So sánh trao duyên với kim vân kiều truyện năm 2024

So sánh nội dung đoạn trích của văn bản Trao duyên trong SGK Ngữ văn 11, tập hai [tr. 15], từ câu 735 đến câu 748 với đoạn trích sau trong Kim Văn Kiểu truyện và thực hiện các yêu cầu:

Thuý Kiều nói:

– Chàng Kim vừa đi Liêu Dương, việc cứu cha, cứu em, chị lại không thể chần chừ giây lát. Công việc khó liệu, nên không thể không nhờ đến em! Chị với chàng Kim có một tờ minh ước, một đôi vòng bạc, xin đưa cả cho em, mong em khéo giữ gìn, để làm mối ăn ở lâu dài về sau. Chị sợ người tài tình như chàng Kim, khó lòng mà gặp, chị cùng chàng thề thốt biết bao nhiêu, tất cả phải nhờ em giữ cho trọn vẹn. Sau này chồng quý vợ vinh, đừng có quên chị! Có lẽ bà mối sắp đến, e không kịp nói nữa, vậy chị viết mấy chữ gửi em trao lại chàng Kim.

[Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện, Nguyễn Đức Vân – Nguyễn Khắc Hạnh dịch, Nguyễn Đăng Na giới thiệu và hiệu đính, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008, tr. 51]

Câu 2 trang 5 SBT Ngữ Văn 11 Tập 2: Chỉ ra các chi tiết có trong đoạn trích của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du lược bỏ ở đoạn trích tương ứng trong văn bản Trao duyên.

Trả lời

Các chi tiết trong đoạn trích của Kim Vân Kiều truyện đã được Nguyễn Du lược bỏ ở đoạn trích tương ứng trong văn bản Trao duyên:

Mối liên hệ giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân phản ánh qui luật phát triển chung của các nền văn học trung đại trên thế giới. Điều đặc biệt là, từ nguồn chất liệu vay mượn của một tác phẩm “không lấy gì làm xuất sắc”[B.L], thiên tài Nguyễn Du đã tạo nen một kiệt tác. Ở đây, chúng tôi muốn bàn thêm về vấn đề này qua Trao duyên - một trong những trích đoạn tiêu biểu nhất cho thành tựu tư tưởng và nghệ thuật của Truyện Kiều. Trong Truyện Kiều, sự kiện Thuý Kiều trao duyên cho Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả trong một tình huống mới, khác hẳn so với Kim Vân Kiều truyện. Thanh Tâm Tài Nhân để cho việc trao duyên diễn ra ngay sau quyết định bán mình, đan xen cùng nhiều sự kiện khác và kéo dài trong suốt ba hồi [trên tổng số 20 hồi]. Khi đó, Vương ông và Vương Quan vẫn bị bọn công sai đưa đi; Vương bà phải theo chúng để biết lối mang cơm nước. Còn lại hai chị em, Thuý Kiều lập tức bày tỏ nỗi lòng với Thuý Vân; mời em ngồi lên lạy tạ “nhờ em đền bồi thay chị” và gắng vượt qua nỗi đau khổ để viết thư từ biệt Kim Trọng. Bởi vì nàng liệu trước được cảnh ngộ của mình: “Mẹ trở về, mụ mối tất cũng đến. Việc này liên quan