Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định paris

Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định paris
Phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị các Bộ trưởng Ngoại giao ở Geneve tháng 7/1954. (Nguồn ảnh: Viện Lưu trữ Phim ảnh Nhà nước Nga).

(Thanhuytphcm.vn) - Cuối năm 1953, sau hơn 8 năm tiến hành chiến tranh xâm lược Đông Dương, những thất bại nặng nề của quân đội Pháp trên chiến trường đã tác động mạnh tới nội tình và phân hóa nội bộ chính quyền Pháp. Trước áp lực của phái chủ hòa đòi sớm có cuộc đàm phán về vấn đề Đông Dương, Thủ tướng Lanien - phái chủ chiến buộc phải chấp nhận một giải pháp ngoại giao bảo đảm danh dự cho nước Pháp rút khỏi cuộc chiến. Quan điểm và thái độ của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Mỹ với Đông Dương lúc này cũng khác nhau.

Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương mở cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao, phối hợp với cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954, đi tới chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, làm thất bại âm mưu của Pháp và Mỹ.

Ngày 8/5/1954, một ngày sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp phải ngồi vào bàn Hội nghị Genève cùng với sự tham dự của các nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mỹ, Anh và ba đoàn đại diện của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia.

Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng - Trưởng đoàn đại biểu Chính phủ ta trình bày lập trường tám điểm:

1- Pháp phải công nhận chủ quyền, độc lập của Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam và chủ quyền, độc lập của hai nước Lào, Campuchia.

2- Ký một hiệp định về việc rút quân đội ngoại quốc ra khỏi ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.

3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do ở ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.

4- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pathét Lào và Campuchia xem xét vấn đề gia nhập Liên hiệp Pháp.

5- Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Pathét Lào và Campuchia công nhận quyền lợi kinh tế và văn hóa của Pháp, quan hệ kinh tế giữa ba nước với Pháp sẽ được quy định trên nguyên tắc bình đẳng và tôn trọng quyền lợi lẫn nhau.

6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với bên kia trong chiến tranh.

7- Trao đổi tù binh.

8- Ngừng bắn toàn Đông Dương.

Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định paris
Bản Hiệp định Genève ngày 21/7/1954 và Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh 22/7/1954 (Nguồn ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III).

Trải qua 7 phiên họp toàn thể và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn rất căng thẳng và phức tạp, nhưng với tinh thần chủ động và cố gắng của Chính phủ ta, ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết. Âm mưu phá hoại Hội nghị Genève của đế quốc Mỹ và bọn hiếu chiến Pháp hòng kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lược Đông Dương đã thất bại.

Hội nghị đã công bố bản Tuyên bố về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương, thừa nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia, quy định quân đội nước ngoài phải rút khỏi Đông Dương và ở mỗi nước Đông Dương sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do để thực hiện thống nhất đất nước. Bản Tuyên bố chung ghi rõ ở Việt Nam đường ranh giới về quân sự chỉ có tính chất tạm thời, không thể coi như là một biên giới chính trị hoặc lãnh thổ. Bản Hiệp định đình chiến ở Việt Nam bao gồm 6 chương, 47 điều, với những nội dung chủ yếu: xác định giới tuyến quân sự tạm thời và khu phi quân sự để tách lực lượng hai bên; thực hiện ngừng bắn; quy định những biện pháp cho việc tập kết lực lượng của hai bên; ngăn cấm phá hoại tài sản công cộng, trả thù và phân biệt đối xử, đồng thời bảo đảm quyền tự do lựa chọn vùng cư trú; các bên không tham gia liên minh quân sự, không lập thêm căn cứ quân sự mới và cấm đưa thêm quân đội và nhân viên quân sự, vũ khí, đạn dược vào Việt Nam; trao trả tù binh, dân thường bị bắt và giam giữ trong chiến tranh. Ngoài ra còn có phụ bản kèm theo nói rõ thêm về giới tuyến quân sự tạm thời, khu phi quân sự và các khu đóng quân tạm thời.

Hiệp định Genève là thắng lợi lớn của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là thắng lợi của cách mạng Lào, Campuchia và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, thể hiện rõ nét nhất trên một số vấn đề cơ bản:

- Hiệp định Sơ bộ 1946, Hiệp định Genève 1954, Hiệp định Paris 1973 là những nấc thang cực kỳ quan trọng của cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta thực hiện trọn vẹn mục tiêu độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Đây là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, thắng lợi của tinh thần nhân văn, nhân đạo và chính nghĩa, thắng lợi của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.

- Việc ký kết hiệp định là thắng lợi to lớn của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, góp phần cùng với Chiến thắng Điện Biên Phủ và cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954, chấm dứt chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ ở Đông Dương

- Lần đầu tiên trong lịch sử, các nước lớn tham dự hội nghị đã cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Đây là cơ sở pháp lý quốc tế để nhân dân ba nước Đông Dương đấu tranh chống lại mọi hành động xâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc thời gian tiếp theo.

- Miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng, có hòa bình, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương, căn cứ địa vững chắc của tiền tuyến lớn miền Nam và cả cách mạng Lào, Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975).

