các cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh đòi tự do dân chủ cũng diễn ra liên tục sôi nổi trên địa bàn thị xã. Đường lối của Đảng bước đầu được tuyên truyền nhiều đến nhân dân. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng ngày càng lan rộng, nhân dân tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của chính bản thân mình. Thực hiện chủ trương của Trung ương và được sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc kỳ, để biến cuộc đón Gôđa thành cuộc biểu tình đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, những người lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã Vĩnh Yên đã vận động thu thập chữ ký của nhân dân vào bản “Nguyện vọng dân chúng”. Hàng trăm người ở nội thị, ở các làng, xã và thị trấn Tam Đảo đã ký vào các bản dân nguyện, trong đó có cả trưởng phố. Bản dân nguyện cùng có nội dung tố cáo tội ác và sự bóc lột của thực dân Pháp, đồng thời đòi quyền tự do dân chủ, đòi thả chính trị phạm, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế bất công, tăng tiền công cho những người làm thuê, chống đánh đập… Ngày 31 tháng Giêng năm 1937, trong đoàn hàng trăm đại biểu của nông dân Vĩnh Yên và nông dân Phúc Yên kéo về Hà Nội biểu tình đón Gôđa, có hơn 10 đại biểu của Vĩnh Yên cùng đi để đòi tự do dân chủ. Khi dự biểu tình đón Gôđa, đại biểu của đoàn Vĩnh Yên đã đến toàn soạn báo công khai của Đảng để trao bản nguyện vọng của nhân dân và cung cấp những tài liệu, số liệu cụ thể chi tiết về đời sống dân cày, về thủ đoạn áp bức bóc lột nhân dân của bọn thực dân và phong kiến địa chủ, đồng thời báo cáo với Xứ ủy về tình hình phong trào địa phương. Đây cũng chính là cuộc biểu dương lực lượng đầu tiên của nhân dân thị xã Vĩnh Yên trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Năm 1938, nguy cơ chiến tranh thế giới đang đến gần. Chính phủ Pháp do Đalaliê lên cầm quyền ngả dần về phái hữu, đưa ra nhiều chính sách phản động như: Tăng thuế, phát hành công trái, đóng cửa báo dân chúng và nhiều tờ báo tiến bộ, khủng bố những người tham gia đấu tranh. Trước tình hình đó, Đảng ta đề ra chủ trương củng cố các tổ chức của Đảng, kết hợp chặt chẽ công tác công khai và bí mật. Nhờ chủ trương đúng đắn đó, phong trào đấu tranh diễn ra mạnh mẽ trên khắp mọi miền đất nước, trong đó có phong trào đấu tranh của nhân dân thị xã Vĩnh Yên. Năm 1938 cũng là năm mà lần đầu tiên ở Đông Dương lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và các thành phố lớn trong cả nước. Thực hiện chủ trương của Đảng tổ chức cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội nhân ngày Quốc tế lao động 1/5, các đồng chí lãnh đạo phong trào ở tỉnh Vĩnh Yên đã tổ chức một đoàn đại biểu, trong đó đại biểu của các huyện về tập trung tại thị xã Vĩnh Yên, sau đó các đại biểu về Hà Nội dự lễ kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5. Trong 2 cuộc biểu tình lớn đón Gôđa năm 1937 và mít tinh kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1/5/1938 tại Hà Nội đã làm cho cán bộ và quần chúng của thị xã Vĩnh Yên có điều kiện tận mắt thấy rõ sức mạnh của cách mạng cả nước, đồng thời có điều kiện để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, thắt chặt tình đoàn kết giữa các địa phương trong cuộc đấu tranh chung. Phong trào đấu tranh chống thuế phối hợp với những cuộc đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế được phát động khắp mọi nơi. Lúc này, thực dân Pháp đã nâng mức thuế và tăng thêm các loại thuế để vơ vét của cải đổ vào cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Do đó những cuộc đấu tranh về kinh tế ở Vĩnh Yên đều nhằm vào mục đích đòi giảm thuế. Ngày 23/11/1938 có hơn 40 tiểu thương buôn bán gạo ở thị xã Vĩnh Yên được các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng thị xã tổ chức thành đoàn biểu tình kéo lên tòa sứ đòi giảm thuế môn bài cho tiểu thương buôn bán. Giữa năm 1938 lại tiếp tục nổ ra cuộc bãi thị với mục đích đòi giảm thuế chợ. Quần chúng đã tập trung viết đơn cử một đoàn đại biểu đưa lên tòa sứ. Bên cạnh đó là việc vận động các hàng quán đóng cửa không buôn bán. Trước phong trào đấu tranh của quần chúng, bọn cầm quyền địa phương buộc phải nhượng bộ. Bọn thống trị ở thị xã Vĩnh Yên tiến hành thành lập Hội đồng dân biểu. Để chào mừng sự ra mắt của Hội đồng dân biểu, chúng đã tổ chức các trò chơi thể thao ở thị xã. Biết được âm mưu, các đồng chí lãnh đạo phong trào cách mạng ở