đến chuyện trộm cướp, chắc rằng trong vùng không ai dám lấy chị, nhất định phải là người xa. Họ cưới rồi tất giục đi ngay. Lúc bấy giờ ruột gan rối bời, dù muốn viết để lại nửa chữ cũng không thể viết”[tr 52]. Dẫu nhiều lúc khóc gọi Kim Trọng; mấy lần đau đớn đến ngất đi nhưng khi tỉnh lại Thuý Kiều vẫn bình tĩnh, chủ động, can trường như một đấng nam nhi. Mụ mối đưa Mã Giám Sinh tới, nàng tự đứng ra mặc cả bán mình, thu xếp các thủ tục mua bán, tự viết hôn thư. Nàng nhận bạc còn đem cân lại, thấy thiếu năm lạng, bắt họ Mã phải “bù thêm cho đủ số”... Quan sát những hành động đó, người đọc tất nhiên thán phục trước “cái tài nhìn đời sáng suốt, làm việc quyết đoán” song không khỏi cảm thấy sự khiên cưỡng của tác giả trong cách miêu tả hành động, tâm lí nhân vật. Nó không thực sự phù hợp với một cô gái trẻ sinh ra, lớn lên trong khung cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che” lần đầu tiên phải đối mặt với những biến cố dữ dội, kinh hoàng. Hơn nữa, ngay trong lúc mọi việc còn ngổn ngang, rối bời, còn phải lo lắng cho số phận của cha và em như thế, thật khó có thể nghĩ và tính toán chu toàn cho mình, cho người yêu... Khác với Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du không chủ tâm tạo dựng hình tượng Thuý Kiều như một “tay hào kiệt trong bạn quần thoa”[tr 45]. Người thiếu nữ được nuôi dưỡng trong cảnh phong lưu ấy khi phải đối mặt với tai họa cũng rất cứng cỏi, giàu nghị lực. Nhưng lời lẽ, cách ứng xử... vẫn toát lên vẻ dịu hiền, đằm thắm; có cả nét thơ ngây, trong sáng của một cô gái mười lăm, mười sáu tuổi. Kể từ giây phút quyết tình “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thuý Kiều không một lần nghĩ đến Kim Trọng, như thể chỉ cần một kỉ niệm tình yêu thức dậy là sẽ lấy đi của nàng tất cả sức lực và lòng can đảm. Phải đến khi “Việc nhà đã tạm thong dong”, cha và em đã thoát khỏi gông cùm và sáng hôm sau Mã Giám Sinh sẽ đến lấy người - nàng mới dám sống với nỗi đau khổ của mình. Nguyễn Du đã dành riêng cho nỗi đau này một đêm khuya thanh vắng “Một mình nàng ngọn đèn khuya/ Áo đầm giọt lệ tóc se mái sầu”. Đối diện với lòng mình, Thuý Kiều chấp nhận số phận éo le, bất hạnh nhưng không nguôi được nỗi day dứt, đau đớn vì phải phụ lời thề ước sâu nặng, thiêng liêng; phải để lại cho người yêu nỗi đau dang dở: Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa; Vì ta khăng khít cho người dở dang; Nghĩ đâu rẽ cửa, chia nhà tự tôi... Không thể tròn vẹn chữ tình, nàng chỉ còn biết đắm chìm trong đau khổ: “Nỗi riêng riêng

