Sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp dạy học vần cho học sinh lớp 1
MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY HỌC VẦN CHO HỌC SINH LỚP 1Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (270.11 KB, 22 trang ) Show
PHÒNG GD & ĐT EA SÚP I.4 Giới hạn phạm vi nghiên cứu 4 I.5 Phương pháp nghiên cứu 4 II PHẦN NỘI DUNG 5 II.1 Cơ sở lý luận 5 - 2 - II.2 Thực trạng 5 a Thuận lợi, khó khăn 5 b Thành công, hạn chế 6 c Mặt mạnh, mặt yếu 6 d Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 7 II.3 Giải pháp, biện pháp 7 a Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 7 b Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp 7 c Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp 13 d Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 13 e Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 14 II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu 14 III PHẦN KẾT LUẬN 14 III.1 Kết luận 14 III.2 Kiến nghị 15 I. PHẦN MỞ ĐẦU I. 1. Lý do chọn đề tài: Bậc tiểu học là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Những gì trẻ học được sẽ là hành trang theo trẻ suốt cuộc đời. Nội dung giáo dục ở bậc tiểu học là một nội dung có giá trị ổn định và bền vững. Môn Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học, có đọc thông viết thạo, hiểu được nội dung văn bản thì mới nắm được thông tin và giải quyết những vấn đề mà văn bản nêu ra. Học sinh có học tốt môn Tiếng Việt thì mới học tốt các môn học khác, biết sử - 3 - dụng Tiếng Việt cho hoạt động giao tiếp, góp phần phát triển tư duy hình thành và phát triển nhân cách cho các em. Thông qua môn Học vần, học sinh sẽ được rèn kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Nghe để phát âm đúng và khi phát âm đúng thì các em sẽ viết đúng chính xác các vần, tiếng, từ. Nếu học sinh không được học phần học vần một cách chắc chắn thì không thể biết đọc, biết viết. Quy trình đầu tiên của việc dạy đọc, viết là dạy học vần, mà đọc, viết có mối quan hệ với nhau, đọc đúng thì mới viết đúng và ngược lại. Học sinh học phần Học vần không tốt thì các em sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc ghép, đọc tiếng, từ mà đặc biệt là những tiếng, từ có nhiều âm tiết hoặc vần khó … đây cũng là vấn đề rất cần thiết nghiên cứu để dạy học phân môn Học vần như thế nào có hiệu quả để nâng cao chất lượng dạy học. Nhằm tạo ra sản phẩm là con người như mục tiêu giáo dục đề ra, người giáo viên cần đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức tổ chức dạy học, đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh trong từng tiết dạy để tạo ra môi trường học tập tích cực, môi trường giáo dục lành mạnh phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi. Do vốn từ Tiếng Việt của học sinh lớp một còn ít, khả năng giao tiếp và sử dụng Tiếng Việt trong các hoạt động học tập còn hạn chế, không đáp ứng được phương pháp dạy học mới hiện nay của các môn học trong chương trình kể cả phân môn Tiếng Việt, mà đầu tiên là Học vần. Nhận thức rõ việc đổi mới trong dạy học là đáp ứng được những yêu cầu giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập hóa đề ra. Vì những lý do trên mà tôi nghiên cứu đề tài : “Một số biện pháp dạy học vần cho học sinh lớp Một” ở trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, xã Ea Lê, huyện Ea Súp, tỉnh Đắc Lắc. I. 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài : * Mục tiêu: Đề tài này tập trung nghiên cứu Một số biện pháp dạy học vần cho học sinh lớp Một. Đề ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn trong giảng dạy giảm tỉ lệ học sinh yếu, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Học vần cho học sinh lớp Một Hoàng Văn Thụ. - 4 - - Góp phần thiết thực vào việc hình thành kỹ năng tư duy, phương pháp học tập chủ động, khoa học tích cực cho học sinh, giáo dục tính cẩn thận cho học sinh. * Nhiệm vụ: Với mục tiêu quan trọng nêu trên, đối với lớp Một có những nhiệm vụ cụ thể như sau - Giúp học sinh nắm được một cách có hệ thống các âm vị trong phân môn học vần: các nét cơ bản, nguyên âm, phụ âm, thanh điệu, bảng chữ ghi âm . - Giúp cho học sinh nắm được phương pháp học tốt, hứng thú trong học tập, yêu thích môn học. - Dạy học sinh biết ghép các âm thành vần nắm được vị trí các âm trong vần, biết ghép phụ âm đầu với vần để tạo thành tiếng. - Biết đọc các nét cơ bản đọc đúng chính xác âm, viết đúng các nét cơ bản, viết đúng các âm và vần, biết đọc đúng các từ ngữ, các câu ứng dụng. - Rèn kĩ năng nghe, đọc, viết, nói cho học sinh. I. 3. Đối tượng nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu là học sinh khối lớp 1, trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ. I. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu: - Thực trạng học sinh lớp 1 của trường tiểu học Hoàng Văn Thụ. -Trong chương trình Tiếng việt lớp 1. - Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 1. I. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng những phương pháp sau : * Đọc tài liệu liên quan đến đề tài: - Đọc sách giáo viên Tiếng Việt 1. - Đọc tài liệu đổi mới phương pháp dạy học. - Đọc tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng. * Thực nghiệm sư phạm. * Phương pháp điều tra, quan sát. * Phương pháp tổng hợp kinh nghiệm. - 5 - II. PHẦN NỘI DUNG II. 1. Cơ sở lý luận: * Cơ sở khoa học: Trong các môn học ở Tiểu học phần Học vần của môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng. Đặc biệt, lứa tuổi Tiểu học là giai đoạn chuyển tiếp từ hoạt động chơi ở mẫu giáo sang hoạt động học là chủ đạo vì có đọc được thì trẻ mới hiểu được yêu cầu của bài học. Kỹ năng nhận biết và đọc của học sinh lớp Một rất quan trọng, đó cũng là sự phản hồi của kết quả tiếp thu sau một quá trình học tập của các em. Nó thể hiện kết quả nhận biết các con chữ, các vần, và khả năng ghép chữ cái với nhau thành vần, ghép chữ cái với vần thành tiếng, và khả năng đọc từ, đọc câu sau cùng là đọc được một bài văn ngắn, một đoạn thơ ngắn vv… * Cơ sở thực tiễn: Đối với học sinh khi bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Ở giai đoạn đầu lớp Một (học âm – chữ, vần) những hoạt động có ý thức này còn mới mẻ. Đến lớp các em phải học bài, ngồi ngay ngắn, phải kiểm tra bài, phải thực hiện đúng yêu cầu của giáo viên. Đối với các em, giáo viên lớp Một cũng khác với cô giáo mẫu giáo. Giáo viên có chỗ ngồi riêng, có cách dạy riêng, có sự đánh giá cho điểm. Những điều này làm cho một số em trong giờ Học vần thường rụt rè, không dám đọc to, hoặc một số em đọc quá to, lạc cả giọng làm ảnh hưởng đến hiệu quả giờ Học vần. Dạy Học vần nhằm tạo kỹ năng và thói quen học tập. Do đó, trong quá trình dạy vần giáo viên cần cho học sinh đọc - viết nhiều. Đồng thời phải luôn thay đổi cách đọc, viết nếu không việc học sẽ nhàm chán, hiệu quả học vần sẽ hạn chế. II. 2. Thực trạng: Trong giảng dạy trực tiếp lớp Một bản thân gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau: a. Thuận lợi - khó khăn: * Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chi bộ, Ban giám hiệu nhà trường có kế hoạch giảng dạy ngay từ đầu năm, tổ chức thao giảng, dự giờ , tổ chức - 6 - những buổi, họp chuyên môn, tổ khối thảo luận để rút ra những ý kiến hay, những đề xuất kinh nghiệm tốt áp dụng trong việc giảng dạy. - Đội ngũ giáo viên trường có trình độ đạt chuẩn và trên chuẩn, tay nghề vững lâu năm trong công tác, có nhiều kinh nghiệm sẵn sàng giúp đỡ đồng nghiệp về chuyên môn cũng như giúp nhau tháo gỡ những khó khăn hay xử lý các tình huống sư phạm. trường hợp học sinh cá biệt về học tập cũng như hạnh kiểm chưa ngoan. - Học sinh chiếm đa số là người kinh, hầu hết đã học qua mẫu giáo. Vào lớp Một đúng độ tuổi nên rất ngoan, dễ vâng lời, nghe lời cô giáo, thích học tập và thi đua với các bạn, dễ khích lệ động viên khen thưởng vv…. - Học sinh được cấp phát đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập. - Phụ huynh thường xuyên nhắc nhở và tạo điều kiện tốt cho con em mình đến lớp cũng như học tập ở nhà. - Cơ sở vật chất của nhà trường tương đối đầy đủ, đảm bảo phòng học. * Khó khăn: Một số học sinh học trước quên sau, không nhớ hết âm, không biết ghép âm vần thành tiếng, chưa biết đánh vần để đọc thành tiếng. Một số em phát âm còn ngọng, một số em chưa có ý thức học tập, trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Bên cạnh những em phát triển, học tốt, tiếp thu nhanh vẫn còn một số em yếu về thể chất, bé nhỏ hơn so với các bạn bình thường kèm theo phát triển chậm về trí nhớ, học trước quên sau, chậm tiến. - Còn một phần không ít phụ huynh không và chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để con em mình đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. -Tranh ảnh minh họa có sẵn cho môn Học vần còn hạn chế. Bản thân còn tự làm thêm đồ dùng dạy học để tạo sinh động cho tiết dạy, nên còn mất nhiều thời gian chuẩn bị. b. Thành công - hạn chế : - 7 - - Ban giám hiệu nhà trường có kế hoạch chỉ đạo đến các tổ khối và toàn thể giáo viên. Ngay từ đầu năm đã tổ chức dạy thao giảng ở tất cả các khối nói chung và khối Một nói riêng để rút kinh nghiệm. Bản thân làm khối trưởng khối Một, tôi tổ chức họp khối để thảo luận về đổi mới phương pháp cũng như phần giảm tải, tích hợp giáo dục môi trường, kỹ năng sống. Bản thân luôn có ý thức tự rèn, luôn học hỏi đồng nghiệp trau dồi về chuyên môn. Rèn phát âm đúng, viết đúng mẫu chữ quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo. - Một số giáo viên dạy lớp Một phát âm chưa chuẩn, còn sử dụng tiếng địa phương trong giảng dạy, chưa thực sự đổi mới phương pháp dạy học, chữ viết chưa đẹp. c. Mặt mạnh - mặt yếu: Đa số học sinh tiếp thu bài nhanh dễ nhớ, tiết học diễn ra nhẹ nhàng sôi nổi, các em tích cực tham gia vào hoạt động học. Bên cạnh đó một số em còn nhút nhát chưa mạnh dạn, chủ động tiếp thu bài, chưa có ý thức tự giác trong học tập, còn thiếu tập trung trong tiết học dẫn đến chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động: - Giáo viên chưa nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, nhiều tiết còn dạy chay. Chưa rèn phát âm chuẩn và rèn chữ viết đúng mẫu. - Một số em đến lớp quên mang theo đồ dùng học tập như bảng con, phấn viết, vở bài tập, không học bài cũ ở nhà, ngồi học chưa chú ý. - Do thay đổi chương trình cũ và chương trình mới học nhiều phân môn hơn chương trình cũ. Trong phân môn Học vần có phần luyện nói theo chủ điểm nhưng vốn từ của các em còn hạn chế nên chất lượng giờ dạy chưa cao. - Phụ huynh: Do đời sống còn gặp nhiều khó khăn, vất vả, bận làm ăn nên không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con em. Chưa thực sự phối kết hợp với giáo viên chủ nhiệm để có hướng giáo dục tốt nhất cho các em. Chưa phân bố thời gian - 8 - như giờ học, giờ chơi ở nhà để các em học tốt. Còn có tư tưởng khoán trắng chất lượng học của con, em mình cho giáo viên. 3. Giải pháp, biện pháp: a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp: - Nhằm giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản của phân môn Học vần Đọc, viết thành thạo đúng chính xác, nghe phát âm chuẩn, nói rõ ràng tròn câu, viết đẹp. Ngay từ đầu năm học tôi dạy kĩ cho học sinh nắm vững các nét cơ bản và sau đó nắm vững âm và chữ ghi âm. Trong tiết dạy tôi hướng dẫn học sinh nắm được các nét cơ bản, bằng cách đọc gắn liền với nhận dạng trên bảng lớp, bảng cài, tranh trong sách giáo khoa, đặc biệt là các đồ vật có thực tế ở lớp, ở trường, để học sinh nhận biết và đọc thuộc các nét, các âm. Vì nếu học sinh nắm vững chắc được phần này thì sang phần vần học sinh học sẽ dễ dàng hơn. b.Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp: - Họp phụ huynh đầu năm xây dựng kế hoạch học tập ở nhà cho các em. - Tìm hiểu để biết rõ số học sinh đi học mẫu giáo không đều. Tìm hiểu nguyên nhân, lý do vì sao học sinh đó đi học mẫu giáo không đều. - Kiểm tra nắm bắt thực trạng, tình hình học sinh qua khảo sát điều tra đầu năm học 2011 – 2012 như sau: Lớp 1A sĩ số : 22 học sinh. Học sinh dân tộc : 4em, nữ: 02em + Học sinh lưu ban : 01 em + Học sinh đi học mẫu giáo không đều :2 em + Học sinh đi học đều : 20 em - Mới bước vào lớp Một vì các em còn quá nhỏ, chưa ý thức tự giác trong học tập. Vì vậy giáo viên phải biết được đặc điểm tình hình của từng đối tượng, khả năng tiếp thu của từng em để phát huy tính tích cực ham học cho học sinh. Tổ chức tiết dạy sao cho các em luôn cảm thấy nhẹ nhàng, vui tươi và các em sẽ thích học. Nhận thức rõ được các khó khăn cơ bản về học sinh tôi đã có những giải pháp, biện pháp cụ thể sau: - 9 - - Đối với dạy các nét cơ bản : Khi nhận lớp trong tuần đầu làm quen, ngoài hướng dẫn cho các em về nội quy của lớp, tôi dạy kỹ cho các em các nét cơ bản. Ví dụ : Nét sổ (| ) giống như cây thước để đứng hay cạnh thẳng đứng của khung cửa lớp ra vào, nét móc ngược ( ) giống như lưỡi câu cá, nét cong kín (O) giống như chiếc vòng đeo tay… Bên cạnh đó nhằm giúp học sinh tránh nhầm lẫn giữa nét này với nét khác, để khắc sâu kiến thức cơ bản tôi gợi ý hướng dẫn học sinh so sánh để nhận biết điểm giống nhau giữa các nét. Ví dụ : Nét cong hở – phải ( C ) và nét cong hở – trái ( ) đều giống nhau là nét cong khác nhau là nét cong hở phải thì hở bên phải, nét cong hở trái thì hở bên trái. - Đối với âm- chữ ghi âm Cho học sinh nhận diện âm – chữ ghi âm mẫu trên bảng lớp rồi phân tích để nắm được cấu tạo của âm và chữ ghi âm đó. Chẳng hạn như âm o, ô, ơ . + Giáo viên: âm o gồm mấy nét và những nét nào? + Học sinh: gồm 1 nét cong kín. Giáo viên gọi học sinh tìm đồ vật có trong thực tế giống với chữ ghi âm đó để học sinh nhớ lâu hơn. Ví dụ :Tôi có thể cho học sinh đọc thuộc câu: o tròn như quả trứng gà, ô thì đội nón, ơ thì có râu. Tiếp theo tôi gọi học sinh tìm âm o, ô, ơ ở trong bộ chữ thực hành cài vào bảng cài. Điều đáng chú ý là sau mỗi lần gọi học sinh tìm các âm trong bộ chữ cài vào bảng, tôi luôn khuyến khích học sinh cá nhân hay tổ nào tìm nhanh và đúng thì được khen. Bên cạnh đó phát hiện những học sinh tìm chậm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời . Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức đi sâu vào trọng tâm bài, gọi học sinh so sánh để nhận biết điểm giống và khác nhau giữa âm này với âm khác. Ví dụ : Khi dạy: d và đ tôi hỏi học sinh: - 10 - + Giáo viên: giữa âm d và đ giống và khác nhau ở điểm nào? + Học sinh: âm d và đ giống nhau là d, khác nhau là đ thêm dấu ngang. Để học sinh nhớ một cách chắc chắn hơn, cho học sinh học thuộc câu: “ d , đ hai chữ giống nhau Chữ đ khác bởi trên đầu gạch ngang” Tôi cho học sinh nhận dạng trên bảng lớp, nắm được cấu tạo qua phân tích và nhận dạng trên bộ chữ thực hành. - Đối với vần : -Trong phân môn Học vần bài dạy âm, các em được quan sát hình ảnh trực quan: con ve, xe đạp, cải bắp, cá mập…các em được nghe giáo viên phát âm mẫu, được phát âm, được nghe các bạn phát âm. Khi đã nắm chắc âm, việc tạo vần sẽ dễ dàng với các em hơn. Khi hình thành vần mới việc đầu tiên là các em phải phân tích vần ấy một cách chắc chắn . Biện pháp giúp học sinh học tốt phần vần, tôi hướng dẫn học sinh nhận dạng vần trên bảng lớp rồi phân tích để nắm được vị trí của các âm trong vần, cho học sinh thực hành ghép vần vào bảng cài và đọc vần đó. Ví dụ : Dạy bài 47 : en –ên, tôi hướng dẫn học sinh qua câu hỏi gợi mở. + Hỏi: Vần en có mấy âm? Học sinh trả lời: Vần en có hai âm. + Hỏi: Âm nào đứng trước, âm nào đứng sau? học sinh trả lời: âm e đứng trước âm n đứng sau. Sau đó gọi học sinh khác nhận xét xem bạn trả lời đúng, sai, đồng thời kiểm tra học sinh trong lớp có chú ý theo dõi bài không. Cho học sinh thực hành ghép vần trên bộ chữ thực hành để nắm cấu tạo vần đồng thời khắc sâu kiến thức . Sau khi học sinh ghép vần xong, gợi ý cho học sinh đánh vần và đọc e đứng trước đọc trước, n đứng sau đọc sau. Từ đó gọi đánh vần và nhiều em đọc. Trường hợp học sinh đánh vần chưa đạt, tôi phát âm lại hai đến ba lần vần đó rồi cho học sinh đọc, chỉnh sửa phát âm cho học sinh ( e –nờ – en ; đọc trơn en ) - 11 - Phần vần tôi tổ chức cho các em chơi trò chơi nhỏ vừa củng cố vần vừa làm cho không khí lớp thêm sôi nổi qua trò chơi * Trò chơi : “ Tìm tiếng chứa vần -Thời gian chơi: Cuối tiết 1 ( 5 - 7 phút). Tiến hành chơi theo nhóm tổ. Giúp học sinh củng cố vần và đọc được tiếng chứa vần - Chuẩn bị : 4 đến 6 bảng nhóm, phấn.( tùy số lượng học sinh) Giáo viên nêu yêu cầu “ Tìm tiếng chứa vần viết vào bảng nhóm. Học sinh suy nghĩ tìm và viết tiếng có vần đó trên bảng nhóm (1em chỉ viết 1 tiếng). Khi hết thời gian quy định nhận xét tổ, nhóm nào tìm nhiều, chính xác thì thắng. - Đối với tiếng : Sau khi có vần mới, học sinh chọn thêm một phụ âm, dấu thanh để tạo tiếng. Trước khi tạo tiếng, cho học sinh nghe bạn mình phân tích tiếng đó một lần nữa. Với hoạt động dạy học này các em được thực hành nhiều trên bảng cài, kết quả học sẽ cao hơn. Sau khi tạo tiếng, cá nhân sẽ tự được đứng lên phân tích tiếng mình vừa đọc và tự ghép vần vào bảng cài. Ví dụ : Em hãy nêu cấu tạo tiếng mèo Tiếng mèo có âm m (mờ) đứng trước, vần eo đứng sau, dấu huyền trên âm e. * Hướng dẫn học sinh nhận biết sự giống nhau, khác nhau của các âm, vần mới và các âm, vần đã học. Các bước so sánh : - Vần ao, vần eo có gì giống nhau ? ( giống nhau kết thúc đều bằng âm o) - Vần ao, vần eo có gì khác nhau ? (khác nhau: ao có a, eo có e đứng trước ) Để tập cho học sinh làm quen với thao tác tư duy, phân tích, tổng hợp, so sánh khái quát hoá mỗi khi làm bài tập điền âm, vần, học sinh phải biết nắm vững yêu cầu của bài tập, sự kiện đã cho, phải điền âm vần gì. Biết vận dụng các âm vần đã học để làm được các bài tập trong vở bài tập. - Ngoài ra, các quy tắc chính tả ( g, ng , c , k , qu , ) được lồng ghép vào các trò chơi học tập, thi đua ở mỗi tổ, nhóm. - 12 - Ví dụ : Em hãy điền g , gh vào chỗ trống sau : Củ ệ , ế tựa i nhớ , bé a Cá ừ , …ọn …àng Em hãy giải thích vì sao âm (gờ ) đứng trước e, ê , i em phải viết bằng gh ) ? - Giúp học sinh đọc đúng các tiếng, tôi cho học thực hành ghép tiếng, rồi phân tích để nắm được vị trí các âm, vần và dấu thanh, rồi đánh vần và đọc như: + Hỏi: đã có vần en muốn được tiếng sen ta phải làm gì ? + Học sinh trả lời: Ghép âm s trước vần en. Gọi em khác trong lớp nhận xét và nhắc lại. + Hỏi: Tiếng sen có âm gì đứng trước? Vần gì đứng sau ? (đối với học sinh khá, giỏi, tôi có thể hỏi: Em hãy nêu cấu tạo tiếng sen ? + Trả lời: có âm s đứng trước vần en đứng sau. + Học sinh: Đánh vần: sờ - en – sen đọc: sen Để cho lớp học thêm sinh động, tổ chức cho các em, học mà chơi – chơi mà học. Bằng cách ghi tìm các tiếng hoặc từ có vần vừa học ở ngoài bài, nhằm giúp học sinh ôn luyện, củng cố âm, vần và mở rộng vốn từ. + Đối với lớp Một tôi đang dạy có nhiều học sinh yếu thì tôi dành nhiều thời gian cho các em đánh vần, nhằm giúp các em hình dung ra cấu tạo chữ và ghi nhớ mặt chữ. Tăng cường hoạt động nhận diện âm, vần, tiếng bằng trò chơi nhằm tạo cho các em vui vẻ trước và sau khi học. * Trò chơi : “ Nối ô chữ ” Cuối tiết 2 ( 5 - 7 phút ) ở sách bài tập tiếng việt . Giúp học sinh củng cố vần in- un nối và đọc được từ có tiếng chứa vần in- un. - Chuẩn bị: 4 bảng nhóm ghi sẵn tiếng thành 2 cột, phấn, tiến hành chơi theo nhóm tổ. Giáo viên nêu yêu cầu “ Tìm đọc tiếng ở cột A và B trong bảng nhóm sau đó dùng phấn nối ô chữ ở cột A với cột B tạo thành từ đúng nghĩa. Học sinh suy nghĩ tìm và nối tiếng trên bảng nhóm (1 em chỉ nối 1 từ). - 13 - Sau khi hết thời gian quy định nhóm nào nối nhanh, chính xác nhóm đó thắng cuộc. - Đối với câu (hoặc đoạn thơ ) - Biện pháp giúp các em học tốt tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi hoặc cuộc thi nhỏ như đọc nối tiếp theo nhóm. Tuy cuộc thi tiến hành trong 3 -5 phút nhưng nó đem lại không khí vui vẻ, giúp học sinh bớt mệt mỏi trong giờ học. Qua đó giúp học sinh đọc tốt bài đọc để sang phần luyện tập tổng hợp đọc được tốt hơn . Ví dụ : Đoạn thơ ứng dụng ở bài 48 có 4 dòng thơ : “ ủn à ủn ỉn Chín chú lợn con Ăn đã no tròn Cả đàn đi ngủ” Tôi chọn hai nhóm mỗi nhóm 4 em (mỗi em đọc một dòng thơ) thi đọc, nhóm nào đọc đúng lưu loát được tuyên dương. Sau khi các nhóm thi đọc xong, gọi học sinh khác nhận xét để phát hiện học sinh đọc nhỏ, chưa rõ tiếng. Từ đó nhắc nhở, rèn cho học sinh đọc to (vừa đủ nghe). Bản thân tôi thường xuyên động viên và giúp đỡ học sinh (nhất là đối với học sinh yếu) trong suốt quá trình học tập, đánh giá đúng kết quả luyện tập của học sinh để có biện pháp dạy học tiếp theo sao cho phù hợp. Để tiết Học vần có chất lượng cần phối hợp nhiều hình thức: học toàn lớp, học cá nhân, học theo nhóm, tổ chức thi đố vui trò chơi, sử dụng các phiếu bài tập vv - Khích lệ tạo hứng thú trong học tập: Nắm được đặc điểm tâm lí chung của học sinh lớp Một một là thích được khen. Vì vậy tôi thường xuyên động viên khích lệ các em trong mỗi tiết học, hạn chế chê trách. Đối với những em chậm tiến bộ, rụt rè, tự ti tôi quan tâm nhiều hơn đến các em bằng cách gọi các em trả lời hoặc lên bảng ghép vần, tiếng, từ. Chỉ cần các em có một tiến bộ nhỏ là tôi tuyên dương ngay để các em mạnh dạn hơn. Đối với học sinh khá giỏi phải có những biểu hiện tiến bộ vượt bậc hơn so với các bạn tôi mới khen. - 14 - Chính sự động viên kịp thời này và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập. - Trò chơi học tập: Việc tổ chức các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng đó cũng là một biện pháp giúp học sinh học tốt. Các tiết dạy của năm học trước, khi nghỉ giữa tiết thường cho học sinh hát một bài nhưng nay thay vào đó thì tôi cho học sinh chơi một số trò chơi khoảng 3- 5 phút phù hợp nội dung bài và thay đổi trò chơi cho các em hứng thú hơn trong học tập, tuy nhiên cần phải chú ý đến tính vừa sức với học sinh . * Một số trò chơi áp dụng vào dạy học vần: Đầu tiết học tôi có thể cho học sinh chơi trò chơi khởi động như tìm thẻ chữ có âm, vần đã học tiết trước hoặc hát bài hát có tiếng chứa âm, vần liên quan đến bài mới. Ví dụ: Dạy vần ôi- ơi Học sinh hát bài “Em đi chơi thuyền”, hoặc bài “Cá vàng bơi ” * Trò chơi 1: “ Tôi bảo” . -Thời gian chơi: Giữa tiết 1 ( 5 phút ) . Giúp học sinh củng cố vần tiếng và từ khóa chứa vần mới học - Chuẩn bị: Bộ cài chữ Tiếng Việt 1. Giáo viên hô: “ Tôi bảo” Học sinh đáp lại: “Bảo gì” . Giáo viên nói yêu cầu cần bảo để các em thực hành, ví dụ: Tôi bảo hãy ghép vần ăm ( hoặc tiếng chăm ) . Học sinh tiến hành ghép theo yêu cầu giáo viên. Giáo viên nhận xét học sinh nào, tổ, nhóm nào ghép nhanh, chính xác thì thắng. * Trò chơi 2 : “ Tìm tiếng chứa vần” - Thời gian chơi: Cuối tiết 1 ( 5 - 7 phút ). Giúp học sinh củng cố vần và đọc được tiếng chứa vần - Chuẩn bị : 4 bảng nhóm, phấn. - Nội dung – luật chơi: tiến hành chơi theo nhóm tổ. - 15 - Giáo viên nêu yêu cầu “ Tìm tiếng chứa vần viết vào bảng nhóm. Học sinh suy nghĩ tìm và viết tiếng có vần đó trên bảng nhóm (1 HS chỉ viết 1 tiếng). Sau khi hết thời gian quy định nhóm nào viết được nhiều và chính xác nhóm đó thắng cuộc, nhận xét tổ, nhóm nào tìm nhanh, chính xác thì thắng. * Trò chơi 3 : “ Nối ô chữ ” Cuối tiết 2 ( 5 - 7 phút ) . Giúp học sinh củng cố vần nối và đọc được từ có tiếng chứa vần - Chuẩn bị : 4 bảng nhóm ghi sẵn tiếng thành 2 cột, phấn, tiến hành chơi theo nhóm tổ. Giáo viên nêu yêu cầu “ Tìm đọc tiếng ở 2 cột trong bảng nhóm sau đó dùng phấn nôi ô chữ ở cột này với cột kia tạo thành từ đúng nghĩa. Học sinh suy nghĩ tìm và nối tiếng trên bảng nhóm (1 HS chỉ nối 1 từ). Sau khi hết thời gian quy định nhóm nào nối nhanh, chính xác nhóm đó thắng cuộc * Trò chơi 4 : Ví dụ “ Đánh dấu + vào trước ô trống của tiếng chứa vần ôm, ơm” -Thời gian chơi: Giữa tiết 1 ( 5 phút ) . Giúp học sinh củng cố vần, tiếng chứa vần ôm, ơm. - Chuẩn bị: 4 bảng nhóm ghi sẵn tiếng chứa vần ôm, ơm. Giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm tiếng có trong bảng phụ tìm xem tiếng nào có vần ôm, ơm sau đó đánh dấu + vào ô trống trước tiếng đó. Hết thời gian quy định nhóm nào hoàn thành nhanh, chính xác nhóm đó thắng. * Trò chơi 5 : “ Nối theo mẫu ” . -Thời gian chơi: Cuối tiết 2 ( 5 - 7 phút ) Giúp học sinh củng cố vần đã học nối và đọc được tiếng chứa vần đó. - Chuẩn bị: 2 bảng phụ vẽ sẵn hình bông hoa, quả và lá trong bông hoa. Giáo viên ghi sẵn một số âm hoặc vần vừa học. Trong lá ghi các dấu thanh đã học. - Nội dung – luật chơi: chia lớp thành 2 đội mỗi đội cử 5 em tham gia chơi. Giáo viên đính bảng phụ lên bảng thực hành mẫu: Ví dụ : nối hình hoa (có âm ô) nối với hình quả ( có âm m ) Tạo vần ôm . Sau khi hết thời gian quy định đội nào nối nhanh, và tạo được nhiều tiếng có nghĩa đội đó thắng cuộc . - 16 - * Trò chơi 6 : “ Đọc đúng tên hình ” . - Thời gian chơi : Giữa tiết 2 ( 5 phút ) . - Mục đích chơi : Giúp HS củng cố vần vừa học nối và đọc được tiếng, từ chứa vần - Chuẩn bị : một số hình ảnh thân quen, gần gũi với học sinh . - Nội dung – luật chơi : Đính hình ảnh đã chuẩn bị lên bảng yêu cầu học sinh đọc đúng tên hình ảnh đó. Em nào đọc nhanh chính xác em đó thắng . * Trò chơi 7 : “ Tìm và gạch chân tiếng chứa vần ” . -Thời gian chơi: Giữa tiết 1 ( 3 - 5 phút ). - Chuẩn bị: Bộ thẻ từ ( Đủ 1 em 1 thẻ ), nam châm . Chia nhóm tổ phát thẻ từ, yêu cầu học sinh thực hành: Đọc thầm từ trong thẻ sau đó gạch chân tiếng chứa vần vừa học. Sau khi thực hành xong chay nhanh lên bảng và dùng nam châm gắn thẻ từ lên bảng theo nhóm tổ mình. Hết thời gian quy định, nhận xét học sinh nào, tổ, nhóm nào tìm nhanh, chính xác thì thắng. c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp : Nhà trường tạo điều kiện về cơ sở vật chất, mỗi lớp học có một phòng. Có đủ đồ dùng dạy học - Lựa chọn đội ngũ giáo viên dạy lớp Một phải là những giáo viên nhiệt tình, giàu lòng yêu nghề, yêu thương học trò, chũ viết đẹp, phát âm chuẩn. Dạy kỹ năng nói : Song song với kỹ năng đọc, kỹ năng viết là kĩ năng nói. Để học sinh nói đủ to rõ ràng thành câu. Tôi quan sát, theo dõi từng học sinh để phát hiện học sinh năng động và thụ động. Từ đó quan tâm học sinh thụ động nhiều hơn, thường gọi học sinh trả lời câu hỏi do giáo viên yêu cầu, rồi học sinh khác nhận xét, nếu trả lời đúng thì tuyên dương . Ngoài ra vào những giờ ra chơi tôi thường gần gũi với học sinh thường hay nói chuyện, để học sinh có những thói quen khi tiếp xúc. Từ đó các em nói mạnh dạn hơn. Đối với những học sinh nói chưa thành câu, tôi hướng dẫn học sinh như sau : Ví dụ : Dạy bài 88 vần : ip , up . - 17 - Gọi học sinh so sánh điểm giống và khác nhau giữa vần ip , up thì học sinh khá giỏi trả lời rất tốt: rõ ràng, lô gic, tròn câu. Còn đối với những em nói chưa tốt chỉ trả lời đúng nội dung câu hỏi nhưng chưa tròn câu. Do đó gọi học sinh khá giỏi trả lời trước. Sau đó lặp lại câu hỏi và gọi những em nói chưa tròn câu trả lời. giúp đỡ những em yếu nói tròn câu: vần ip –up giống nhau âm p đứng sau, khác nhau âm i và âm u đứng trước. Từ đó giúp các em nói tròn câu trong mọi tình huống giao tiếp. Chẳng hạn như: đầu giờ giáo viên vào lớp, học sinh biết nói câu: “ chúng em chào cô (thầy) ạ!”