thị xã đã nhanh chóng lợi dụng thời cơ thuận lợi này tổ chức các hoạt động hợp pháp để tuyên truyền cách mạng. Trong cuộc đua xe đạp nữ vòng quanh sân vận động thị xã, ta đã cử những quần chúng cách mạng là chị em phụ nữ lao động chuyên làm hàng xay, hàng sáo khỏe mạnh, nhiệt tình tham gia đua xe với con gái bọn nhà giàu. Sau lưng áo mỗi vận động viên của ta đã dán sẵn hàng chữ “lao động tiến lên”. Cùng thời gian này, tại Cát Xăng đường lên thị trấn Tam Đảo, bọn thống trị địa phương tổ chức cuộc chạy thi lên thị trấn Tam Đảo. Những người lao dộng nghèo, họ là những người chiến thắng. Những hoạt động trên là một hình thức tập hợp quần chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên để tuyên truyền cách mạng một cách công khai, hợp pháp, đồng thời làm thất bại mục đích “chào mừng Hội đồng dân biểu” của kẻ thù, biến những hoạt động mê hoặc, lừa phỉnh của chúng thành những cuộc vận động cách mạng của ta. Thành công của phong trào đã đạt được ngay trước mắt bọn thống trị địa phương, làm cho chúng vô cùng tức tối nhưng bất lực. Năm 1939, phong trào cách mạng chuyển sang giai đoạn mới trong cả nước. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ kết thúc. Phong trào cách mạng của nhân dân thị xã đã phát triển và đạt được kết quả to lớn. Những cuộc biểu tình, mít tinh, bãi chợ, những hoạt động thể thao đã lôi cuốn đông đảo quần chúng xuống đường tham gia cách mạng. Họ đã được giác ngộ, rèn luyện, tập dượt. Đó là sự chuẩn bị về lực lượng chính trị cho phong trào cách mạng ở thị xã. Mặc dù thời kỳ này, Vĩnh Yên chưa có chi bộ Đảng nhưng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, phong trào cách mạng Vĩnh Yên đã thu được kết quả to lớn hòa chung vào các cao trào cách mạng của cả nước. Qua phong trào, Đảng đã đào tạo được một đội ngũ cán bộ cốt cán vững vàng đã qua thử thách đấu tranh cách mạng. Song, từ 1928-1939 phong trào ở thị xã Vĩnh Yên còn có những hạn chế như phát triển chưa đều, chưa thành lập được một tổ chức Đảng cơ sở, cán bộ ít, vì vậy khi phong trào bị đàn áp thì thiếu cán bộ để tiếp tục duy trì và giữ phong trào. Nguồn: Lịch sử Đảng bộ thành phố Ý nghĩa thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24 tháng 8 năm 2021 Đại tá, PGS, TS Hà Trọng Thà Phó Trưởng Phòng Chính trị, T04 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt về chất của cách mạng Việt Nam. Đó là một trong những trang vàng chói lọi trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thời gian đã lùi xa, đến nay đã là 76 năm (19/8/1945-19/8/2021), nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Nhân dịp kỷ niệm 76 năm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945-19/8/2021) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2021), Trang Thông tin điện tử trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá, PGS. TS Hà Trọng Thà, P. Trưởng phòng Chính trị cùng bạn đọc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là trang sử vàng chói lọi trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chống quân xâm lược. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc Việt Nam và nhân loại. 1. Ý nghĩa thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã làm nên một sự kiện “long trời, lở đất”, chính thức chấm dứt ách đô hộ hơn 80 năm của thực dân Pháp, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế ngót nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Cách mạng Tháng Tám đã mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đánh giá về ý nghĩa lớn lao này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta” [5]. Tiếp tục nhấn mạnh ý nghĩa to lớn đó, trong Bài phát biểu tại khóa họp Xô viết Tối cao Liên Xô nhân kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười, ngày 6/11/1957, Người tự hào khẳng định: “Năm 1945, nhân dân Việt Nam đã làm Cách mạng Tháng Tám, đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước và xây dựng chính quyền nhân dân. Đó là một bước ngoặt trong lịch sử của dân tộc chúng tôi” [6]. Thắng lợi của Cách mạng Tháng tám mở kỷ nguyên độc lập với sự kiện lần đầu tiên tên nước Việt Nam có tên bản đồ thế giới. Cũng từ đó, dân tộc ta đã mở ra mối quan hệ ngoại giao với các nước trên thế giới với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền. Hai là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, một mặt, đã góp phần đánh bại tàn dư của chế độ phong kiến và chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phát xít ở Việt Nam. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy sụp và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới. Về vấn đề này, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc nhân dịp Kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, ngày 19/8/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Cách mạng Tháng Tám đã giải phóng đồng bào ta ra khỏi chế độ quân chủ chuyên chế và xiềng xích thực dân” [4]. Mặt khác, đối với công cuộc xây dựng một chế độ xã hội mới, kết quả mà Cách mạng Tháng Tám mang lại thể hiện sự khác hẳn về chất so với chế độ cũ (phong kiến, thực dân và đế quốc), như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Cách mạng Tháng Tám đã xây dựng cho nhân dân ta cái nền tảng Dân chủ Cộng hòa và thống nhất độc lập” [4]. Ba là, Cách mạng Tháng Tám khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay từ khi ra đời, ngày 03/02/1930, Đảng ta đã đề ra đường lối đúng đắn với mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp cách mạng là giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần tích cực vào phong trào cách mạng thế giới. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tin tưởng tuyệt đối. Chỉ trong vòng 15 năm (1930 - 1945), Đảng ta đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành ba cao trào cách mạng: cao trào cách mạng 1930 - 1931, với đỉnh cao là phong trào Xôviết - Nghệ Tĩnh; cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945). Tháng 8/1945, với nghệ thuật lãnh đạo tài tình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ thuận lợi nhất, lãnh đạo toàn thể dân tộc Việt Nam tiến hành tổng khởi nghĩa, đánh đổ đế quốc phong kiến, thành lập nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ điển hình do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã đưa Đảng ta từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Trong bài viết Cách mạng tháng Mười Nga mở đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thực tiễn ở Việt Nam đã chứng tỏ rằng nhờ có sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin mà cách mạng đã thu được thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội” [7]. Bốn là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về chất trong tiến trình phát triển của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc, kỷ nguyên độc lập tự do hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã tạo bước ngoặt cách mạng sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; là một chế độ xã hội mới mẻ hoàn toàn đối với dân tộc Việt Nam, hiện hữu đầy đủ bản chất dân chủ, nhân văn vì con người, vì hạnh phúc của nhân dân lao động. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để “có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [2]. Năm là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác - Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Thắng của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính cách mạng, khoa học của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; là sự tiếp nối và là thắng lợi tất yếu sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại năm 1917. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định: “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh sự đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, đã chứng minh sự đúng đắn của con đường của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại đã vạch ra” [6]. Bên cạnh đó, Cách mạng Tháng Tám còn là minh chứng hùng hồn về sự thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh khi vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh rằng, cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa phong kiến lạc hậu để đưa cả dân tộc đó đi lên theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng đó quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở “chính quốc”, nhưng không lệ thuộc vào cách mạng ở “chính quốc”. Trái lại, nó có thể giành được thắng lợi trước khi giai cấp công nhân “chính quốc” lên nắm chính quyền. Sáu là, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cổ vũ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước bị chủ nghĩa đế quốc thực dân áp bức, thống trị. Cách mạng Tháng Tám là tấm gương, là nguồn cổ vũ cho các quốc gia - dân tộc đang mất độc lập, tự do ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh, nhất là các nước láng giềng noi theo. Khẳng định vị thế, giá trị thời đại của thắng lợi này, Chủ tich Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới. Cách mạng Tháng Tám có ảnh hưởng trực tiếp và rất to đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào. Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân hai nước Miên, Lào cùng nổi lên chống đế quốc và đòi độc lập” [5]. Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám mang tầm vóc thời đại, góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của nhân loại. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cùng với Liên Xô, các lực lượng tiến bộ trên thế giới và quân đồng minh đánh đổ chủ nghĩa thực phát xít, giữ vững hòa bình cho khu vực và trên thế giới. Do đó, chiến thắng của Cách mạng Tháng Tám cũng là chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, chiến thắng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn lại đánh giá của Báo Nhân dân Inđônêxia: “Chúng ta chỉ có thể bày tỏ sự kính trọng và lòng khâm phục cao nhất đối với nhân dân Việt Nam anh hùng... Với sự chiến đấu anh dũng của họ, nhân dân Việt Nam đã tự đặt mình lên vị trí vẻ vang nhất trên thế giới...” [8]. Khái quát đầy đủ ý nghĩa thắng lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc” [5]. Mít tinh Tổng Khởi nghĩa ở Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội, ngày 19/8/1945. Ảnh: Tư liệu - TTXVN 2. Bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đã để lại cho Đảng và nhân dân Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, làm phong phú thêm hệ thống lý luận của cách mạng Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một là, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Con đường cứu nước của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước để chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phát xít và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Hai là, thực hiện khởi nghĩa toàn dân trên nền tảng khối liên minh công - nông. Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì bị áp bức mà sinh ra cách mệnh, cho nên ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết” [3], vì thế “công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [3]. Thực tiễn đã chứng minh chân lý đó. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là kết quả cuộc đấu tranh của hơn 20 triệu người Việt Nam yêu nước là lực lượng cách mạng, trong đó động lực cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Liên minh công - nông được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng, đến đỉnh cao là Tổng khởi nghĩa thì liên minh công - nông đã lớn mạnh vượt bậc. Dựa trên nền tảng của khối liên minh này, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi. Mặt khác, trên cơ sở nhắm đúng mục tiêu chiến lược hàng đầu của cách mạng và khối đại đoàn kết toàn dân, Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phát xít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ ngụy quyền tay sai của Pháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Ba là, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp. Nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin: “bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới, bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và đập tan những hình thức chính trị cứng đờ và chết” [1], Đảng ta đã kiên trì xây dựng lực lượng cách mạng, biết cách sử dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, hình thức đấu tranh phù hợp với từng hoàn cảnh, từng giai đoạn lịch sử, tập dượt đấu tranh từ thấp đến cao. Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó, vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa. Khi thời cơ đến, Đảng đã biết sử dụng tối đa sức mạnh cách mạng theo nguyên tắc “tập trung, thống nhất, kịp thời” đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân. Bốn là, nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, chọn đúng thời cơ. Hồ Chí Minh và Đảng ta đã vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta để lãnh đạo, chỉ đạo Cách mạng Tháng Tám. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Nghệ thuật chỉ đạo tài tình của Hồ Chí Minh và Đảng ta trong việc chọn đúng thời cơ, ra quyết định Tổng khởi nghĩa đúng lúc thể hiện cụ thể trong Chỉ thị của Thường vụ Trung ương Đảng tháng 03/1945 “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” và bản Quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc phát đi vào đêm 13/8/1945. Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hơn hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Cũng nhờ chọn đúng thời cơ mà sức mạnh của nhân dân ta trong Cách mạng Tháng Tám được nhân lên gấp bội, đã tiến hành tổng khởi nghĩa thành công trong phạm vi cả nước trong thời gian ngắn. Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám. Cách mạng Tháng Tám được một đảng tiên phong thật sự cách mạng lãnh đạo. Đảng ta là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, ngay từ đầu Đảng đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gắn bó với nhân dân. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, gắn bó máu thịt với nhân dân. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh. Đảng biết nắm bắt thời cơ, xây dựng lực lượng và tổ chức, sử dụng lực lượng đúng lúc; phát huy được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng tiến lên giành và giữ chính quyền. Với những yếu tố như trên, nên tuy chỉ mới được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh và mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử và mang tầm vóc thời đại. Thực tiễn lãnh đạo của Đảng đã khẳng định rằng, một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ thì đảng có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên. Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn trong quá trình phát triển. Bên cạnh những thuận lợi, thì đất nước ta cũng đang gặp phải những khó khăn, trong đó có sự xuất hiện của dịch bệnh COVID - 19, đặc biệt là đợt bùng phát dịch bệnh lần thứ tư vẫn còn đang diễn biến hết sức phức tạp. Sự tác động của dịch bệnh đã làm đất nước ta phải chịu thiệt hại lớn. “Từ thành thị tới nông thôn, những con đường vắng người qua lại, những khu chợ sầm uất, sân bay, bến cảng, sân trường, nhà máy, xí nghiệp... náo nhiệt giờ lặng lẽ; trong khi đó bệnh viện, khu điều trị ở một số nơi có dịch lại trở nên đông đúc hơn bao giờ hết. Những chung cư, sân vận động, nhà thi đấu, ký túc xá, doanh trại quân đội bất đắc dĩ trở thành bệnh viện dã chiến, thành khu cách ly. Bao nhiêu cuộc hội ngộ, đoàn tụ vui buồn trở thành dang dở... Sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng tiêu cực, thu nhập, tích lũy của người dân giảm sút... Đám mây đen COVID - 19 đã phủ nghịch cảnh lên cuộc sống của chúng ta” [10]. Bên cạnh đó, thế giới đang bị khủng hoảng lớn về kinh tế và nhiều mặt khác, tình hình an ninh khu vực và thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo… Trước tình hình ấy, những bài học kinh nghiệm của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị và có ý nghĩa tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước Việt Nam giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc đối phó với dịch bệnh. Với phương châm “chống dịch như chống giặc”, chúng ta tin tưởng việc phát huy những bài học kinh nghiệm đã có được từ Cách mạng Tháng Tám sẽ góp phần giúp Việt Nam “đẩy lùi cho được đại dịch COVID - 19, “sớm đưa nước ta trở về “trạng thái bình thường mới”” [9] mà nhân dân cả nước đang mong đợi như đã từng mong đợi thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./. Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắtsau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Ảnh: TTXVN Tài liệu tham khảo: 1. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.20. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t.1, tr.25. 3. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.2. 4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5 5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.7 6. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.11 7. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.13. 8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.14. 9. Phát biểu của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026. 10. Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại lễ công bố và trao quyết định của Chủ tịch nước bổ nhiệm các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ khóa XV, nhiệm kỳ 2021-2026. Tin khácVận dụng Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị trong công tác giáo dục đào tạo tại Trường Đại học An ninh nhân dân(18/10/2020)Một số vấn đề đặt ra cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học của lực lượng Công an nhân dân theo tinh thần của Nghị quyết 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về các chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 Thư viện ảnh