những bàn hoàn/ Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”. Đúng lúc ấy, Thuý Vân cất lên lời hỏi han, chia sẻ ân cần và chuyện trao duyên đến bất ngờ, thuận theo diễn biến tự nhiên của tâm trạng nhân vật chứ không phải là chủ ý được tính trước. Như vậy, sáng tạo của Nguyễn Du không đơn giản chỉ là lược bỏ nhiều chi tiết, sắp xếp, tổ chức lại các sự kiện, xây dựng tình huống mới... mà chủ yếu là biến đổi tính cách nhân vật và sử dụng những phương thức biểu đạt của riêng mình. Ngòi bút của cụ Nguyễn Tiên Điền đã “khai sinh” một Thuý Kiều mới với “chất Việt Nam thuần tuý và nồng hậu”[M]. Cô Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân thiên về lí trí và luôn có ý thức nêu cao tấm gương liệt nữ nên hay thuyết giáo về chuyện đạo lí. [Cô thuyết phục cha: “Con nay gặp cảnh nước vỗ đầu ghềnh này, cần đứng chân cho vững để làm một việc bất hủ, lưu lại cho đời sau truyền tụng, tuy là không may mà thực là rất may.... làm cho con được cái danh thơm hiếu nữ, há chẳng phải việc rất hay rất đẹp đó ư?”[tr67]]. Lúc trao duyên cho Thuý Vân cũng vậy, Thuý Kiều khẳng định mình đã dũng cảm nhận lấy sự hi sinh lớn nhất: “Em là người lương thần hiếu thờ cha mẹ, chị là người trung thần sát thân thành nhâni”[tr50]... Vì thế, lời nàng dặn dò em có chút trịch thượng của người ban ơn: “Chị sợ người tài tình như chàng Kim, khó lòng mà gặp, chị cùng chàng thề thốt bao nhiêu, tất cả phải nhờ em giữ cho trọn vẹn. Sau này chồng quí vợ vinh, đừng có quên chị!”[tt 51]. Cách nói đó chỉ phù hợp với một Thuý Vân từng có ý định cùng chị chung mối duyên tình. [Ngay sau cuộc gặp gỡ bên mộ Đạm Tiên, cô Vân của Thanh Tâm Tài Nhân đã “xui giục” chị: “Chị đã coi chàng vừa ý, sao không gá nghĩa cùng chàng rồi dắt díu em đây cũng được phong quang đôi chút”[tr 18]. Có thể chính cô Vân ấy mới khiến người đời sau hạ bút viết những câu thơ này chăng: “Chắp duyên nếu là người hôm nọ/ Chẳng lạy thì em cũng nhận lời!”?]. Trong khi đó, nàng Kiều của Nguyễn Du lại nặng về tình cảm, nghĩ nhiều đến bổn phận tự nhiên với những người ruột thịt: “Thà rằng liều một thân con/ Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”. Nàng không coi việc bán mình là hành động phi thường của liệt nữ, hiếu nữ mà là lẽ thường của người làm con, làm chị. [Tinh thần vị tha cao cả mà giản dị, thầm lặng đó toát lên từ nhiều hình tượng nhân vật nữ của văn học Việt Nam – từ cổ tích, ca dao, truyện Nôm... đến các tác phẩm hiện đại.] Cho nên, lời Thuý Kiều nhờ cậy, dặn dò lúc trao duyên chứa đựng không chỉ tình nghĩa với Kim Trọng mà cả tấm lòng yêu thương, trân trọng và biết ơn dành cho Thuý Vân “Ngày xuân em hãy còn dài/ Xót tình máu mủ thay lời nước non”. Nàng nghĩ em còn trẻ, còn nhiều cơ hội để có được tình yêu, hạnh phúc của riêng mình. Hơn nữa với Thuý Vân lúc đó, chàng Kim dẫu có hào hoa phong nhã nhưng mới chỉ là một “người dưng”! Nàng thấu hiểu rằng, em gái cũng phải thiệt thòi, cũng có công ơn to lớn khi “chịu lời” ủy thác này. Để Thuý Kiều nói những lời như thế trong cảnh trao duyên, Nguyễn Du còn “phục bút” cho bi kịch Thúy Vân và cảnh đoàn viên nhiều ngậm ngùi của mười lăm năm sau... Đoạn trích Trao duyên cũng là bằng chứng tiêu biểu cho giá trị riêng của phương thức tái hiện đời sống mà Nguyễn Du lựa chọn. Nếu Thanh Tâm Tài Nhân tận dụng được thế mạnh của tự sự và ngôn ngữ văn xuôi thì Nguyễn Du lại đặc biệt thành công trong nghệ thuật trữ tình. Tác giả Kim Vân Kiều truyện đan cài sự kiện trao duyên giữa rất nhiều sự kiện khác, khéo léo cuốn người đọc vào cái hiện thực đời thường ngồn ngộn chất sống, làm nổi bật lên một Thuý Kiều với bản lĩnh khác xa người thường. Song ở đây, tính cách Thuý Kiều chủ yếu vẫn được bộc lộ qua lời nói, cử chỉ, hành động - kiểu nhân vật ngoại hiện quen thuộc của tiểu thuyết chương hồi. Nguyễn Du lại tách riêng cuộc trao duyên, tập trung miêu tả diễn biến nội tâm của Thuý Kiều, mang đến cho người đọc cái thế giới phong phú, phức tạp, bí ẩn không cùng của trái tim tình yêu. Ngôn ngữ nhân vật với các hình thức đối thoại, độc thoại... được tác giả sử dụng như một phương tiện đắc lực để khám phá, khắc hoạ “con người bên trong”. Lời Thuý Kiều nhờ cậy em vừa trang trọng [cậy, chịu lời, lạy, thưa] vừa gần gũi [chắp mối tơ thừa, mặc em] nói lên được cả