. Tôi dặn các em trước khi đi học (hoặc đi học về) phải biết chào ông bà, cha mẹ….như: chào ông, bà cháu đi học, hay chào ba mẹ con đi học về. - Tăng cường cho học sinh luyện nói trong tiết dạy: Khi dạy vần: ăn – ân + Học sinh nêu chủ đề luyện nói: Nặn đồ chơi . + Giáo viên: Trong tranh vẽ các bạn đang là gì ? (các bạn nặn đồ chơi ) + Các bạn nặn những con gì, vật gì ?(Các bạn nặn con chim, con gà, con thỏ, … ) + Đồ chơi thường được nặn bằng gì?(Đồ chơi được nặn từ đất, bột gạo nếp, bột dẻo) + Em có thích nặn đồ chơi không ?( Em thích nặn đồ chơi. ) + Sau khi nặn đồ chơi xong, em phải làm gì ?(Em thu gọn lại cho ngăn nắp và cất cẩn thận, rửa tay, chân sạch sẽ ) Tôi cho nhiều em được nói, nếu em nào nói không tròn câu, tôi cho em tập nói lại theo bạn. Kỹ năng nghe: Để giúp các em nghe hiểu trong giờ học trước tiên tôi rèn phát âm chuẩn, âm khó thì phát âm hai đến ba lần sau đó mới gọi học sinh phát âm lại để sửa lỗi cho học sinh đọc chưa đúng. Khi giảng, nói ít ngắn gọn đảm bảo nội dung, các em nghe hiểu câu hỏi hiểu lời hướng dẫn hoặc yêu cầu của giáo viên… Về thiết bị dạy học - 18 - Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh, thực hiện chương trình sách giáo khoa mới. Ngoài việc thực hiện các phương pháp và nội dung dạy học tôi cũng chú ý đến phương tiện để phục vụ cho bài học ở từng dạng bài, từng phần trong chương trình, để đạt được mục tiêu của bài học cần phải sử dụng những đồ dùng nào, những phương tiện dụng cụ nào không thể thiếu trong tiết dạy. Tôi xem các danh mục về thiết bị và đồ dùng dạy học của nhà trường hoặc bản thân đã tích luỹ được từ trước, dặn dò học sinh phải chuẩn bị gì, bản thân phải chuẩn bị gì để dạy, nhằm thu hút, hấp dẫn học sinh tạo ra hứng thú học tập cho các em. Tuy nhiên khi truyền thụ kiến thức cho học sinh tôi cũng chú ý đến tính vừa sức, phát huy tích cực sáng tạo, hệ thống bài học lôgic, tập cho học sinh trả lời tròn câu rõ ràng, chính xác. d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: - Các biện pháp, giải pháp đưa ra cho học sinh luôn phải có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Muốn cho học sinh đọc đúng thì đòi hỏi giáo viên phải đọc mẫu đúng. Xác định đúng mục tiêu bài dạy và đối tượng dạy thì giờ học mới có hiệu quả. e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Sau thời gian áp dụng đưa vào giảng dạy từ đầu năm 2011-2012 đến hết phần học vần. Tôi nhận thấy đa số các em kể cả học sinh yếu đều có thể nhận biết và phát âm đúng những âm, vần đã học từ đó đã hình thành được kỹ năng đọc, viết chữ tương đối tốt chất lượng cụ thể như sau: II.4 Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Thời gian Số học sinh Phân loại Nhận biết phát âm đúng Phát âm chưa đúng Biết chơi trò chơi Đầu năm 22 em 16 em 6 em 15 em Học kì 1 22 em 18 em 4 em 20 em Học kì 2 22 em 21 em 1 em 21 em - 19 - III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: III.1. Kết luận: Từ việc làm trên và áp dụng một số biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp Một, do nhận thức của bản thân nên đã chuyển hướng cách dạy mới trong quá trình dạy học phân môn học vần rút ra được một số kinh nghiệm nhằm dạy học tốt có chất lượng: - Phân loại đối tượng học sinh ngay từ năm học để có biện pháp giúp đỡ kịp thời. - Xây dựng nề nếp học tập, sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để học sinh hỗ trợ nhau trong học tập. - Nắm đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tạo điều kiện cho học sinh phát huy chủ động sáng tạo sự phát triển vấn đề và tự giải quyết được vấn đề. - Phối hợp với phụ huynh và nhà trường trong việc chăm sóc, giáo dục và giảng dạy học sinh ngay từ đầu năm học để nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. - Giáo viên phải phát âm chuẩn, đọc đúng và rèn trẻ phát âm ở mọi lúc mọi nơi. - Đầu tư đồ dùng, thiết bị đồ chơi tự làm hợp với lứa tuổi, đẹp, hấp dẫn và gây được hứng thú học tập cho học sinh. Phát huy cao tác dụng và hiệu quả của các trò chơi, thay đổi các hình thức chơi phong phú và sáng tạo. Tạo tâm thế và gây hứng thú khi tiến hành giờ học, giúp các em khắc sâu kiến thức bằng cách phối hợp linh hoạt các phương pháp và các hình thức tổ chức dạy học gây hứng thú học tập, kích thích tính tích cực và chủ động học tập của học sinh, xây dựng môi trường học tập thân thiện, yêu trường muốn đến lớp của học sinh và tạo sự tin tưởng cho phụ huynh. -Tham khảo tài liệu, dự giờ… nhằm trao đổi kiến thức để dạy học tốt phân môn Học vần và các môn học khác. - Động viên, khen ngợi, khuyến khích kịp thời trước mỗi thành công của học sinh. - Giáo viên phải có tấm lòng nhiệt tình, yêu nghề, mến trẻ, biết quan tâm đúng mức đến từng đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu cần được quan tâm thường xuyên. Học sinh yếu theo tôi là phải quan tâm các em bằng tình thương thật sự, bằng tấm lòng, hi sinh thời giờ cho các em thì mới mang lại hiệu quả. - 20 - III.2. Kiến nghị: - Đối với ban giám hiệu trường Thường xuyên tổ chức hội giảng đối với phân môn Học vần nói riêng và các môn học khác nói chung để học hỏi, rút kinh nghiệm ở các bạn đồng nghiệp. Trường cần có thêm tài liệu tham khảo đối với phân môn Học vần. Cần bổ sung thêm nhiều tranh ảnh minh họa cho môn học để giúp giáo viên có phương tiện dạy học tốt hơn. - Đối với phòng giáo dục Thường xuyên mở các chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về chương trình sách giáo khoa mới để giáo viên có thêm kiến thức nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngày càng có hiệu quả cao hơn. Trên đây là những ý kiến cá nhân của bản thân tôi đã góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học vần lớp Một, đồng thời qua đề tài này tôi cũng mong nhận được ý kiến trao đổi từ quý đồng nghiệp để bản thân đạt hiệu quả hơn trong công tác giảng dạy. Trong việc nghiên cứu, tìm hiểu về thực tiễn dạy học vần ở lớp Một, ngoài cố gắng của bản thân tôi còn được sự quan tâm giúp đỡ của các đồng nghiệp, mặc dù có những nỗ lực nhưng do kinh nghiệm còn hạn chế nên đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô và ban giám khảo, tôi xin cảm ơn và ghi nhận những ý kiến quý báu đó . Xin chân thành cảm ơn. Người viết Phan Thị Nhàn TÀI LIỆU THAM KHẢO - Sách giáo viên, sách thiết kế bài dạy Tiếng Việt lớp 1 - Tài liệu chuẩn kiến thức kỹ năng. - 21 - - Tài liệu hướng dẫn dạy theo vùng, miền. - Nghiên cứu sách giáo khoa, vở bài tập của học sinh. Ý KIẾN XẾP LOẠI CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………………… EaRôk, ngày 28tháng 12 năm 2013 BGH - 22 - SKKN Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.6 KB, 39 trang ) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM một giai đoạn mới , hoạt động học tập . các em trở thành những “cậu học sinh “ những ‘cô học sinh “ , có một địa vị trong gia đình và ngoài xã hội Tuy vậy , ở giai đoạn đầu lớp 1 ( học âm – chữ , vần ) những hoạt động có ý thức này còn mới mẻ. chẳng hạn đến lớp các em phải thuộc bài , ngồi ngay ngắn , phải kiểm tra bài , phải thực hiện đúng yêu cầu của giáo viên … hơn nữa trong nhận thức của các em địa vị của người giáo viên lớp 1 cũng khác với cô giáo mẫu giáo . Giáo viên có chỗ ngồi riêng , có cách nói riêng , có sự đánh giá cho điểm . Những điều này làm cho một số em trong giờ học vần thường rụt rè , không dám đọc to , đọc lạc cả giọng …. Làm ảnh hưởng đến hiệu quả giờ học vần . Dạy Học vần nhằm tạo kỹ năng và thói quen không thể có được nếu không lặp đi lặp lại các hành động cần thiết . Do đó , trong quá trình dạy vần giáo viên cần cho học sinh đọc nhiều , viết nhiều . Đồng thời phải luôn thay đổi nội dung học đọc , học viết nếu không việc học sẽ nhàm chán , hiệu quả học vần sẽ hạn chế . 1. 2. Vị trí và nhiệm vụ của phân môn học vần 1.2.1.Vị trí: - Trang bị cho học sinh những tri thức và kĩ năng có tính chất công cụ mở đầu cho việc học phân môn học vần một cách có hệ thống , nề nếp để tiếp tục học lên các lớp trên hay vận dụng vào thực tế cuộc sống rộng rãi . - Góp phần thiết thực vào việc hình thành phương pháp suy nghĩ phương pháp làm việc học tập chủ động , khoa học tích cực cho học sinh. - Góp phần làm cho học sinh thành những con người có nhân cách ,phát triển toàn diện như: hình thành rèn luyện nề nếp phong cách và tác phong làm việc khoa học giáo dục ý chí và những đức tính tốt… 1.2.2 Nhiệm vụ: - Với vị trí quan trọng nêu trên để góp phần vào việc thực hiện mục tiêu đào tạo ở lớp 1 có những nhiệm vụ cụ thể như sau : - Giúp học sinh nắm được một cách có hệ thống các âm vị trong phân môn học vần : các nét cơ bản , nguyên âm , phụ âm , thanh điệu , các bảng chữ ghi âm và bảng chữ cái … vì hệ thống kiến thức đó là một bộ phận của vốn văn hoá rất cần thiết để phân môn học vần và các phân môn khác trong bộ phận môn Tiếng việt môn học khác . - Dạy học sinh biết ghép các nét cơ bản thành âm , biết ghép các âm thành vần , nắm được vị trí các âm trong vần , biết ghép phụ âm đầu với vần để tạo thành tiếng . - Biết đọc các nét cơ bản đọc đúng chính âm , viết đúng các nét cơ bản , viết đúng chính tả về các âm và vần , biết đọc đúng các từ ngữ , các câu ứng dụng . - Rèn kĩ năng nghe , đọc , viết cho học sinh - Giúp cho học sinh nắm được phương pháp học tốt , phát triển hứng thú học tập , phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh . 2. Cơ sở thực tiển: …………………… ? II. Mục đích, đối tượng, phương pháp nghiên cứu: 1.1. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao hơn nữa về một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy - học môn Học vần cho học sinh lớp 1C Trường Tiểu học mỹ Phước D. 1.2.Đối tượng nghiên cứu: - Biên pháp nâng cao chất lương môn học vần. 1.3. Phương pháp nghiên cứu: - Nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Học vần tôi sư dụng một số phương pháp sau: 1.3.1. Phương pháp trò chuyện Trò chuyện với phụ huynh học sinh và học sinh đem lại nhiều thông tin bổ ích , như tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của học sinh , trao đổi việc học tập của các em qua tiếp xúc với phụ huynh , trò chuyện với học sinh biết được những thắc mắc của học sinh khi học phân môn học vần hoặc các môn học khác . Từ đó tôi tự tìm cho mình một hướng đi thích hợp về phương pháp dạy phân môn học vần nhằm nâng cao chất lượng dạy-học. 1.3.2. Phương pháp đọc sách tài liệu : - Đọc sách và tài liệu l phương pháp không thể thiếu được của việc nghiên cứu , nó được sử dụng ngay từ khâu chọn đề tài nhằm tham khảo , xây dựng đề tài nghiên cứu kiến thức cho bản thân. - Xem sách giáo viên Tiếng Việt 1 - Sử dụng gio trình phương pháp dạy học Tiếng Việt. - Đọc tài liệu đổi mới phương pháp dạy học. - Xem băng đĩa có liên quan đến phân môn Học vần. - Nghin cứu cc loại sch gip em học tốt mơn Học vần. 1.3.3 . Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm là phương pháp thu thập sự kiện bằng cách phân tích các sản phẩm vật chất của hoạt động tâm lý qua khảo sát đầu năm , bài tập thực hành ở lớp , kiểm tra thường xuyên … Giúp tôi nắm được kết quả học tập của học sinh từ đó có những kế hoạch bồi dưỡng thích hợp cho từng đối tượng. 