- Thành quả của Hội nghị Genève có ý nghĩa quốc tế to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa, phụ thuộc. Dân tộc Việt Nam nhỏ bé đã kiên cường đấu tranh, giành được những thắng lợi vang dội cả trên chiến trường và trên bàn đàm phán, buộc các nước lớn công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp mà đỉnh cao là chiến thắng Ðiện Biên Phủ, Hiệp định Genève là nguồn cổ vũ mạnh mẽ đối với các dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh giành lại những quyền dân tộc cơ bản của mình, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ.

- Hiệp định Genève là kết quả của sự ủng hộ mà nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới, trong đó có nhân dân Pháp dành cho nhân dân ta. Mặt khác, thắng lợi của nhân dân ta đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì những mục tiêu lớn của thời đại. Với những ý nghĩa nói trên Hiệp định Genève đã làm nổi bật bài học về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại được vận dụng sáng tạo trong những giai đoạn sau.

- Tiếp sau việc đình chiến trên bán đảo Triều Tiên, Hiệp định Geneva là một đóng góp quan trọng vào xu thế hòa bình trên thế giới, đáp ứng chủ trương của các nước xã hội chủ nghĩa anh em muốn có hòa bình, thực hiện hòa hoãn để xây dựng.

Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định paris
Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Nguồn ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III).

Đồng thời, quá trình đàm phán, đi đến ký kết Hiệp định Genève đã để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học lịch sử rất quý báu:

- Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ trong quá trình đàm phán, kiên trì mục tiêu chiến lược, biết nhân nhượng có nguyên tắc để bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. Nguyên tắc trong Hiệp định Genève là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta phải được giữ vững; quân đội nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam; công việc của Việt Nam phải do chính nhân dân Việt Nam tự quyết định. Sách lược trong Hiệp định Genève là chúng ta đã chấp nhận vĩ tuyến 17 là giới tuyến tạm thời, đồng ý tập kết quân của hai bên, tiến hành tổng tuyển cử sau hai năm...

- Kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, phát huy nội lực, lấy đó làm cơ sở vững chắc cho hoạt động ngoại giao. Chính những thắng lợi giòn giã trên các chiến trường cả nước mà đỉnh cao là chiến thắng Ðiện Biên Phủ đã tạo nên thế mới cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Genève.

- Bài học đánh thắng từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Vốn là một nước không lớn lại nghèo, song luôn luôn phải đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược của các nước lớn, mạnh hơn nhiều về mặt vật chất, nhân dân ta cần có thời gian để tích lũy và phát triển lực lượng, chuyển hóa cục diện, giành thắng lợi từng bước, từ nhỏ tới lớn, tạo thời cơ giành thắng lợi quyết định. Trong hoàn cảnh giữa những năm 1950, khi lực lượng so sánh giữa ta và địch biến chuyển có lợi cho ta nhưng chưa phải biến chuyển căn bản có tính chiến lược thì chúng ta phải chấp nhận những thỏa thuận mang tính sách lược.

- Đánh giá chính xác tình hình thế giới, khu vực nhất là chiến lược của các nước lớn, từ đó tìm ra đối sách phù hợp từng thời gian, cho từng vấn đề liên quan nhằm hạn chế tác động tiêu cực từ thỏa hiệp giữa các nước lớn.

- Nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với hoạt động đối ngoại.

Quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam được ghi nhận như thế nào trong Hiệp định paris
Đại diện Bộ Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tạ Quang Bửu ký Hiệp định về việc đình chỉ chiến sự ở Đông Dương tại Cung quốc gia, tháng 7/1954 (Nguồn ảnh: Viện Lưu trữ Phim ảnh Nhà nước Nga).

Những bài học ấy đã được Đảng ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo vào đấu tranh ngoại giao giai đoạn tiếp theo, trực tiếp nhất là trong Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (1968 - 1973). Ngày nay, nhân dân ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, những bài học của Hiệp định Genève vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mới chúng cần được vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo để phục vụ tốt nhất cho lợi ích của dân tộc ta. Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển đảo của Tổ quốc hiện nay, chúng ta không chấp nhận, không khuất phục trước kiểu hành xử lấy sức mạnh để uy hiếp nước khác. Với chính nghĩa, chúng ta nhất định thắng, nhưng trong đấu tranh, sách lược phải hết sức mềm dẻo. Đó là bài học kinh nghiệm đấu tranh trên mặt trận ngoại giao từ Hội nghị Genève 1954.

Tiếp nối thành quả của Hội nghị Genève và các sự kiện lịch sử sau đó, từ năm 1986, chúng ta đã tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đạt nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Về đối ngoại, chúng ta triển khai hội nhập quốc tế sâu rộng, xây dựng mạng lưới đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, quan hệ với các nước ngày càng đi vào chiều sâu. Uy tín và vị thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế, đặc biệt là trong những năm gần đây, thể hiện qua việc các nước tin tưởng, ủng hộ ta tổ chức các sự kiện quốc tế quan trọng và đảm nhận những trọng trách quốc tế như: Diễn đàn Nghị viện châu Á - Thái Bình Dương - APPF 26, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN - WEF ASEAN, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều lần thứ hai; Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN

Phòng Lý luận chính trị - Lịch sử Đảng

Ban Tuyên giáo Thành ủy TPHCM