đó, Nguyễn Du đã tìm đến một thế mạnh khác – sức mạnh của ngôn ngữ thơ, sự giàu có của tiếng mẹ đẻ. Ông lược bỏ cái thô nhám của ngôn ngữ văn xuôi, dùng khả năng biểu đạt, tính biểu cảm cao độ của từ ngữ thay cho nhiều chi tiết. Chẳng hạn, Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân lúc bắt đầu trao duyên đã vừa khóc vừa nói [có Thuý Vân trước mặt]: “Chàng Kim! Chàng Kim! Trước đây thiếp cố giữ vẹn tấm thân, không chiều ý chàng là sợ trong đêm hợp cẩn, không lấy gì làm tin. Nếu sớm biết có biến ngày nay như thế này thì lúc ấy còn giữ làm chi”[tr 52]. Thật khó hình dung một thiếu nữ được nuôi dạy trong nền nếp nho gia lại dễ dàng nói thẳng một vấn đề như thế trước mặt người khác, dù đó là em ruột. Mặt khác, có thật hợp lí không khi để cho những suy nghĩ ấy xuất hiện ngay khi Kiều chưa bán mình xong, chưa phải gánh chịu cái cảnh “Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”? Nguyễn Du đã đưa câu nói kia khỏi cảnh trao duyên và chuyển thành ý nghĩ của Thuý Kiều trong tâm trạng nhục nhã, ê chề, phẫn uất sau khi thất thân với Mã Giám Sinh và diễn đạt bằng những từ ngữ hàm súc, tế nhị: “Biết thân đến bước lạc loài/ Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”... Hoặc chi tiết Thuý Kiều trao cho em kỉ vật được tác giả Kim Vân Kiều truyện miêu tả hai lần, lối tả vẫn nặng về kể việc. Lần đầu Thuý Kiều nói với Thuý Vân: Chị với chàng Kim có một tờ minh ước, một đôi vòng bạc, xin đưa cả cho em, mong em khéo giữ gìn, để làm mối ăn ở về sau”[tr 51]. Lần thứ hai, nàng viết trong thư gửi lại cho Kim Trọng: “Một cây hồ cầm, một tập oán khúc và một gói hương trầm để lại. Sau này có lúc chàng cùng em thiếp, vợ chồng đốt hương ngâm vịnh, ca khúc dạo đàn, nếu thấy gió lạnh hiu hiu, khói hương quanh quất thì ấy là hồn thiếp ở đấy.”[tr83]. Nguyễn Du gộp cả thành lời Thuý Kiều nhắn nhủ em và sáng tạo kiểu ngôn ngữ đối thoại có khả năng biểu hiện diễn biến tâm trạng: “Chiếc thoa với bức tờ mây/ Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Hai tiếng của chung hàm ẩn bao nhiêu xót xa, tiếc nuối. Duyên trao cho em rồi mà như vẫn muốn “xí phần” cho mình. Từ ngữ và cấu trúc đối của câu thơ [duyên – thì giữ, vật – của chung] gợi liên tưởng đến bàn tay ngập ngừng, lưu luyến, không nỡ xa rời những kỉ vật tình yêu. Tâm trạng ấy càng đậm nét hơn khi Thuý Kiều trao nốt cho Vân kỉ vật của đêm thề nguyền: “Mai sau dù có bao giờ/ Đốt lò hương ấy, so tơ phím này”. Câu thơ sáu tiếng được ngắt thành ba nhịp ngắn và không trọn nghĩa khiến ta có cảm giác như nghe thấy tiếng nghẹn ngào, nức nở của một người muốn nói mà không thốt nổi thành lời. Những từ ngữ bình thường, thậm chí tầm thường như ấy, này bỗng hoá thành phi thường trong câu thơ của Nguyễn Du. Không có chúng, phím đàn, mảnh hương chỉ là đồ vật, có thể thay thế, có thể mua được. Có chúng, đồ vật biến thành kỉ vật thiêng liêng, duy nhất, vô giá... Những từ Hán Việt, những ước lệ, ẩn dụ cổ điển [tương tư, keo loan, quạt ước, chén thề, bồ liễu, trúc mai, dạ đài, trâm gãy bình tan...] song hành một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn cùng lời ăn tiếng nói bình dị, dân dã [giữa đường đứt gánh, chắp mối tơ thừa, mặc em, xót tình máu mủ, vật này của chung, có ngần ấy thôi, bạc như vôi...]... Vì thế, chẳng cần nhiều chi tiết, nhiều lời, tác giả Truyện Kiều vẫn tái hiện được những biến động tinh tế, vô hình của nội tâm; mức độ sâu sắc, mãnh liệt của tình yêu và nỗi đau... Tìm hiểu sơ qua một đoạn trích Trao duyên, đã có thể hiểu vì sao Truyện Kiều của Nguyễn Du có sức rung động mãnh liệt đối với mọi tầng lớp, mọi thế hệ người Việt trong gần ba thế kỉ qua. Và nói theo cách của Hoài Thanh, thì một tác phẩm có khả năng đi sâu vào tâm hồn của một nòi giống cũng sẽ có sức mạnh thấm sâu vào tâm hồn nhân loại.