1.3.4 .Phương pháp trực quan Phương pháp trực quan bao gồm : phương pháp quan sát và phương pháp trình bày trực quan . Hai phương pháp này có mối quan hệ với nhau . Cụ thể là khi trình bày trực quan như: vật thật , tranh phóng to … Để minh hoạ , học sinh tiến hành quan sát chúng một cách có khoa học dưới vai trò chủ đạo của giáo viên nhằm giúp học sinh dễ tiếp thu kiến thức và không gây biểu tượng sai lầm . 1.3.5 . Phương pháp đàm thoại Phương pháp đàm thoại chiếm một vị trí quan trọng trong việc dạy và học .Nó được sử dụng rộng rãi trong quá trình học tập nhằm gợi cho học sinh làm sáng tỏ những vấn đề mới , tìm ra những tri thức mới , rút ra những kết luận cần thiết từ những tài liệu đã học cũng như kinh nghiệm đã được tích luỹ trong đời sống ; củng cố , ôn tập , mở rộng và đào sâu những tri thức mà học sinh đã nắm bắt được ; kiểm tra việc nắm bắt tri thức của học sinh . Chẳng hạn : khi hướng dẫn học sinh học phân môn học vần theo phương pháp đàm thoại ta thường dùng một hệ thống nhiều câu hỏi để hướng dẫn học sinh suy nghĩ từng bước để tìm ra được tiếng mới , từ mới . 6. 6. Phương pháp trò chơi Trong các xu hướng phát triển của giáo dục hiện đại , phương pháp trò chơi giúp học sinh lĩnh hôị tri thức , kĩ năng , kĩ xảo và các kĩ năng hoạt động sáng tạo điển hình . Phương pháp trò chơi là một hình thức tổ chức dạy học nhẹ nhàng,hấp dẫn , lôi cuốn học sinh vào học tập tích cực vừa chơi , vừa học và học có kết quả nhất là đối với học sinh lớp 1 . *Một số phương pháp trên trong các phần sau là phần giải pháp sẽ minh hoạ cụ thể hơn . III. Giới hạn đề tài: - Do thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn nên tôi chỉ nghiên cứu về phạm vi môn học vần lớp 1 ở tại đơn vị Trường Tiểu học Mỹ Phước D. IV. Các giả thuyết nghiên cứu: - Nghiên cứu đề tài góp phần nâng cao hơn nữa về biện pháp dạy – học cho học sinh tại đơn vị hạn chế tình trạng học sinh yếu. V. Kế hoạch thực hiện: - Để hoàn thành đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã nghiên cứu qua thời gian cụ thể như sau: Thời gian Nội dung Ghi chú 15/9/2010 - Đăng Ký Thi Đua, Đăng Ký Tên Đề Tài: Một Số Biện Pháp Nâng Cao Chất Lượng Dạy Học Học Vần Lớp 1c Trường Tiểu Học Mý Phước D 1/10/2010 đến 22/10/2010 - Xây dựng đề cương, trình tổ khối trưởng, ban giám hiệu góp ý Từ 24/11/2010 đến 5/12/2010 - Nghiên cứu tài tiệu: SGK, SGV, tài liệu đổi mới phương pháp dạy học, băng đĩa VV… Từ 6/12/2010 đến 10/12/2010 - Viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm hoàn chỉnh, trình hội đồng xét sáng kiến kinh nghiệm của trường xét duyệt. B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG1: THỰC TRẠNG VÀ CÁCVẤN ĐỀ CẦN ĐƯỢC GIẢI QUYẾT Trong giảng dạy bản thân gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau: 1/ Thuận lợi: - Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Ban giám hiệu nhà trường . - Được sự hỗ trợ của hội cha mẹ học sinh. - Tập thể giáo viên đoàn viên trao đổi , học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau - Thiết bị dạy-học tương đối đầy đủ - Có một số học sinh ham học , thích được đến trường . 2/ Khó khăn: - Đa số học sinh vùng nông thôn, phương tiện đi lại còn gặng nhiều khó khăn, gia đình nghèo thường xuyên phải đi làn ăn xa, việc quan tâm của cha mẹ học sinh đôi lúc vẫn còn hạn chế, từ đó phần nào cũng ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. - Một số học sinh học trước quên sau, không nhớ hết âm, không biết ghép âm vần thành tiếng , chưa biết đánh vần để đọc thành tiếng . - Một số học sinh chưa qua mẫu gio nn phần nhiều cc em cịn bỡ khi cc em tiếp xc cc mặt chữ,cch cầm bt… 3 / Các nguyên nhân 3.1 / Từ phía học sinh : - Địa bàn nơi tôi công tác đa số học sinh ở sâu trong kinh Mới và kinh Tám Thước, Chiếm 60% mặc dù chương trình phù hợp với độ tuổi nhưng đa số học sinh chưa qua lớp mẫu giáo,đối với lớp 1 mà phải nhớ và nhận dạng hết 29 chữ ghi âm trong 6 tuần đầu thì khơng phải l việc lm dễ đối với các em.Lại càng khó hơn đối với học sinh yếu tiếp thu chậm .Vì hơm nay học bi ny hơm sau lại học bi mới thì lại qun bi hơm qua. 3.2. Từ phía phụ huynh Qua tiếp thu với phụ huynh có một số ý kiến : - Do đời sống còn gặp nhiều khó khăn , vất vả , bận lo làm ăn nên không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con em . - Do thay đổi chương trình và chương trình mới học nhiều hơn chương trình cũ . - Chưa phân bố thời gian như giờ học , giờ chơi ở nhà để các em học tốt . - Hiện nay chỉ tiêu chất lượng dạy học là : Day thật , học thật tránh ngồi nhầm lớp , mặc dù sau những giờ ra chơi dành 7 -10 phút kèm thêm học sinh yếu , tổ chức bồi dưỡng thêm buổi chiều, phụ đạo thêm ngày nào có 5 tiết .Qua đó nếu không có sự phối hợp của phụ huynh học sinh thì cũng khó đạt kết quả . Vì giờ học ở lớp ít hơn so với thời gian ở nhà . CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Qua kết quả thực tế của học sinh hồi đầu năm học bản thân luôn suy nghĩ rất nhiều là giáo viên đứng lớp truyền thụ nội dung kiến thức trong chương trình của lớp đầu cấp ở bậc tiểu học lòng không yên , băn khoăn lo nghĩ và phải làm sao để giúp học sinh mình học tốt và đạt kết quả . Muốn vậy bản thân tôi cần nắm được quan điểm , mục tiêu và các biện pháp cơ bản để dạy học đạt yêu cầu . Tuy nhiên để dạy học một cách sáng suốt , giáo viên tìm tòi nghiên cứu cơ sở tri thức qua sách báo , dự giờ rút kinh nghiệm , chuyên đề , thao giảng , xem băng hình Đa dạng hoá các biện pháp dạy học , nhất là tìm cách dạy học thích hợp với từng đối tượng học sinh . Để giúp các em học tốt phân môn Học vần tôi cần bồi dưỡng cho học sinh và chuẩn bị các mặt sau : - Về kiến thức phân môn Học vần . - Về thiết bị dạy- học - Xây dựng nề nếp lớp học - Công tác kết hợp giữa “ nhà trường- gia đình- xã hội” - Về kiến thức xây dựng lớp học - Kiểm tra đánh giá nghiên cứu sản phẩm của học sinh . - Công tác bồi dưỡng học sinh . 1. Một số kinh nghiệm và biện pháp 1.1.Về kiến thức phân môn hoc vần 1.1.1.Kĩ năng đọc Nhằm giúp học sinh nắm chắc kiến thức kĩ năng cơ bản của phân môn Học vần : Đọc, viết thành thạo đúng chính xác, nghe phát âm chuẩn, nói rõ ràng tròn câu, viết đẹp… Ngay từ đầu năm học giáo viên cần dạy kĩ cho học sinh nắm vững các nét cơ bản và sau đó nắm vững âm và chữ ghi âm. Vì nếu học sinh nắm vững chắc được phần này thì sang phần vần học sinh học sẽ dễ dàng hơn. Trên tiết dạy giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm được các nét cơ bản, bằng cách đọc gắn liền với nhận dạng trên bảng lớp, trong vở đặc biệt là các đồ vật có thực tế ở lớp, ở trường - Đối với dạy các nét cơ bản : Ví dụ : Nét sổ (| ) giống như cây thước để đứng hay cạnh thẳng đứng của khung cửa lớp ra vào, nét móc ngược ( ) giống như lưỡi câu cá , nét cong kín (O) giống như chiếc vòng đeo tay… Bên cạnh đó nhằm giúp học sinh tránh nhầm lẫn giữa nét này với nét khác, để khắc sâu kiến thức cơ bản giáo viên gợi ý hướng dẫn học sinh so sánh để nhận biết điểm giống nhau giữa các nét. Ví dụ : Nét cong hở – phải ( C ) và nét cong hở – trái ( ) đều giống nhau là nét cong khác nhau là nét cong hở phải thì hở bên phải, nét cong hở tri thì hở bên trái . - Đối với âm- chữ ghi âm Giáo viên cho học sinh nhận dạng âm – chữ ghi âm mẫu trên bảng lớp rồi phân tích để nắm được cấu tạo của âm và chữ ghi âm đó. Chẳng hạn như âm d. + Giáo viên : âm d gồm mấy nét và những nét nào? + Học sinh : gồm nét cong kín và nét thẳng Giáo viên gọi học sinh tìm đồ vật có trong thực tế giống với chữ ghi âm đó để học sinh nhớ lâu hơn. Ví dụ : Âm d giống như cái gáo múc nước Âm n giống như cái cổng… Tiếp theo giáo viên gọi học sinh tìm âm d ở trong bộ chữ thực hành cài vào bảngci. Điều đáng chú ý là sau mỗi lần giáo viên gọi học sinh tìm các âm trong bộ chữ cài vào bảng, giáo viên nên đôn đốc, khuyến khích học sinh cá nhân hay tổ nào tìm nhanh v ci đúng thì được khen. Bên cạnh đó giáo viên phát hiện những học sinh tìm chậm để có biện pháp giúp đỡ. Để giúp học sinh khắc sâu kiến thức đi sâu vào trọng tâm bài, giáo viên gọi học sinh so sánh để nhận biết điểm giống và khác nhau giữa âm này với âm khác. Ví dụ : Khi dạy : d và đ giáo viên hỏi học sinh: + Giáo viên : giữa âm d và đ giống và khác nhau ở điểm nào? + Học sinh : âm d và đ giống nhau là d, khác nhau là đ thêm dấu ngang . Để học sinh nhớ một cách chắc chắn hơn, giáo viên hướng dẫn học sinh học thuộc câu: “ d , đ hai chữ giống nhau Chữ khác bởi trên đầu gạch ngang” Tương tự như trên GV hướng dẫn học sinh nhận biết giữa âm e , ê giống nhau là e , khác nhau là ê có thêm dấu mũ . Hay Gv hướng dẫn học sinh học thuộc câu : “ e , ê giống tựa như nhau ê thì đội mũ, e thì trống trơn” Mặc dù những âm – chữ ghi âm đã học xong đã được nhận dạng trên bảng lớp , nắm được cấu tạo qua phân tích hay nhận dạng trên bộ chữ thực hành …. Nhưng tôi vẫn còn nhận thấy nhầm lẫn âm này với âm khác . Ví dụ : Như âm d, q để giúp học sinh khác khắc phục tình trạng trên vào các tiết ôn tập ( âm chữ ghi âm ) tôi đố học sinh một câu đố để giúp các em thư giãn trong giờ học , đồng thời củng cố lại các âm và các nét cơ bản : “ Quả gì ở tận trên cao Chẳng phải giếng đào mà có nước trong “ ( là quả gì ? ) + Học sinh trả lời : là” quả dừa” ơ’ trên cao .giáo viên hỏi tiếp : + Hỏi : tiếng dừa có âm gì đứng trước đã học rồi ? Trả lời : âm d giáo viên hỏi tiếp : Am d gồm mấy nét ? Đó là những nét nào ? Học sinh trả lời : có 2 nét : nét cong kín và nét thẳng ; đến đây giáo viên hướng dẫn học sinh nhận biết dừa có chữ d , như vậy nét thẳng đứng sẽ lên cao trên nét cong , q thì ngược lại . - Đối với vần : Tương tự như các âm – chữ ghi âm , để giúp học sinh học tốt phần vần , giáo viên hướng dẫn học sinh nhận dạng vần trên bảng lớp rồi phân tích để nắm được vị trí của các âm trong vần từ đó học sinh đọc một cách dễ dàng hơn . Ví dụ : Dạy bài 47 : en –ên , giáo viên hướng dẫn học sinh qua câu hỏi gợi mở . + Hỏi : Vần en có mấy âm ? Học sinh trả lời : có hai âm + Hỏi : Am nào đứng trước , âm nào đứng sau ? học sinh trả lời : âm e đứng trước , âm n đứng sau . Sau đó giáo viên gọi học sinh khác nhận xét xem bạn trả lời đúng , sai, đồng thời kiểm tra học sinh trong lớp có chú ý theo dõi bài không . Tương tự như vậy đối với vần ên . Song giáo viên gọi học sinh thực hành ghép vần trên bộ chữ thực hành để nắm cấu tạo vần đồng thời khắc sâu kiến thức . Hay Sau khi học sinh ghép vần xong , giáo viên gợi ý cho học sinh đánh vần và đọc e đứng trước đọc trước , n đứng sau đọc sau . Từ đó gọi đánh vần và đọc . Trường hợp học sinh đánh vần chưa đạt , giáo viên chỉnh sửa phát âm cho học sinh ( e –nờ – en ; đọc en ) - Đối với tiếng : Để giúp học sinh đọc tốt các tiếng , giáo viên cho học thực hành ghép tiếng , rồi phân tích để nắm được vị trí các âm , vần ,và dấu thanh , rồi đánh vần và đọc như: + Hỏi : các em đã có vần en muốn được tiếng sen ta phải làm gì ? + HS trả lời : Ghép âm s trước vần en . Giáo viên gọi HS khác trong lớp nhận xét . e n en ê n ên + Hỏi : Tiếng sen có âm gì đứng trước? Vần gì đứng sau ? + Trả lời : có âm s đứng trước vần en đứng sau . + HS : Đánh vần : sờ - en – sen đọc:sen Để cho lớp học thêm sinh động GV tổ chức cho HS , học mà chơi – chơi mà học . Bằng cách ghi tìm các tiếng hoặc từ có vần vừa học ở ngoài bài , nhằm giúp học sinh ôn luyện , củng cố âm , vần v mở rộng vốn từ . Ví dụ : Dạy bài 48 : in –un - GV yêu cầu tìm tiếng hoặc từ có vần in – un vừa học ở ngoài bài viết vào bảng con , em nào tìm đúng và nhanh được tuyên dương . - Chọn 5 tiếng hoặc 5 từ đúng và nhanh nhất trình bày bảng lớp - Lớp nhận xét và đọc kết quả VD: số chín , quả mìn, say xỉn , gỗ mun … + Đối với lớp 1 tôi đang dạy có nhiều học sinh yếu thì tơi dnh nhiều thời gian cho cc em đánh vần vần ,tiếng đ học nhằm gip cc em cĩ thể hình dung ra cấu tạo của chữ viết một cch r rng. + Tăng cường hoạt động nhận diện âm ,vần đ học trong phần kiểm tra bi cũ v củng cố bi được minh họa cho hai hoạt động này nhằm tạo cho các em vui tươi trước và sau khi học vì ở lớp 1 “học m chơi-chơi mà học”như sau: -Học sinh nghe giáo viên đọc 1 dy từ,nếu nghe thấy tiếng mang m vần ấy thì giơ cao thẻ mang âm vần đang có và đọc trơn tiếng đó.