Những hình ảnh Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003)Trường Đại học ANND (1989-1995), Phân hiệu Đại học ANND (1995-2001), Phân hiệu Học viện ANND (2001-2003) Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1984-1989Giai đoạn 1984-1989: Trường Cao đẳng An ninh nhân dân II Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1976-1984Giai đoạn 1976-1984: Trường Bổ túc sỹ quan Công an nhân dân Lịch sử truyền thống Trường Đại học An ninh nhân dân giai đoạn 1963-1976Giai đoạn 1963-1976: Trường An ninh Trung ương cục miền Nam Sự ra đời của lực lượng CAND - Tất yếu của lịch sử"Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ". Thấm nhuần tư tưởng của Lênin trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang gồm Quân đội, Công an để bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân Thư viện Video
videocam Trường Đại học An ninh nhân dân - Nơi ươm mầm sĩ quan an ninh tương laivideocam Phim Tư liệu: 75 năm - Một bản hùng caPhim Tư liệu “75 năm - một bản hùng ca” góp phần ôn lại cũng như phát huy truyền thống anh hùng 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng An ninh nhân dân. videocam Học viên Trường Đại học An ninh nhân dân đảm bảo trực tết và phòng chống dịch Covid-19Học viên các Trường CAND tham gia lực lượng ứng trực đảm bảo trực tết và phòng chống Covid-19 videocam Hành trình gian nan đưa thi thể Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉHy sinh trong lúc ứng cứu người dân bị nước lũ cuốn trôi từ đêm ngày 17/10, tại xã Hướng Việt, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, đến tối ngày 20/10 các đồng đội mới có thể đưa đồng chí Đại úy Trương Văn Thắng về nơi an nghỉ. videocam Xây dựng Đảng bộ Công an Trung ương trong sạch, vững mạnhNâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, xây dựng đảng bộ thực sự trong sạch vững mạnh, là đảng bộ kiểu mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực lãnh đạo các mặt công tác công an. TÓM TẮT TIỂU SỬ VÀ QUÁ TRÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ CÁCH MẠNG DƯƠNG BẠCH MAIThứ Sáu, 01/03/2019 - 13:00 Đọc bài viết In bài E-mail - + - + Đồng chí Dương Bạch Mai sinh năm Ất Tỵ (1905), quê ở xã Long Mỹ - Huyện Đất Đỏ. Ông nội là một địa chủ lớn, bố làm thư ký tòa Thống đốc Nam Kỳ. Nhưng ông sớm nhận thức được nỗi thống khổ của người dân mất nước, sự cai trị tàn bạo của thực dân Pháp và bọn tay sai bóc lột. Dương Bạch Mai thuở nhỏ học ở quê nhà, sau đó lên Sài Gòn, theo học trường cao đẳng thương mại Đông Dương, năm 1924 tốt nghiệp trường này, làm việc ở xí nghiệp in; được một năm, đồng chí sang du học tại Pháp. Thời gian ở Pháp, đồng chí đã tham gia vào những phong trào yêu nước của sinh viên, vào tổ chức Đảng Việt Nam độc lập do một số nhà yêu nước Việt Nam sáng lập tại Pháp. Sau đó, đồng chí gia nhập Đảng Cộng Sản Pháp. Năm 1928, trong một cuộc xô xát tại khu đại học La Tinh (Pari) giữa một nhóm sinh viên tiến bộ và sinh viên cực hữu, đồng chí bị bắt giam một thời gian ngắn. Năm 1929, đồng chí được Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu sang Mátcơva liên lạc với Đảng Cộng sản Liên Xô, rồi vào học trường Đại học Đông Phương Staline. Năm 1933, đồng chí trở về nước và hoạt động tại Sài Gòn, tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác LêNin, tham gia các tổ chức yêu nước. Năm 1936, đồng chí ứng cử vào Hội đồng Thành phố Sài Gòn nhân danh mặt trận vô sản thống nhất và đã đắc cử vẻ vang. Từ khi đắc cử, có tiếng nói công khai trong Hội đồng quản hạt, nhóm của đồng chí đã gây một tiếng vang lớn trong sinh hoạt chính trị và báo chí ở Sài Gòn. Do đó, thực dân Pháp rất căm ghét và tìm cách trả thù những người trong nhóm. Cùng thời gian này, đồng chí cùng các đồng viện tổ chức phong trào 'Đông Dương đại hội' liên hiệp các lực lượng yêu nước kể cả những người Cộng sản trên mặt trận chống Pháp, nhằm vận động dân sinh, dân chủ. Đông Dương đại hội đã làm cho phong trào đấu tranh của quần chúng những năm 1936-1939 phát triển rất mạnh mẽ. Nhiều cuộc mít tinh được dâng nguyện cho nhà cầm quyền, yêu cầu mở rộng dân chủ, cải thiện đời sống nổ ra khắp nơi. Phong trào từ thành thị lan về nông thôn. Ở Nam Bộ đã thành lập được 600 Uỷ ban hành động. Trước tình hình ấy, bọn phản động thuộc địa và tay sai của chúng rất hoảng sợ, tìm mọi cách phá cuộc vận động. Chúng cấm phát hành một số tờ báo tiến bộ thời bấy giờ. Các cuộc hội họp quần chúng đều được bọn tay sai của địch, bọn mật thám bố trí theo dõi chặt chẽ. Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 mà mở đầu là cuộc vận động Đông Dương Đại hội được Đảng ta đánh giá là cuộc diễn tập thứ hai chuẩn bị cho cách mạng tháng 8/1945. Lo sợ trước phong trào lớn mạnh của quần chúng nhân dân lao động, thực dân Pháp đã giải tán Ủy ban hành động và đàn áp phong trào Đông Dương đại hội. đồng chí Dương Bạch Mai bị bắt giam. Chúng đưa ra tòa xử án rồi cưỡng bức lưu trú ở Cần Thơ. Đồng chí đã tuyệt thực, phản đối gây xôn xao dư luận tiến bộ thời bấy giờ. Cuối cùng, chúng đành trả tự do cho đồng chí. Năm 1939, nhân chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp vịn vào tình trạng chiến tranh, bắt đồng chí đày đi Côn Đảo một lần nữa. Mặc dầu chế độ nhà tù Côn Đảo rất khắc nghiệt, chúng đánh đập tra tấn dã man, luôn luôn bị theo dõi nhưng đồng chí luôn luôn giữ vững khí tiết của mình. Khác với mọi người chủ trương không hoạt động nằm im chờ thời. Dương Bạch Mai cùng một số đồng chí trong nhà tù vẫn tiếp tục đấu tranh tham gia giảng dạy văn hóa, chủ nghĩa Mác Lê nin cho những người tù. Đến năm 1943, đồng chí Dương Bạch Mai mới được thả tự do nhưng vẫn bị quản thúc tại Tân Uyên – Bình Dương. Được tự do, đồng chí về Sài Gòn tìm cách bắt liên lạc, tham gia xứ ủy Nam Kỳ. Thời gian này, đồng chí là cán bộ đại diện của Xứ ủy nhiều lần xuống các vùng Long Thành (Đồng Nai), Bà Rịa – Vũng Tàu để tuyên truyền chính sách Việt Minh, khuyến khích các hoạt động yêu nước của quần chúng; uy tín của đồng chí đã ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào chuẩn bị đấu tranh giành chính quyền ở một số địa phương. Trong thời kỳ chuẩn bị giành chính quyền, đồng chí nhiều lần về Bà Rịa, Long Điền bắt liên lạc và cùng các Đảng viên cũ tập hợp lại thành lập chi bộ Bà Rịa, chỉ đạo lực lượng Thanh niên tiền phong, tổ chức giành chính quyền ở Bà Rịa. Tại Vũng Tàu, đồng chí đã gợi ý thành lập Thanh niên cứu quốc. Đến năm 1945, theo sự chỉ đạo của đồng chí, Quốc gia tự vệ cuộc (ngành công an bây giờ) Vũng Tàu đã nhận nhiệm vụ tiêu diệt một số tên tay sai của giặc. Từ ngày 17 đến 29/8/1945, Xứ ủy Nam Kỳ mở hội nghị tại Chợ Đệm để bàn các vấn đề quan trọng như đưa mặt trận Việt Minh ra công khai, tổ chức cướp chính quyền ở Tân An làm điểm, khẩn trương chuẩn bị lực lượng cướp chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh. Xứ ủy phân công đồng chí về Bà Rịa – Vũng Tàu truyền đạt nghị quyết của Xứ. Được sự ủy nhiệm của Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo cuộc khởi nghĩa tại Bà Rịa và Vũng Tàu. Theo hiệu triệu của Ủy ban khởi nghĩa, sáng 28/8/1945 hơn 4000 đồng bào Vũng Tàu đã tập trung tại sân vận động Lam Sơn. đồng chí Dương Bạch Mai đại diện xứ ủy Nam Kỳ phụ trách Quốc gia tự vệ cuộc trong Ủy Ban hành chính lâm thời Nam Bộ, kiêm thanh tra chính trị Miền Đông đã long trọng tuyên bố: 'Từ giờ phút này chính quyền thật sự về tay nhân dân'. Năm 1946 tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng Hòa, đồng chí Dương Bạch Mai được bầu là đại biểu Quốc Hội. Cùng trong năm này, đồng chí được cử làm thành viên của phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị tại Đà Lạt để đàm phán với Pháp về vấn đề Việt Nam và chủ quyền độc lập của Việt Nam. Tại hội nghị này, đồng chí nổi tiếng là một nhân vật có những ý kiến rất thẳng thừng tranh luận với các thành viên người Pháp. Sau Hội nghị Phông – ten – nơ – blô, đồng chí được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ định là quyền Trưởng đoàn đại diện Chính phủ tại Pháp. Sau đó, thực dân Pháp phản bội tạm ước ngày 14/9/1946, chúng bắt đồng chí đưa về giam lỏng tại nhà lao Kon Tum. Ngày 14/7/1949, đồng chí được một đơn vị tình báo giải thoát. Thực dân Pháp trao giải thưởng 5000 phờ-răng cho ai bắt hoặc chặt đầu người đã giải thoát đồng chí. Thoát khỏi ngục Kon Tum, đồng chí ra chiến khu Việt Bắc công tác ở Trung ương và giữ chức Phó ban mặt trận Tổ Quốc Việt Nam (nay là UBMTTQVN). Đồng chí đã qua đời vào ngày 4/4/1964 tại Hà Nội, hưởng dương 59 tuổi. Năm 1995, thi hài đồng chí được an táng tại quê nhà. Cuộc đời đồng chí Dương Bạch Mai là một cuộc đời luôn luôn đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cho đất nước. Đồng chí được coi là người Cộng sản đầu tiên của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu./. Đánh giá: |