Nhân vật Thúy Vân: sự công bằng của tạo hóa hay bi kịch của cuộc đời?

Ta nhận ra ở Thúy Vân có một trái tim nhân hậu biết nhường nào, nàng thật tinh tế và cao thượng khi trả lại chàng Kim _ trả lại người chồng đã 15 năm chung sống cho chị mình.

  1. Đặt vấn đề

Từ trước tới nay, mỗi khi nhắc đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, có lẽ sự liên tưởng đầu tiên của mỗi độc giả đều hướng đến nhân vật Thúy Kiều. Phải chăng, vì thế mà, chúng ta đã vô tình hay hữu ý lãng quên đi Thúy Vân _ một nhân vật “hờ” của tác phẩm. Bởi trong tiềm thức mỗi người, Thúy Vân chỉ là cái bóng của đời Kiều, là nhân vật được Nguyễn Du xây dựng với dụng ý làm đòn bẩy, làm phông nền cho sự tỏa sáng vẻ đẹp toàn diện của người chị Thúy Kiều. Nhiều nhà nghiên cứu cũng chỉ nhắc đến Thúy Vân trong hệ thống các nhân vật của Truyện Kiều một cách khái quát với một vài lời nhận xét ngắn gọn, giản đơn. Ví như, theo Lê Đình Kỵ: “Thúy Vân luôn bị đặt vào những hoàn cảnh khó xử nhưng không bao giờ làm trái lời chị”. Ngoài ra, còn có một số ý kiến nhìn nhận về nhân vật Thúy Vân với một thái độ thiếu thiện cảm, xem Thúy Vân là người vô tư, vô tâm, vô tính, có tầm hiểu biết thường thường.

Tuy nhiên, hãy một lần đến với Truyện Kiều bằng cách lãng quên đi cái tư tưởng : “bên cạnh nàng Kiều sắc sảo, mặn mà Thúy Vân chỉ hiện lên mờ mờ nhân ảnh, không đáng được lưu tâm” ta sẽ hiểu hơn về nàng. Tuy cuộc đời nàng không truân chuyên, 15 năm lưu lạc như Thúy Kiều mà được hưởng một cuộc sống êm đềm. Nhưng thử hỏi rằng: liệu đó có phải là sự công bằng, ưu ái của tạo hóa hay chính là bi kịch của cuộc đời nàng?

Sẽ chẳng có gì để nói khi cho rằng đó là sự công bằng, ưu ái của tạo hóa bởi sắc đẹp của Thúy Vân chỉ khiến cho mây thua, tuyết nhường chứ không làm cho thiên nhiên phải ghen, phải hờn như với vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”

Nhưng có lẽ, đó chỉ là một sự đánh giá khách quan khi mà trong tiềm thức người đọc Thúy Vân chỉ là một nhân vật “vô tâm hiền hậu” [Xuân Diệu], là người luôn gặp may mắn. Hãy một lần đặt mình vào hoàn cảnh của Thúy Vân, sống cuộc sống của nàng ta sẽ hiểu số phận của nàng không như ta vẫn nghĩ, rằng: cuộc đời nàng có lẽ bi kịch nhiều hơn là hạnh phúc.