( GV chuẩn bị trước cho các em) -Đọc câu thơ ,câu ca dao… trong đó có chứa tiếng mang âm vần đ học,học sinh lắng nghe v pht hiện cc tiếng ,từ ấy v ghi vo bảng con. VD: * Dạy bi 47:vần en,n Trong đầm gì đẹp bằng sen L xanh bơng trắng lại chen nhị vng. Học sinh pht hiện tiếng “ sen,chen” cĩ vần en vừa học. * Bi 63:em,m Con cị m đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao. -Cho 3 câu ,mỗi câu với một chỗ trống ,GV đưa ra 3 từ,cả 3 từ đều có chứa âm hay vần đang học,đề nghị HS chọn từ thích hợp để điền. VD; Cho 3 vần ua,ay.oi Gió từ t…. mẹ. Gió l…. kẽ lá. Giữa trưa … ả. - Đối với câu (hoặc đoạn thơ ) Để giúp học tốt giáo viên tổ chức cho học sinh chơi trò chơi hoặc cuộc thi nhỏ như : đọc nối tiếp theo nhóm . Tuy cuộc thi tiến hành trong 2 -3 phút nhưng nó đem lại không khí vui vẻ , giúp học sinh bớt uể oải trong giờ học . Qua đó giúp học sinh đọc tốt bài đọc để sang phần luyện tập tổng hợp đọc được tốt hơn . Ví dụ : Đoạn thơ ứng ở bài 48 có 4 dòng thơ : “ ủn à ủn ỉn Chín chú lợn con An đã no tròn Cả đàn đi ngủ” Giáo viên chọn hai nhóm mỗi nhóm 4 em ( mỗi em đọc một dòng thơ) thi đọc , nhóm nào đọc đúng lưu loát , biết ngắt nghỉ ( hơi ) đúng sau mỗi dòng thơ được tuyên dương . Sau khi các nhóm thi đọc xong , giáo viên gọi học sinh khác nhận xét để phát hiện học sinh đọc nhỏ , chưa lưu loát … Từ đó giáo viên nhắc nhở , rèn cho học sinh đọc to (vừa đủ nghe ) . 1.1.2 / Kỹ năng viết Bên cạnh phần đọc là phần viết, nếu đọc thông thì sẽ viết thạo. Đọc thông mở đường cho viết thạo , hai yếu tố này được phối hợp nhịp nhàng với nhau khi dạy phân môn Học vần . Trước tiên giáo vin cần có ý thức viết chữ đẹp , đúng mẫu , rõ ràng và cần phải chú ý tạo cho các em có thói quen ngồi viết đúng tư thế . Từ đó giúp thể lực của các em phát triển , đó cũng là nguyên nhân chống mệt mỏi trong giờ học và chống được các bệnh sau này như : cận thị , viễn thị , cong quẹo cột sống … Song giáo viên cần hướng dẫn học sinh nắm vững khái niệm cơ bản về dòng kẻ ,toạ độ chữ viết điểm đặt bút , điểm dừng bút , tên gọi các nét , cấu tạo chữ cái , vị trí dâú thanh , các khái niệm liên kết nét chữ , hoặc liên kết chữ caí… Từ đó hình thành cho các em những biểu tượng về hình dáng , độ cao , sự cân đối , tính thẩm my của chữ viết , đồng thời giúp các em củng cố thêm các nét cơ bản , âm – chữ , vần … khi đọc . - Về dòng kẻ: GV dạy HS nắm vững từng dòng kẻ như : vị trí của dòng kẻ ngang số 1 nằm ở dưới , tiếp đó là dòng kẻ ngang số 2 tương tự như vậy đối với dòng kẻ 3,4 VD: - Về tạo độ chữ viết ; điểm đặt bút điểm dừng bút và tên gọi các nét cơ bản Chẳng hạn : Nét móc ngược ( ) , GV cho HS xem chữ mẫu và hỏi: Hỏi : Nét móc ngược điểm đặt bút bắt đầu từ dòng kẻ nào ? (Nét móc ngược đặt bút ở dòng kẻ 3 ). Hỏi : Cao mấy đơn vị : cao 1 đơn vị ( 2 ô li ) - Giáo viên viết mẫu vừa nêu quy trình viết : đặt bút từ dòng kẻ ngang 3 kéo thẳng xuống dần đến dòng kẻ ngang 1 lượn cong nét bút sang bên phải về phía trên dòng kẻ ngang 2 - HS nhắc lại để nắm rõ qui trình viết Ví dụ: 1/ Là điểm đặt bút 2/ Là điểm uốn 3/ Là điểm dừng bút -Về cấu tạo chữ cái và liên kết cấu tạo chữ: Chẳng hạn như chữ cái C,giáo viên gợi ý,đặt câu hỏi và thông qua chữ mẫu trên bảng lớp để học sinh nhận biết phân tích,hình dáng,cấu tạo chữ như: chữ C gồm mấy nét,là những nét gì?Cao mấy đơn vị?Điểm đặt bút,điểm dừng bút của chữ ở vị trí nào trên dòng kẽ? Về vị trí dấu thanh : Giáo viên cần dạy cho học sinh nắm vững cách ghi dấu thanh.Chẳng hạn: Ở các tiếng không có âm đệm và không có âm cuối vần dấu thanh đượcđặt dưới hoặc trên âm chính , như: “lo” dấu nặng được đặt dưới o, “be:” dấu ngã được đặt trên ê. Ở các tiếng có âm chính là nguyên âm đơn và có âm cuối vần,dấu thanh được đặt trên chữ ghi âm đơn là âm chính. Ví dụ : Tiếng “mía” dấu sắc ( / ) đặt trên i. Tiếng “lụa” dấu nặng (. ) được đặt dưới u -Về liên kết trong bộ phận vần giáo viên hướng dẫn học sinh viết liền mạch từ chữ này với chữ khác. Ví dụ: Vần em viết từ e nối liền mạch sang m. 1.1.3 Kỹ năng nói : Song song với kỹ năng đọc , kỹ năng viết là kĩ năng nói . Để học sinh nói đủ to rõ ràng thành câu : Giáo viên cần phải theo dõi tâm sinh lý của từng học sinh để phát hiện học sinh năng động và thụ động . Từ đó quan tâm học sinh thụ động nhiều hơn , thường gọi học sinh trả lời câu hỏi do giáo viên yêu cầu , rồi học sinh khác nhận xét , nếu trả lời đúng đươc tuyên dương . Qua đó vào những giờ ra chơi giáo viên nên gần gũi với học sinh thường hay nói chuyện , để học sinh có những thói quen khi tiếp xúc . Từ đó các em nói mạnh dạn hơn . Biện pháp này tôi đạt kết quả tốt đối với những em : Minh, Kiệt, Thịnh,Nhật Huy… Đầu năm các em này rất thụ động , đôi khi nói nhỏ ,nhưng có sự quan tâm , tác động của giáo viên và những tràng vỗ tay , biểu dương của các bạn , những em này nói rất tốt . Đối với những học sinh nói chưa thành câu , giáo viên có thể hướng dẫn học sinh như sau : Ví dụ : Dạy bài 88 vần : ip , up . Giáo viên gọi học sinh so sánh điểm giống và khác nhau ,giữa vần ip , up thì học sinh khá giỏi trả lời rất tốt : rõ ràng , lô gic , tròn câu . Còn đối với những em nói chưa tốt chỉ trả lời đúng nội dung câu hỏi nhưng chưa tròn câu . Do đó giáo viên gọi học sinh khá giỏi trả lời trước . Sau đó giáo viên lặp lại câu hỏi và gọi những em nói chưa tròn câu trả lời . giúp đỡ những em yếu Nói tròn câu : chẳng hạn : giữa vần ip –up giống nhau âm p đứng sau , khác nhau : âm i và âm u đứng trước . Giáo viên giúp các em nói tròn câu trong mọi tình huống giao tiếp . Chẳng hạn như : đầu giờ giáo viên vào lớp , học sinh biết nói câu : “ chúng em kính chào cô ( thầy )”. Trước khi đi học (hoặc đi học về )phải biết kính thưa ông ba, cha mẹ….như: thưa ông , bà cháu đi , hay thưa ba mẹ con đi học về . - Tổ chức cho học sinh luyện nói trong tiết dạy : Khác với chương trình cũ , chương trình mới có thêm phần luyện nói trong tiết học , giúp học sinh tự tin , mạnh dạn trong giao tiếp và rèn kỹ năng nói phần luyện nói tôi tiến hành như sau : Khi dạy vần : ăn – ân + Học sinh nêu chủ đề luyện nói : Nặn đồ chơi . + Giáo viên : Trong tranh vẽ các bạn đang là gì ? ( các bạn nặn đồ chơi ) + Các bạn nặn những con gì , vật gì ? ( Các bạn nặn con chim , con gà , con thỏ , chú bộ đội … ) + Đồ chơi thường được nặn bằng gì ? ( Đồ chơi được năn từ đất , bột gạo nếp , bột dẻo … …………………. + Em có thích nặn đồ chơi không ? ( Em thích nặn đồ chơi ) + Sau khi nặn đồ chơi xong , em phải làm gì ? ( Em thu gọn lại cho ngăn nắp và sạch sẽ , rửa tay ,chân ) Giáo viên tổ chức cho nhiều em được nói , nếu em nào nói không tròn câu giáo viên cho em tập nói lại theo bạn . 1.1.4. Kỹ năng nghe: Để giúp các em nghe hiểu trong giờ học trước tiên giáo viên cần phải phát âm chuẩn,lời nói ngắn gọn đảm bảo nội dung. Chẳng hạn nghe để nhận biết sự khác nhau của âm,các thanh,nghe hiểu câu hỏi đơn giản ,nghe hiểu lời hướng dẫn hoặc yêu cầu của giáo viên… - Về nhận biết sự khác nhau của âm: Ví dụ: Như âm e - ê giáo viên hướng dẫn học sinh bằng câu hỏi gợi mở đê nghe hiểu và nhận biết sựkhác nhau của các âm trên dấu mũ e. - Giáo viên : Giữa âm e, ê khác nhau ở điểm nào ? - Học sinh : Giữa e, ê khác nhau ở dấu mũ( nón ), âm ê có cái nón trên đầu . - Về nhận biết sự khác nhau của các thanh Giáo viên giúp học sinh nhận biết sự khác nhau giữa dấu huyền và dấu sắc GV hướng dẫn HS nhận biết bằng cách Hỏi : Dấu huyền là nét xiên bên nào ?( nét xiên bên trái ) Hỏi : Dấu sắc là nét xiên bên nào ? ( nét xiên bên phải ) Từ đó HS nghe hiểu nhận biết và trả lời tốt 1.2. Về thiết bị dạy học Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của học sinh , thực hiện chương trình sách giáo khoa mới . Ngoài việc thực hiện các phương pháp và nội dung dạy học tôi cũng cần chú ý đến phương tiện để phục vụ cho bài học ở từng dạng bài , từng phần trong chương trình , đây là một vấn đề tôi cần suy nghĩ xem để được mục tiêu của bài học nói chung cần phải sử dụng những đồ dùng nào , những phương tiện dụng cụ nào không thể thiếu trong tiết dạy . Qua đó tôi cần xem lại các danh mục về thiết bị và đồ dùng dạy học của nhà trường hoặc bản thân đã tích luỹ được từ trước , để xác định được những đồ dùng dạy học đó học sinh sẽ phải chuẩn bị gì , giáo viên sẽ phải chuẩn bị gì để liệt kê trong thiết kế bài học và nhớ chuẩn bị chúng. Có như vậy trong tiết dạy mới thu hút, hấp dẫn học sinh phải tạo ra hứng thú học tập cho các em. 1.3. Xây dựng nề nếp học tập Đối với những học sinh ít tập trung trong giờ học , đôi lúc còn gây mất trật tự trong lớp. Giáo viên cần bao quát các em trong quá trình dạy học , làm thế nào để huy động sự tập trung của học sinh , trong tiết học tránh tình trạng mất trật tự ảnh hưởng tới lớp học. Vì ở lứa tuổi học sinh lớp 1 rất hiếu động một số em khó ngồi yên trong suốt tiết học , tôi sắp xếp đổi chỗ xen lẫn với những em nghiêm túc học tập để các em bắt chước bạn tham gia học tốt. Kết quả các em này đã chú ý và học tương đối tốt. Trường hợp tình huống có vấn đề xảy ra trong giờ học giáo viên phải khéo léo xử lý đối tượng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh phải tạo không khí quá lơi lỏng để học sinh vô kỉ luật. Giáo viên cũng cần khơi gợi khí thế học tập thoải mái , sôi nổi tìm những phương pháp mới lạ , sử dụng nhiều hình thức dạy học mỗi hoạt động phải được tổ chức 1 cách hợp lí , tác động , kích thích hứng thú học tập cho học sinh như phần giới thiệu tranh , chuyển ý … Phải hấp dẫn , sinh động để thu hút học sinh say mê học tập , học sinh chú ý và linh hoạt trong điệu bộ , cử chỉ của giáo viên khi giảng bài , ánh mắt không rời học sinh để hiểu tâm trạng của học sinh như thế nào để có biện pháp thích ứng. 1.4. Công tác kết hợp giữa nhà trường – gia đình – xã hội Để nâng cao chất lượng dạy – học giáo viên chủ nghiệm cần tổ chức nhiều hình thức như họp phụ huynh học sinh , thăm gia đình , thư hoặc điện thoại liên lạc để nắm rõ từng đối tượng , xem học sinh có làm bài và học bài ở nhà hay không và học được những gì để có biện pháp bồi dưỡng. Bên cạnh đó nhờ lực lượng gia đình hỗ trợ và nhắc nhở và sắp xếp thời gian ở nhà , đồng thời trao đổi tìm hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình của học sinh , có ý kiến đề xuất về Ban Giám hiệu , Hội khuyến học… giúp đỡ để các em có niềm tin trong học tập. Song đó giáo viên cần nêu rõ tầm quan trọng của việt học sinh cho phụ huynh biết. Vì lớp 1 đầu cấp , là nền tảng cơ bản cho các em học tiếp tục học lên các lớp trên. Đối với giáo viên chuyên tôi liên hệ trao đổi thường xuyên để nắm vững tình hình kịp thời , phát huy những mặt tốt , những tấm gương điển hình, uốn nắn, điều chỉnh khắc phục tình trạng yếu kém học sinh trong lớp . Môi trường gia đình và cộng đồng ở địa phương chưa thật sự thuận lợi cho việc học tập nói chung , việc học tập của học sinh nói riêng. Vì vậy cần kết hợp với nhà trường vận động gia đình học sinh và cộng đồng cùng hình thành nề nếp tự học, quản lý và động viên tự học của học sinh, xây dựng góc học tập và tổ chức học cá nhân, học nhóm hưóng dẫn học sinh cách tự học(ơ’trường và ở nhà ) tạo cho học sinh niềm vui và niềm tin vào kết quả học tập của bản thân và của các bạn. Tóm lại sự kết hợp giữa gia đình – nhà trường – gia đình –xã hội cần có mục đích, có kế hoạch, có nội dung, có phương pháp của nhà trường nói chung, bản thân giáo viên chủ nhiệm nói riêng giữ vai trò chủ đạo không thể thiếu sự kết hợp giữa gia đình và các lực lượng giáo dục của cac đoàn thể xã hội. 1.5. Về ý thức xây dựng lớp học Khi dạy phân môn học vần , đầu giờ học giáo viên nên kiểm tra lại dụng cụ học tập của học sinh như bảng con, viết , bộ chữ thực hành học vần . . .nhắc nhở các em luôn giữ trật tư chăm chú nghe cô giảng bài,tích cực tham gia phát biểu,xây dựng bài học…Tập cho học sinh có thói quen nề nếp trong giờ học bằng một số ký hiệu thầy trò cùng nhau hoạt động., giữa giáo viên và học sinh có sự thống nhất với nhau Ví dụ : C : Chú ý bài mới b : Bảng con S : Sách Tiếng Việt VBT: Vở bài tập Tiếng V iệt Song đó khi truyền thụ kiến thức cho học sinh giáo viên cần chú ý đến tính vừa sức,phát huy tích cực sáng tạo,hệ thống bài học lôgic,tập cho học sinh trả lời tròn cây rõ ràng,chính xác. 1.6/ Kiểm tra nghiên cứu đánh giá sản phẩm của học sinh Trong lớp học cần phải coi trọng việc kiểm tra đánh giá kết quả việc làm cá nhân của học sinh không để các em hoạt động một cách hình thức mà phải theo dõi,giúp đỡ sữa sai,động viên khen ngợi kịp thời…Tránh lối dạy học đồng loạt,bình quân chung chung mà cần phải thường xuyên tạo điều kiện cho học sinh diễn đạt,suy nghĩ và đóng góp ý kiến lẫn nhau. Điểm cần lưu ý trong việc kiểm tra nghiên cứu đánh giá sản phẩm của học sinh như:kiểm tra thường xuyên kiểm tra định kì,…Để giáo viên tìm hiểu mức độ khẳ năng tiếp thu kiến thức của học sinh như thế nào.Từ đó giáo viên đánh giá nhưng đánh giá phải đảm bảo tính khách quan,chính xc và công bằng phụ thuộc vào sản phẩm ( bài làm )của học sinh.Đây là nguyên tắc hàng đầu, quan trọng bậc nhất của việc đánh giá. 1.7.Công tác bồi dưỡng học sinh Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học công tác bồi dưỡng cho học sinh là công tác không thể thiếu được đối với lớp học nào hay ở cấp học nào. Ông bà ta thường nói :“Trong một bàn tay thì có ngón tay dài , ngón ngắn” và thực tế cũng đã chứng minh điều đó. Nhưng đối với lớp học thì cũng có những em học khá, giỏi, yếu…Cho dù người thầy có hay và bản lĩnh cỡ nào thì ít nhiều cũng gặp phải. Nhưng điều quan trọng là giáo viên phải biết khéo léo, xử lý tốt các đối tượng. Do đó giáo viên cần phân loại đối tượng học sinh và thực hiện phân loại ngay từ đầu năm học để có kế hoạch giảng dạy phù hợp. Cụ thể là - Đối với học sinh yếu kém, do năng lực nhận thức hạn chế cần được bồi dưỡng thêm về phương pháp, về kỹ năng học tập, cần bổ sung kiến thức kịp thời, yếu chỗ nào bồi dưỡng chỗ đó. Bồi dưỡng bất cứ thời gian nào nếu có thể. Nhằm lắp dần lỗ hỏng kiến thức cho các em để các em có thể theo kịp trình độ chung của cả lớp. - Đối với học sinh khá giỏi hoặc có năng khiếu đặc biệt,giáo viên cần tăng cường các hoạt động độc lập,phát triển tư duy,sáng tạo cho học sinh,để học sinh có đều kiện phát huy khả năng,đồng thời nâng cao chất lượng dạy-học. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 1. Kết luận và đề xuất: Thông qua việc làm đã nêu trên kết quả dạy học phân môn học vần ở lớp tôi đã từng bước khắc phục thực tế ở lớp học đã cho thấy rõ qua kiểm tra giữa kì I như sau: Thời gian TSHS Giỏi Khá Trung bình Yếu Đầu năm 26 0 6 10 10 Giữa HK I 26 9 9 4 4 Tôi hy vọng , từ đây đến cuối năm có thêm nhiều em tiến bộ hơn và tôi quan tâm tới 4 em còn yếu phụ đạo thường xuyên , kịp thời để cuối năm được xếp loại trung bình và 100% em được lên lớp . Từ việc làm trên và một số biện pháp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh lớp 1, do nhận thức của bản thân nên đã chuyển hướng cách làm mới trong quá trình dạy học phân môn học vần rút ra được một số kinh nghiệm nhằm dạy học tốt có hiệu quả: - Phân loại đối tượng học sinh ngay từ năm học để có biện pháp giúp đỡ kịp thời. -Tham khảo tài liệu, dự giờ… Nhằm trao đổi kiến thức để dạy học tốt phân môn học vần và các môn học khác. -Quán chuyển đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tạo điều kiện cho học sinh phát huy chủ động sáng tạo sự phát triển vấn đề và tự giải quyết được vấn đề. -Sắp xếp chỗ ngồi hợp lý để học sinh hỗ trợ nhau trong học tập -Đầu tư nghiên cứu thêm đồ dùng dạy học nhằm kích thích hứng thú học tập của học sinh. - Động viên, khen ngợi, khuyến khích kịp thời trước mỗi thành công của học sinh. - Kết hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa gia đình- nhà trường- xã hội nhằm nâng cao chất lượng học tập của học sinh. - Giáo viên phải có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, biết quan tâm đúng mức đến từng đối tượng học sinh, nhất là học sinh yếu cần được quan tâm thường xuyên, sâu sắc. Học sinh yếu theo tôi là phải quan tâm các em bằng tình thương thật sự, bằng tấm lịng, hi sinh thời giờ cho các em thì mới mang lại hiệu quả. Trên đây là những ý kiến cá nhân của bản thân tôi đã góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học vần lớp một , hy vọng sau khi xem qua sáng kiến kinh nghiệm này , quý thầy cô và các anh chị , bạn đồng nghiệp sẽ tiếp tục trình ra nhiều biện pháp để nâng cao việc dạy học vần để chúng ta trao đổi học hỏi lẫn nhau . Trong việc nghiên cứu , tìm hiểu về thực tiễn dạy học vần ở lớp 1 , ngoài cố gắng của bản thân tôi còn được sự quan tâm giúp đơ của Ban Giám Hiệu và các đồng nghiệp , mặc dù có những nổ lực nhưng do dạy lớp 1 chỉ 1,2 năm ,kinh nghiệm còn ít không tránh khỏi đề tài mang tính chủ quan , còn thiếu sót . Rất mong sự đóng góp của quý thầy cô và ban giám khảo , tôi thực sự vô cùng cảm ơn và ghi nhận những ý kiến quý báu đó . 2. Đề xuất: 1. Đối với ban giám hiệu trường Thường xuyên tổ chức hội giảng đối với phân môn học vần nói riêng và các môn học khác nói chung để học hỏi , rút kinh nghiệm ở các bạn đồng nghiệp . Trường cần có nhiều tài liệu tham khảo đối với phân môn học vần . 2. Đối với phòng giáo dục Cần cung cấp thêm đồ dùng dạy học như tranh phóng to ở phân môn Học vần hay bộ chữ thực hành mới va các môn học khác . Cung cấp thêm tủ thiết bị . Bởi vì hiện nay thực hiện chương trình sách giáo khoa mới thiết bị nhiều nhưng tủ đựng thiết bị thì ít nên trong khâu bảo quản còn hạn chế . Thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về chương trình sách giáo khoa mới để giáo viên có thêm kiến thức nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngày càng có hiệu quả cao hơn . 2 / Biện pháp thực hiện Những đặc điểm tâm sinh lý trên đòi hỏi giáo viên lớp 1 phải xác định đúng mục đích , yêu cầu của từng bài học . kiến thức và kĩ năng mà học sinh cần đạt được phải đảm bảo nhẹ nhàng , lựa chọn các phương pháp dạy học phù hợp phát huy tính tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh , kết hợp sử dụng đồ dùng dạy học để tổ chức cho học sinh hoạt động một cách tự nhiên thoải mái không gò ép . tuỳ từng bài có thể sử dụng đồ dùng dạy học sao cho có hiệu quả , tránh hình thức . từ đó học sinh tự lĩnh hội được kiến thức , hình thành được kĩ năng . bên cạnh đó giáo viên cần phải có tấm lòng yêu nghề mến trẻ , luôn quan tâm gần gũi , động viên , khen ngợi và có tinh thần trách nhiệm cao . từ đó đem lại niềm tin cho các em để các em say mê , hứng thú học tập . MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC VẦN CHO HỌC SINH LỚP 1C A/ PHẦN MỞ ĐẦU : 1/TẦM QUAN TRỌNG CỦA PHÂN MÔN HỌC VẦN : Trong các môn học dạy ở tiểu học , dạy môn Tiếng Việt là một vấn đề hết sưc quan trọng và cần thiết đối với học sinh . Học vần là môn học khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học tập và giao tiếp , đó là chữ viết .Tầm quan trọng của học vần chịu sự quy định bởi tầm quan trọng của chữ viết trong hệ thống ngôn ngữ . Nếu chữ viết được coi là phương tiện ưu thê nhất trong giao tiếp thì học vần có vị trí quan trọng không thể thiếu được trong trình môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học . Cùng với tập viết , học vần có nhiệm vụ lớn lao là trao cho các em chìa khoá để vận dụng chư viết khi học tập ,khi biết đọc , biết viết các em có điều kiện nghe lời thầy cô giảng trên lớp , sử dụng sách giáo khoa , sách tham khảo . Từ đó có điều kiện học tốt các môn học khác có trong chương trình . Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng , môn Tiếng Việt ở tiểu học rèn luyện cho học sinh 4 kỹ năng nghe, nói ,đọc, viết .Song , mục tiêu của việc dạy và học Tiếng Việt ở lớp 1 là đem lại cho các em kỹ năng đọc đúng, viết đúng .Qúa trình đọc và viết đều thông qua chữ . Chữ viết của Tiếng Việt là chữ ghi âm ( về cơ bản đọc thế nào là viết thế ấy ). Muốn nắm được kỹ năng đọc ,viết các em phải đồng thời nắm được cả hai . Bởi vậy về nguyên tắt không thể nói ở lớp một dạy âm hay dạy chữ và kết hợp dạy chữ và dạy âm , dạy âm để dạy chữ . Ngoài ra , thông qua việc dạy chữ , dạy âm , học vần còn phải phát triển vốn từ cho các em ( làm giàu vốn từ , biết nói đúng các mẫu câu ngắn ) và tạo cho các em sự ham thích văn thơ . Đây là điều kiện chuẩn cho các em học tốt hơn môn tiếng việt ở lớp trên. II/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Thực trạng và những biện pháp , kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng dạy học vần ở lớp một , nhằm hình dung những khó khăn của các em Để thực hiện được nhiệm vụ trên đòi hỏi người giáo viên phải phát âm chính xác và chuẩn các âm ,vần ,trong từ, trong bài ,tính kiên trì , nhẫn nại ,tính khéo léo tận tình theo dõi hướng dẫn sửa chữa cho các em . Luôn tổ chức cho các em thi đua ghép các âm , vần ,tiếng từ và chỉ chữ nhanh để các em khắc sâu hơn . III / ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : Học sinh lớp 1A 1 Trường tiểu học Long Hưng B. IV/ KHÁCH THỂ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU : 1./ Khách thể : Đối với HS không nhận dạng được âm chữ, phát âm lẫn lộn chưa chuẩn và những em tiếp thu còn chậm. 2./ Phạm vi nghiên cứu : Ở tại lớp 1C Trường tiểu học Mỹ Phước D. V/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 1/ Phương pháp quan sát trực quan : Quan sát cách tiến hành , tổ chức lên lớp của giáo viên khối 1.Quan sát mức độ tiếp thu của học sinh, khả năng hiểu bài và kiến thức ,kỹ năng học sinh đạt được qua tiết học. Quan sát kỹ năng từng thao tác của giáo viên , từng hành vi của học sinh trong lúc học môn học vần . Phạm vi quan sát chủ yếu là học sinh khối 1, quan sát tập trung gói gọn trong phân môn học vần . 2/ Phương pháp đọc sách, tài liệu . -Sử dụng giáo trình “ phương pháp dạy học tiếng việt “ . - Nghiên cứu hướng dẫn học sinh nói tròn câu . - Đọc tài liệu tập huấn đối với phương pháp dạy lớp 1. - Xem sách giáo viên Tiếng Việt 1, sách học sinh Tiếng Việt 1, xem lại một số giáo án hiện giờ đang dạy lớp học vần . - Xem băng đĩa có liên quan đến phân môn học vần. 3/ Phương pháp thống kê, so sánh. Thống kê lại tất cả những gì quan sát , đã tìm hiểu và đọc đựơc , những kinh nghiệm , biện pháp cải tiến , hạn chế của giáo viên rồi sắp xếp một cách có hệ thống -So sánh kết quả sau khi đã thống kê trước đây với kết quả đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm . B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC DẠY HỌC VẦN 1 / Cơ sở tâm lý học: Đi học lớp 1 là giai doạn đầu trong cuộc đời đứa trẻ . Từ giai đoạn lấy hoạt động chơi làm chủ đạo , trẻ em bước vào lớp 1 phải làm quen với hoạt động học tập , đòi hỏi học sinh phải làm việc có tổ chức , có mục đích .Đó là một hoạt động ý thức . Tuy đã có chuẩn bị tâm lý sẵn sàng đi học ở trẻ mẫu giáo nhưng khi thật sự bước vào lớp 1, trẻ phải thưc hiện một loạt hoạt động có ý thức mạnh mẽ như : đến lớp các em phải ngồi nghe giảng bài , phải học bài ,giáo viên kiểm tra bài , các em phải làm quen theo yêu cầu của giáo viên Vấn đề này càng khó khăn và vô cùng bỡ ngỡ đối với những học sinh chưa qua trường lớp mẫu giáo . Những thay đổi này làm cho một số em trong giờ học vẫn thường rụt rè ( không giám đọc to , đọc lạc cả giọng Các em thường thấy bỡ ngỡ chưa thích nghi được ( không tập trung nghe giảng bài , còn ham chơi các trò chơi trong giờ học ) Từ những đặc điểm tâm lý trên đòi hỏi giáo viên lớp một ( trong giai đoạn học vần ) cần chú ý tạo nên động cơ học tập một cách nhẹ nhàng , giúp các em hứng thú với học vần . Mặt khác cần có phương pháp giảng dạy thích hợp , trong đó chú ý trong phương pháp học vui , chú trọng vận động các trò chơi học tập mà trong đó giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn để phát huy vai trò chủ động , tích cực của học sinh Khi học Tiếng Vịêt ở lớp 1 , hiện tượng phổ biến là học sinh đọc được cả tiếng nhưng không ro được các bộ phận của Tiếng Việt , các vần, giữa các con chữ Nguyên nhân vi khả năng phân tích yêú nên chưa phát hiện sự khác nhau về chi tiết của các chữ các tiếng , các vần Vì thế giáo viên cần coi trọng khâu hướng dẫn cho học sinh phân tích : tiếng vần chữ. Sau khi cho học sinh tri giác toàn bộ các từ , tiếng Đây là cơ sở khoa học giải thích phương pháp tổng hợp - phân - tổng trong dạy học vần . 2. Cơ sở ngôn ngữ học : Tiếng Việt là ngôn ngữ đơn lập , về mặt phát âm , mỗi âm tiết tiếng việt gắn với một thanh điệu ( ngang - huyền -sắc- hỏi -ngã - nặng ) .Trong chuỗi lời nói , các ranh giới âm tiết được thể hiện rõ ràng các âm tiết không bị nối dính với nhau như trong ngôn ngữ biến hình . về cấu tạo , âm tiết Tiếng Việt là một tổ hợp âm thanh có tổ chức chặt chẽ . Cách miêu tã âm tiết như một cấu trúc hai bậc là cách miêu tã phù hợp cảm thức tự nhiên của người bản ngữ . Vì vậy con người việt dễ dàng nhận ra âm, đầu vần , thanh điệu của các âm tiết Tiếng Việt ảnh hưởng rất nhiều đến việc lựa chọn phương pháp thích hợp cho học sinh đi từ âm đến chữ trong quá trình học vần. Chữ viết Tiếng Việt là thứ chữ ghi âm , về cơ bản có sự tương ứng với âm và chữ , trừ mỗi âm chỉ ghi bằng một con chữ và mỗi chữ chỉ có một cách phát âm mà thôi . Do đó việc dạy chữ cho học sinh lớp 1 có nhiều thuận lợi . Song , bên cạnh đó , Tiếng Việt cũng có trường hợp ngoại lệ và đây cũng chính là chỗ gây khó khăn .Có trường hợp một âm được ghi bằng nhiều chữ ( ví dụ :Âm “ cờ” được ghi bằng các con chữ k, c . Âm “dờ” ghi bằng các con chữ d, gi ) . Lại có trường hợp một âm được ghi bằng hai, ba con chữ ( ví dụ :âm “ ngờ” được ghi bằng hai con chữ : “ng” ,ba con chữ “ ngh” ). Có trường Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước DSáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn học vần cho học sinh lớp 1 trường tiểu học Mỹ Phước D. » Xem thêm
Tiếng Việt là môn học có tầm quan trọng bậc nhất trong các môn học ở Tiểu học ,có đọc thông viết thạo ,hiểu được nội dung văn bản thì mới nắm được thông tin và giải quyết những vấn đề mà văn bản nêu ra .