II. Giải quyết vấn đề

Vậy bi kịch của cuộc đời Thúy Vân là gì? Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na thì bi kịch chỉ xảy ra đối với những ai hội tụ đủ ba điều kiện sau:

Một là, có trí tuệ. Không trí tuệ thì không thể ý thức được về mình; đã không ý thức được về mình thì không ý thức được vị trí xã hội mà lẽ ra mình phải được hưởng, do đó bi kịch không thể xảy ra cho dù bị xã hội, bị người đời chà đạp.

sáng và sâu nặng. Còn với Thúy Vân, có lẽ nó vẫn chỉ là sự cảm mến! Vậy thử hỏi rằng, chỉ với một sự cảm mến mà có lẽ ai cũng sẽ có khi lần đầu gặp Kim Trọng như vậy thì liệu có thể nhanh chóng làm nên một tình yêu đích thực? Quả thực là khó. Mặt khác, tuy trao duyên cho em nhưng Thúy Kiều vẫn không thể dứt tình với Kim Trọng: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Tình yêu giữa Thúy Kiều Và Kim Trọng quá sâu nặng vậy thì làm sao Thúy Vân có thể chạm tay tới. Hơn nữa, trái tim của Kim Trọng đâu có chỗ cho nàng Vân bởi nó đã là nơi ngự trị vĩnh viễn của Thúy Kiều. Có người cho rằng, xã hội mà Thúy Vân và Thúy Kiều đang sống là xã hội phong kiến với quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Vậy nên, Thúy Vân và Kim Trọng vẫn có thể nên duyên vợ chồng khi chưa có tình yêu và tình yêu có thể sẽ nảy sinh trong thời gian họ chung sống bên nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng, một trong những nội dung cơ bản trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là tiếng nói nhân đạo, là biểu hiện của những khát vọng giải phóng, vươn lên, vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến Á Đông để khẳng định những giá trị phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, đồng thời thể hiện khát vọng tự do tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực chứ không phải là do sự sắp đặt, định trước. Bởi vậy mà mới có những hành động: “ Săm săm băng lối vườn khuya một mình”. Vậy nên, với vẻ đẹp của mình, Thúy Vân hoàn toàn có quyền tìm kiếm một tình yêu, hạnh phúc đích thực.

Tuy nhiên, Thúy Vân lại đồng ý thay Kiều trả nghĩa Kim Trọng. Có ý kiến cho rằng, Thúy Vân hời hợt, vô cảm khi dễ dàng chấp nhận lời trao duyên của Kiều. Nhưng, thử hỏi rằng, Thúy Vân có thể từ chối sao? Trong khi nàng đã hiểu được tấm lòng, sự hi sinh cao cả của Thúy Kiều khi quyết định vì chữ “hiếu” mà bỏ chữ “tình”? Sự đồng ý ở đây thể hiện một lòng cảm thông sâu sắc của Thúy Vân đối với chị, nàng chấp nhận một sự hi sinh _ hi sinh tuổi xuân và hạnh phúc của mình. Ai có thể nói rằng: đây là sự công bằng, ưu ái của tạo hóa đối với Thúy Vân trong khi đã “tước đoạt” đi quyền hưởng thụ tuổi xuân và tự do tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực của nàng nếu không muốn nói là Thúy Vân buộc phải chấp nhận sự hi sinh ấy.

Hơn nữa, quãng thời gian mà Thúy Vân chung sống với Kim Trọng _ một người chồng mà chưa bao giờ tỏ ra là chung thủy, 15 năm chàng Kim luôn tưởng nhớ đến người xưa và cũng là 15 năm mà nàng Vân phải sống trong sự thờ ơ, hững hờ:

“Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai”

Rõ ràng, đây không phải là quãng thời gian hạnh phúc mà nhiều người vẫn cho rằng Thúy Vân được hưởng. Nếu như 15 năm lưu lạc của Kiều là 15 năm đầy sóng gió, vất vả, truân chuyên xen lẫn khổ đau và nước mắt thì 15 năm sống với Kim Trọng của Thúy Vân chẳng khác gì “ một cực hình dành cho tâm hồn” một người con gái vẫn còn đang tràn đầy sức sống và lòng yêu đời. Một người con gái đẹp như Thúy Vân đáng phải được hưởng hạnh phúc, tình yêu đích thực chứ không phải là một thứ tình yêu “thừa”, tình yêu “chắp nối”:

Gặp cơn bình địa ba đào Nên đem duyên chị buộc vào duyên em.”