» Thu gọn
Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
Skkn-Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt môn học vấn
Sáng kiến kinh nghiệm Một vài kinh nghiệm giúp học sinh lớp 1 học tốt môn học vấn -1- I. ĐẶT VẤN ĐỀ: Mục tiêu của môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc, viết, nghe , nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của trẻ. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện cho học sinh các thao tác tư duy cơ bản (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán...) Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người; về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ mục tiêu trên, việc học Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là rất quan trọng. Học Tiếng Việt ở lớp 1 càng quan trọng hơn. Bởi nếu nói việc dạy học ở bậc Tiểu học như xây một ngôi nhà thì dạy học lớp 1 chính là chuẩn bị phần nền móng của ngôi nhà đó. Để ngôi nhà được vững chắc thì móng phải vững. Đúng vậy, để các em nắm vững kiến thức và học tốt ở các lớp trên thì ngay từ lớp 1, các em phải học tốt Tiếng Việt và cơ bản ở đây là đọc thông viết thạo. Để đạt được điều này, việc học âm vần rất quan trọng, các em phải nắm chắc âm vần để đọc viết đúng âm, vần, tiếng, từ, câu,…Nếu không học tốt môn Học vần chắc chắn các em sẽ gặp khó khăn khi học các môn học khác. -2- Do đó, việc giúp các em học sinh lớp Một học tốt môn Học vần là rất cần thiết. Mỗi GV cần phải có những biện pháp thích hợp giúp học sinh học tốt môn Học vần. III.CƠ SỞ LÍ LUẬN: Dạy Tiếng Việt cho học sinh có hiệu quả vấn đề có tính chất quyết định là phương pháp dạy học. Phương pháp dạy học là phương pháp được xây dựng và vận dụng vào một quá trình cụ thể: “Quá trình dạy học”. Quá trình dạy học là quá trình nhận thức của học sinh được tiến hành dưới tác động chủ đạo của thầy. Như vậy PPDH với tư cách là tổng hợp những cách thức tổ chức các hoạt động của thầy và trò, phải góp phần tích cực của mình - nhiều khi góp phần quyết định - vào việc thực hiện quá trình nhận thức của học sinh. Đặc điểm PPDH Tiểu học là phụ thuộc vào nội dung dạy học Tiểu học, phụ thuộc vào đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ. Các PPDH phải đan xen nhau , bởi sự tập trung chú ý của trẻ kém, kéo dài không được lâu. Nhận thức của trẻ ở lứa tuổi này thiên về cảm tính, thấy sao nói vậy, hay bắt chước hoặc nói theo; phần lớn các em chưa biết tư duy. Để giúp trẻ tư duy, chúng ta phải đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng thì vai trò của phương pháp trực quan trong nhà trường Tiểu học cực kỳ quan trọng. -3- Tóm lại, PPDH Tiểu học có mối liên quan mật thiết đến mục đích, nội dung dạy học cũng như đặc điểm lứa tuổi của trẻ và hơn hết phụ thuộc vào chính người thầy Tiểu học. Một số PPDH ở Tiểu học được sử dụng phổ biến ở lớp một có tính lặp lại nhiều lần như: Phương pháp làm mẫu, phương pháp quan sát trực quan, phương pháp so sánh, phương pháp luyện tập,… *Phương pháp làm mẫu: là phương pháp GV đưa ra mẫu, làm mẫu để HS quan sát và làm theo nhiều lần thành thói quen để hình thành kiến thức, kĩ năng cho HS; *Phương pháp quan sát trực quan: là phương pháp dựa trên vật thật, đồ dùng trực quan, GV hướng dẫn cho các em quan sát để phân tích, so sánh, tổng hợp, phán đoán, nêu vấn đề,…nhằm giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức cần học; * Phương pháp luyện tập: Luyện tập là lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động nhất định nhằm hình thành và củng cố những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết; *Phương pháp so sánh: là phương pháp thường được kết hợp với phương pháp quan sát để giúp HS trên cơ sở quan sát, HS có so sánh hai hay nhiều sự vật, hiện tượng với nhau; từ đó rút ra kết luận vấn đề cần ghi nhớ. Đối với HS Tiểu học, các phương pháp trên được sử dụng nhiều nhất vì trong các lớp đầu cấp, kiến thức mà HS chiếm lĩnh được phải được cung cấp hết sức cụ thể, mọi sự vật hiện tượng đều được các em quan sát bằng nhiều giác quan (bằng tai, mắt, mũi, miệng, tay,…) để đi đến chiếm lĩnh và rèn luyện thành kĩ năng, kĩ xảo. Để tổ chức các hoạt động dạy học trên lớp một cách có hiệu quả người giáo viên cần lựa -4- chọn, vận dụng các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với mục đích và nhiệm vụ từng bài học; đảm bảo cho các em phát triển khả năng quan sát nhanh, luyện tập thói quen biết phân tích, so sánh, tổng hợp và bước đầu biết phán đoán những sự vật, hiện tượng đơn giản có liên quan đến bài học, gần gũi xung quanh các em. IV.CƠ SỞ THỰC TIỄN: -Qua tìm hiểu thực tế ở các lớp một trong cùng địa bàn, tôi nhận thấy các em học yếu các môn đều thường bắt đầu từ việc yếu đọc, viết, nghe, nói. Các em học chưa tốt môn Tiếng Việt thì chắc rằng khả năng diễn đạt khi nói, viết đều khó khăn. Mà muốn học tốt môn Tiếng Việt phải bắt đầu từ lúc học âm (7 tuần đầu tiên của năm học), vần (17 tuần từ tuần 8 đến tuần 24) và được ôn luyện trong suốt thời gian học Tập đọc (Từ tuần 25 trở đi); -Học yếu Tiếng Việt thường biểu hiện ở việc đọc sai, đọc chậm; viết sai phụ âm đầu, vần; viết sai cở chữ; đọc, viết không đảm bảo tốc độ. -Thực tế ở lớp tôi dạy, đầu năm chất lượng môn Tiếng Việt đọc, viết như sau: Phân môn Giỏi (Tỉ lệ) Khá (Tỉ lệ) Đọc 8 (24.3 %) 5 (15.1%) 10 (30.3%) 10 (30.3%) Viết 6 (18.2 %) 4 (12.1%) 11 (33.3 %) 12 (36.4 %) -5- TB (Tỉ lệ) Yếu (Tỉ lệ) *Vậy để nâng cao chất lượng học tập của lớp và nhằm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt Một mỗi GV phải biết vận dụng các phương pháp dạy học một cách linh hoạt, lựa chọn những phương pháp đặc trưng cho từng tiết học sao cho hợp lí nhất, khơi dậy được tinh thần học hỏi, tính đồng đội của lớp. V.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: Học tốt môn Học vần lớp Một, trước hết phải đọc, viết đúng các âm và chữ ghi âm, đọc viết đúng phần vần; biết nghe để ghi nhận thông tin, xử lí thông tin. Vì vậy, những nội dung tôi quan tâm nghiên cứu để thực hiện đó là: 1.Dạy học sinh phát âm đúng để viết đúng: -Phát âm trong dạy Tiếng Việt cho học sinh rất quan trọng, học sinh phát âm đúng thì sẽ nhận diện chữ (đọc) đúng và viết đúng. Ngược lại, nếu không được GV quan tâm kĩ phần này, không được sửa chữa kịp thời các em sẽ dễ bị đọc sai do thói quen ở địa phương và dẫn đến viết sai do đọc sai. Đối với học sinh ở địa phương tôi đang dạy, số học sinh phát âm sai rất nhiều do ảnh hưởng của tiếng địa phương dẫn đến viết sai; viết sai thì tất yếu hiểu sai thông tin được ghi nhận. Chẳng hạn: oa đọc “a”, oe đọc là “e” (hoa hoè đọc là ha hè), oai đọc là oi (bà ngoại đọc thành bà ngọi), uôi đọc là ui; uôm đọc là ôm, lưới đọc là lứ,… -Để dạy cho các em phát âm đúng quả là rất khó, không phải chỉ một vài hôm là xong. Như chúng ta đã biết việc phát âm liên quan tới các cơ quan phát âm. Nếu -6- chúng ta giúp học sinh vừa được nghe, vừa được quan sát (PPTQ) sự phối hợp các cơ âm phát âm như hình dạng của môi, vị trí của răng, lưỡi thì các em sẽ dễ dàng phát âm đúng những âm cần học hơn là chỉ được nghe. Vì vậy, khi dạy học sinh phát âm, GV cần kết hợp sử dụng nhiều phương pháp, vừa nhìn (quan sát) kết hợp với nghe rồi làm theo mẫu và luyện tập thực hành ngay trên lớp. Trong quá trình dạy học GV cần sử dụng đồ dùng trực quan để hướng dẫn các em quan sát, so sánh,…Đồ dùng không phải lúc nào cũng đòi hỏi những thiết bị hiện đại mà có khi đơn thuần chỉ là môi, miệng, lưỡi, răng của GV khi dạy các em phát âm. *Ví dụ: khi dạy các em phát âm vần oa, GV cần cho các em quan sát tranh vẽ hoặc vật thật “cái loa” để nhận diện vần oa, so sánh với cách đọc âm a trong tiếng “la” (la hét). Từ quan sát tranh, HS nghe GV phát âm kết hợp với nhìn động tác từ miệng của GV để nhận ra cách đọc và làm theo mẫu. Nhất là khi phát âm những âm có liên quan nhiều tới môi, đầu lưỡi, răng. Chẳng hạn như các âm b, đ, g, l, m, n, p, r, s, t, v, x, tr, ch, kh,… Đối với những âm học sinh khó nhớ, qua việc phát âm mẫu, GV cần chú trọng tới việc so sánh các âm đó với âm khác có cách đọc giống nhau. *Ví dụ: s – x ; tr – ch ; p – ph Ngoài ra, với những âm không thể dùng phương pháp khẩu hình – so sánh, GV có thể mô tả bằng hình vẽ hoặc bằng động tác cho dễ phân biệt. Chẳng hạn như khi dạy cho HS đọc âm “sờ”, GV có thể làm động tác lấy tay sờ vào một đồ vật nào -7- đó để giúp các em nhận diện đúng, phát âm đúng và phân biệt với “x” khi ghép tiếng. Việc hướng dẫn HS phát âm được tiến hành ở trong giờ dạy âm, vần cũng như khi dạy đọc, GV cần biết lựa chọn và sử dụng các phương pháp một cách hợp lí bởi không nên sử dụng riêng lẻ một phương pháp nào mà cần phải biết kết hợp và sử dụng liên hoàn nhiều phương pháp sao cho hiệu quả nhất. Nhất thiết các em phải được nhìn, nghe, làm theo mẫu; luyện tập nhiều lần qua các hình thức: cá nhân, nhóm, lớp và tích hợp trong các môn học khác mới hình thành kĩ năng để vận dụng trong giao tiếp được. Song song với việc giúp HS phát âm đúng để viết đúng thì chúng ta cần phải giúp cho HS hiểu nghĩa của từ. 2.Giúp HS hiểu nghĩa của từ ngữ để đọc đúng, viết đúng: -Dạy âm vần cho HS lớp 1 không chỉ dạy cho các em đánh vần, đọc trơn các tiếng, từ chứa âm vần đó mà bước đầu còn cần giải thích ngắn gọn để các em hiểu nghĩa của các từ này. Đồng thời việc hiểu nghĩa của từ ngữ sẽ giúp các em đọc đúng và viết đúng chính xác các từ đó. Hai vấn đề này có mối quan hệ biện chứng với nhau. Vì vậy, khi dạy âm và chữ cái, dạy vần, dạy đọc câu và bài ứng dụng GV cần quan tâm cung cấp nghĩa của từ khóa cũng như từ ứng dụng. HS có hiểu được nghĩa thì các em mới dễ nhớ; đọc đúng, viết đúng, nắm chắc chắn được các vần, tiếng đã học một cách có cơ sở. -8- -Việc cung cấp nghĩa của từ có thể tiến hành dưới nhiều hình thức: +Cho HS quan sát vật thật qua các đồ vật có sẵn trong lớp học hoặc đồ chơi trẻ em, mô hình để minh họa nghĩa của từ. *Ví dụ: Lớp học, nhãn vở, bảng đen, cửa sổ, bàn ghế, cổng trường, cột cờ, cây cối, hoa, bạn tốt,…Theo cách này, khi cung cấp nghĩa từ, HS xem các đồ vật, mẫu vật đồng thời các em tận tay sờ các vật mẫu, tận mắt chứng kiến. Nhờ vậy mà các em nắm chắc nghĩa từ. +Cho học sinh quan sát tranh ảnh trong sách giáo khoa, sử dụng các tình huống thật trên lớp. *Ví dụ: quả muỗm, quả chôm chôm, lỗ tai (ai), bàn tay (ay), bé trai, bé gái,… +Sử dụng thực tế gia đình, bạn bè: như các từ liên quan đến những người thân. *Ví dụ: Ông, bà, cha, mẹ, bác thợ điện, chú bộ đội, người bạn tốt,… +Có thể dùng điệu bộ, cử chỉ, nét mặt. *Ví dụ: Những từ chỉ hoạt động của con người: cười, khóc,nói, đi, đứng, chạy nhảy; chỉ tính chất: dài, ngắn, to, nhỏ, cao, thấp, vui, buồn… +GV có thể sử dụng các chuyện có thật, các hiện tượng, thực tế phổ biến để cung cấp nghĩa của từ cho HS. Việc giúp HS hiểu nghĩa của từ còn được tiến hành bằng cách khai thác tranh ảnh trên mạng, áp dụng khi thực hiện bài dạy bằng giáo án điện tử. Ngoài cách giúp học sinh HS hiểu nghĩa từ để nắm chắc âm, vần, tiếng – GV cần phải thường xuyên cho HS luyện viết. -9- 3.Thực hành luyện viết: Trong phần cơ sở lí luận chúng ta đã biết phương pháp luyện tập là rất cần thiết đối với học sinh Tiểu học. Thật vậy, trong dạy Học vần đối với học sinh lớp 1, kiến thức mà học sinh chiếm lĩnh được phải thể hiện thành kĩ năng, kĩ xảo.Muốn vậy, cần phải thường xuyên luyện tập thực hành cho học sinh. Việc luyện tập ở đây có nghĩa là luyện đọc và luyện viết. Khi một học sinh đọc thông, viết thạo có nghĩa là em đó đã hiểu được vấn đề cần nắm. Để cho học sinh học tốt môn Học vần, GV phải thường xuyên luyện viết cho học sinh, bởi khi các em viết đúng vần, tiếng , từ do GV đọc có nghĩa là các em đã nắm chắc được các âm, vần trong phạm vi đã học. Để đạt được điều đó, khâu làm mẫu từ động tác rê bút đến viết các nét tạo tiếng; mẫu phải to, rõ ràng, chuẩn xác sao cho mọi HS trong lớp đều nhìn thấy được. GV cần tăng cường cho học sinh viết bảng con. Ngoài thời gian viết bảng con trong giờ học chính khoá môn Học vần, GV còn luyện tập nhiều lần trong giờ Tập viết, giành thời gian cho học sinh luyện tập trong lúc kiểm tra bài cũ, trong giờ học buổi chiều. Ngoài những từ có sẵn trong sách giáo khoa, GV cho học sinh viết thêm các tiếng ngoài bài có vần vừa học. Cho học sinh luyện viết càng nhiều càng tốt. Việc viết bảng con rất là thuận tiện, GV có thể quán xuyến được lớp đồng thời theo dõi giúp đỡ được học sinh yếu hằng ngày. - 10 - Ngoài việc viết bảng con trên lớp, GV có thể phân nhóm cho học sinh tự luyện đọc, viết ở nhà. Để học sinh học có hiệu quả, tôi phân cho những HS ở gần nhà học cùng nhóm và chọn một em học giỏi có khả năng quản lí các bạn làm nhóm trưởng.Tôi hướng dẫn các em cách tự học ở nhà đồng thời thông qua nhóm trưởng tôi theo dõi kiểm tra thường xuyên. Với học sinh lớp 1các em rất hay quên do đó để học sinh lĩnh hội được kiến thức chúng ta cần phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Để học sinh học tốt môn Học vần, song song với việc dùng những biện pháp trên chúng ta còn cần phải chú ý thay đổi các hình thức dạy học như: học cá nhân, học theo đôi bạn, học theo nhóm có cùng khả năng, hoạt động cả lớp tạo cho các em không khí vui vẻ, thoải mái vừa học vừa chơi. Đặc biệt, thông qua các trò chơi giúp học sinh học nắm kiến thức tốt hơn. 4.Phương pháp tổ chức trò chơi trong quá trình dạy học: Chúng ta đã biết thông qua chơi giúp HS học và học cũng thoải mái như chơi. Vì vậy mỗi GV cần xác định rõ mục đích của mỗi trò chơi, tuân thủ các nguyên tắc và thay đổi các hình thức tổ chức cho HS chơi. 4.1Mục đích: -Giúp học sinh củng cố, hệ thống hoá kiến thức được học, mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc âm vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể; - 11 - -Tạo môi trường để rèn luyện sự linh hoạt, nhạy bén, có thói quen phản ứng nhanh cho HS; giúp các em mạnh dạn khi thể hiện mình trước tập thể; -Thông qua trò chơi tạo không khí thi đua sôi nổi trong mỗi tiết học, làm cho tiết học của HS trở nên nhẹ nhàng hơn, sinh động và hiệu quả hơn. 4.2Nguyên tắc: Tổ chức trò chơi phải phù hợp với thời điểm của từng tiết dạy; Nội dung chơi phải đảm bảo về mặt kiến thức, kĩ năng theo chuẩn quy định, các yêu cầu về kiến thức phải có tính hệ thống; Trò chơi phải đảm bảo tính vừa sức, không quá khó sẽ không thu hút được sự ham thích của HS cả lớp, dễ quá cũng làm giảm độ hấp dẫn; Trò chơi phát huy được tinh thần tập thể, kích thích được tính thi đua học tập, tình cảm gắn bó giữa thầy trò, bạn bè; Tiến hành trò chơi thật tự nhiên, đảm bảo tính tích cực, sáng tạo qua chơi, giúp HS tăng khả năng ghi nhận thông tin và giải quyết thông tin qua nghe, viết, đọc, nói. 4.3Phương pháp tiến hành: Tổ chức trò chơi, có khi để vào bài, có khi để dẫn dắt các em đến chiếm lĩnh kiến thức mới cần đạt, có lúc để củng cố, hệ thống hoá kiến thức trong một bài hay trong một chương, GV cần phổ biến tên trò chơi, nội dung chơi, vật dụng phục vụ cho trò chơi, luật chơi, và trước khi tổ chức chơi nên cho các em chơi thử để các em tự tin hơn. - 12 - 4.4Hình thức: có khi thi đua giữa các cá nhân với nhau, có khi giữa các nhóm, các dãy trong lớp tuỳ từng lúc, từng nội dung mà GV có thể lựa chọn sao cho thích hợp với các em nhất. *Sau đây là những trò chơi trong số nhiều các trò chơi tôi thường sử dụng ở lớp có hiệu quả. a)-Trò chơi “Thi tìm tiếng có âm, vần vừa học” +Mục tiêu: Giúp học sinh mở rộng vốn từ, khắc sâu kiến thức, nắm chắc vần vừa học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể; *GV cho các em chuẩn bị phấn viết, bảng con, giẻ lau. +Cách chơi: Trong vòng 2 phút các nhóm thi đua tìm tiếng có vần vừa học ghi vào bảng nhóm, hết thời gian quy định đính lên bảng lớp. Đánh giá theo điểm: Tìm và viết đúng 1 tiếng có trong bài được 5 điểm, 1 tiếng ngoài bài được 10 điểm.Viết chữ đúng trình bày đẹp cộng thêm 1 điểm. Nhóm nào nhiều điểm hơn, nhóm đó chiến thắng. +Hình thức chơi theo nhóm 4 – 5 HS hoặc theo tổ học tập. Thường được tiến hành khi dạy Học vần (Cuối tiết 1 hoặc tiết 2) *Ví dụ: Bài 44: on-an Học sinh tìm được tiếng, từ có vần vừa học như: lon ton, cái nón, son môi, thợ hàn, cây đàn, bàn tay... - 13 - b)Trò chơi “rung chuông vàng” +Mục tiêu: Giúp cho hoc sinh củng cố kiến thức đồng thời rèn luyện cho học sinh tính nhanh nhẹn. GV chuẩn bị các câu hỏi : Hỏi về đồ vật, hỏi về con vật, cây cối, hiện tượng có tiếng mang vần vừa học; HS chuẩn bị phấn viết, bảng con, giẻ lau. +Cách chơi: GV nêu câu hỏi - HS viết kết quả vào bảng con rồi đưa lên theo hiệu lệnh của GV. Em nào viết sai bị loại, viết đúng được chơi tiếp. Cuối cùng tìm ra em giỏi nhất được tuyên dương. +Hình thức: Thi cả lớp – dùng bảng con. Thường được tiến hành khi củng cố bài hoặc học hết một chương. *Ví dụ: Bài 30: ua-ưa -GV cho HS giải một số câu đố sau, các em sẽ có một số từ mang vần ưa, ua.Gạch dưới từ trong lời giải mang vần ưa, ua Qủa gì mọc tít trên cao Mà sao đầy nước, ngọt ngào bên trong? (là trái hay quả gì?) Cây gì bé nhỏ Hạt nó nuôi người Tháng năm tháng mười Cả làng đi gặt (là cây gì?) -HS tìm được kết quả như sau: quả dừa, cây lúa. - 14 - c)Trò chơi “Thi ghép đúng – Ghép nhanh” +Mục tiêu: Giúp học sinh nắm chắc âm vần cần học, biết vận dụng vào từng trường hợp cụ thể; GV cho HS chuẩn bị mỗi em một bộ chữ thực hành Tiếng Việt. +Cách chơi: Trong thời gian nhất định, khi có lệnh của GV các em thi đua tìm tiếng có vần vừa học vào bảng cài, hết thời gian quy định, HS đưa bảng lên cho lớp kiểm tra. Đánh giá theo điểm: Tìm và ghép đúng 1 vần, tiếng theo yêu cầu của GV được 10 điểm. Tổ nào có ít lược bạn ghép sai tổ đó chiến thắng. +Hình thức chơi theo tổ học tập. Thường được tiến hành khi dạy các em chiếm lĩnh kiến thức ở Học vần tiết 1. d)Trò chơi “Đọc nhanh, nối giỏi” +Mục tiêu: Giúp học sinh nhận diện nhanh âm vần vừa học, biết ghép các tiếng riêng lẻ vào thành cụm từ có nghĩa mới; GV chuẩn bị mỗi dãy một bảng nhóm, phấn viết, giẻ lau. +Cách chơi: Trong thời gian nhất định, khi có lệnh của GV các em thi đua tìm tiếng thích hợp để ghép thành cụm từ có nghĩa, hoàn thành bài tập đem đính lên bảng lớp để GV tổ chức lớp kiểm tra, bổ sung, đánh giá. Đánh giá theo điểm: nối được một cụm từ có nghĩa đúng, GV ghi 10 điểm, đọc đúng mỗi cụm từ được ghi thêm 10 điểm nữa. +Hình thức chơi theo dãy học tập. - 15 - *Thường tiến hành khi dạy Học vần tiết 2. *Ví dụ: Bài 64: im-um -GV cho các từ sau: chim, cá, tôm, hùm, bồ câu, kìm -HS nối được kết quả như sau: chim hùm cá bồ câu tôm kìm e)Trò chơi “Nét chữ nết người” +Mục tiêu: Giúp học sinh viết đúng các chữ ghi âm, vần, tiếng đã học. Rèn luyện đức tính chăm chỉ, cẩn thận và kiên nhẫn trong học tập. GV cho HS chuẩn bị mỗi em một quyển vở luyện viết theo mẫu. +Cách chơi: Trong cùng thời gian nhất định, khi có lệnh của GV các em thi đua viết theo mẫu; yêu cầu viết đúng, thẳng dòng, đẹp. Em nào có bài viết đủ nội dung theo yêu cầu, viết đúng và đẹp (không tẩy xoá) em đó được lớp khen là “Bạn có nết tốt nhất”. +Hình thức chơi: thi đua giữa các cá nhân với nhau đồng thời tổ nào có nhiều bạn được khen là “Nết tốt”, tổ đó chiến thắng. - 16 - *Thường tổ chức ở tiết Tập viết. VI.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Sau thời gian sử dụng các biện pháp trên trong dạy Học vần lớp một, tôi thấy không khí lớp học vui tươi, rất nhiều HS tham gia học tập tích cực, giúp được nhiều HS yếu môn Học vần tiến bộ; giúp các em mạnh dạn, tự tin trong học tập, tinh thần đồng đội, tình thầy trò, tình bạn bè được phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là khắc phục được những hạn chế trong việc đọc, viết giai đoạn học vần của HS lớp tôi phụ trách, được quý đồng nghiệp ghi nhận sự tiến bộ của thầy và trò; góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình Tiểu học năm 2000 và đạt được yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng mà BGD&ĐT quy định. Chất lượng cụ thể qua các lần kiểm tra định kì như sau: * Đầu năm: Giỏi:21,2% Khá:15,2% TB: 30,3% Yếu: 33,3% * GKI: Giỏi: 30,3% Khá:21,2% TB: 27,3% Yếu:21,2% * CKI: Giỏi: 39,4% Khá:30,3% TB: 15,2% Yếu: 15,1% * GKII: Giỏi: 57,6% Khá:27,3% TB: 9,1% Yếu: 6,0% Nói chung, đến nay hầu hết học sinh trong lớp đều đọc thông, viết thạo, khắc phục được tốc độ đọc quá chậm. Bên cạnh đó vẫn còn một vài em đọc còn chậm, dự - 17 - kiến tiếp tục rèn luyện đến cuối năm học này, 100% HS lớp tôi đều đạt được yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng cơ bản môn Tiếng Việt theo quy định của Bộ GD&ĐT. VII. KẾT LUẬN: Từ thực tiễn phong trào thi đua “Hai tốt” trong nhà trường những năm qua và nhất là năm học 2009 – 2010 này, tôi nhận thấy việc lựa chọn phương pháp dạy học, việc thay đổi các hình thức dạy học, việc vận dụng các đồ dùng trực quan sinh động trong quá trình tổ chức các hoạt động học cho HS rất cần thiết và hết sức quan trọng mà mỗi GV cần phải nghiên cứu. + Các phương pháp phải được áp dụng một cách đồng bộ, thường xuyên và linh hoạt. Không có phương pháp nào là ngu dốt và chẳng có phương pháp nào là tối ưu cả mà tối ưu hay không là phụ thuộc chủ yếu vào cách sử dụng của GV vào điều kiện cụ thể của đối tượng HS lớp mình, tùy nội dung từng bài mà quyết định áp dụng một hay một số phương pháp thích hợp. GV cần lưu ý làm mới cách tổ chức các hoạt động học để luôn hấp dẫn các em. + Giáo viên phải tận tụy, nhiệt tình, theo dõi sát sao từng HS, qua đó phát hiện những yếu kém của từng em, tìm nguyên nhân, hướng khắc phục cho từng nhóm để có biện pháp giúp đỡ kịp thời; đôi trường hợp phải sử dụng phương châm “mưa lâu thấm đất” mới có hiệu quả, không nôn nóng, không vội vả để rồi quở trách HS. + Cần có sự đánh giá, rút kinh nghiệm qua từng tháng, học kỳ để kịp thời điều chỉnh phương pháp nhằm đạt hiệu quả tốt nhất. - 18 - + Phải có sự hỗ trợ, phối hợp giúp đỡ từ phía phụ huynh HS để việc áp dụng các biện pháp được thuận lợi, có hiệu quả. VIII.ĐỀ NGHỊ: -Với tổ chuyên môn cùng thử nghiệm để thẩm định kết quả đồng thời cùng nhau rút kinh nghiệm để tổ chức thực hiện đại trà trong tổ và vận dụng một số biện pháp vào môn học khác góp phần thực hiện tốt tinh thần đổi mới phương pháp dạy học; -Nhà trường cần quan tâm hơn đến việc bổ sung hoặc thay đổi một số thiết bị dạy học đã quá cũ như Bộ thực hành Tiếng Việt lớp một dành cho HS; -Với ngành nên quan tâm đến việc tổ chức giao lưu chuyên môn có nội dung dành cho GV dạy lớp một. - 19 - IX.TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Giáo dục học của trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng; 2.Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học – NXB Giáo dục; 3.Tài liệu bồi dưỡng chuyên môn theo chuẩn kiến thức, kĩ năng hè 2009; 4.Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III; 5.Trò chơi thực hành Tiếng Việt lớp một –NXB Giáo dục, tác giả Vũ Khắc Tuân; 6.Tài liệu hướng dẫn tăng cường Tiếng Việt cho HS Dân tộc lớp 1 của Ban chỉ đạo thử nghiệm chương trình Tiếu học năm 2000 thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo; 7.Tâm lí giáo dục học – NXB Giáo dục; - 20 - Tải về bản full
|