Bi kịch thứ hai trong cuộc đời Thúy Vân là bi kịch của một con người có trái tim nhân hậu. Bởi sau 15 năm lưu lạc, Thúy Kiều được đoàn tụ với gia đình, đây thực sự là niềm vui khôn tả đối với tất cả mọi người. Nhưng còn Thúy Vân? Nàng vui, nhưng có lẽ niềm vui chưa kịp cất cánh

bay lên thì đã bị nỗi buồn, nỗi đau xót ghì chặt xuống và giày xé tâm can. Bởi Thúy Kiều trở về cũng có nghĩa là người mà Kim Trọng luôn tưởng nhớ suốt 15 năm qua đã trở về. Những tưởng rằng, Thúy Vân sẽ lại im lặng như trong đêm Kiều trao duyên. Nhưng không, nàng đã chủ động đứng lên đặt vấn đề “Thúy Kiều nên thành hôn với Kim Trọng”. Bởi nàng hiểu rằng, suốt 15 năm qua, tuy sống với nhau như vợ chồng nhưng cả lí trí và trái tim của Kim Trọng đều dành hết cho Thúy Kiều:

“Những là rày ước mai ao Mười lăm năm ấy, biết bao là tình!”

Và như một người cầm cán cân công lý, để trả lại sự công bằng cho Thúy Kiều trước những gì mà nàng đã phải trải qua trong suốt 15 năm lưu lạc. Thúy Vân đã dũng cảm nói lên suy nghĩ của mình _ suy nghĩ thật thấu đáo nhưng cũng thật xót xa cho số phận mình:

“Bây giờ gương vỡ lại lành Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi. Còn duyên, may lại còn người, Còn vầng trăng bạc, còn lời nguyền xưa. Quả mai ba bảy đương vừa Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì!”

Ta nhận ra ở Thúy Vân có một trái tim nhân hậu biết nhường nào, nàng thật tinh tế và cao thượng khi trả lại chàng Kim _ trả lại người chồng đã 15 năm chung sống cho chị mình. Nhưng nàng cũng thật đau đớn biết bao khi phải xác nhận một sự thật, sự thật về duyên phận của mình _ cái duyên “chắp nối” sẽ chẳng bao giờ tồn tại mãi mãi.

Nỗi đau, bi kịch của cuộc đời Thúy Vân càng nhân lên gấp bội khi mà cái hạnh phúc dù là mong manh, dù là hờ hững nhưng là duy nhất của nàng, cái hạnh phúc mà nàng đã phải hi sinh cả tuổi xuân và quyền tự do mưu cầu tình yêu đích thực của mình để có được bây giờ lại phải chính tay mình trao lại cho người khác. Với Thúy Vân, có lẽ giờ đây với nàng hạnh phúc gia đình là tất cả. Bởi thử hỏi rằng, cuộc đời nàng còn gì ngoài hai chữ “gia đình” khi mà tuổi trẻ, cái tuổi khao khát yêu đương và tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc đích thực đã đi qua. Thế nhưng, cái hạnh phúc gia đình đó những tưởng sẽ là của riêng nàng bây giờ lại phải chia sẻ cùng với chị.

Đau xót hơn nữa cho nàng Vân khi phải ngày ngày chứng kiến chồng mình gần gũi, yêu thương người khác. Vẫn biết rằng, xã hội phong kiến công nhận sự tồn tại của quan niệm “trai năm thê bảy thiếp”. Nhưng thử hỏi, liệu có người phụ nữ nào, trong bất kì xã hội nào mà không biết buồn, biết đau, biết ghen khi chồng mình yêu thương một người phụ nữ khác? Ai đó có thể nói rằng, giữa Thúy Vân và Kim Trọng không có tình cảm với nhau, họ chỉ là vợ chồng trên danh nghĩa như vậy Thúy Vân sẽ không biết buồn, biết đau. Cứ cho là, 15 năm trước Thúy Vân đến với Kim Trọng không phải do tình yêu nhưng “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén”, 15 năm là vợ chồng chung sống với nhau chẳng lẽ giữa họ lại không nảy sinh chút tình cảm nào? Có thể, tình cảm đó không phải là tình yêu nhưng 15 năm để xây dựng nên tình nghĩa vợ chồng là điều hoàn toàn có thể.

III. Kết luận

Đề bài: Phân tích trích đoạn “Chí khí anh hùng” của Nguyễn Du

Bài làm

Bài phân tích số 1:

“Nguyễn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn”

Câu nhận định của Chế Lan Viên như một lời khẳng định giá trị của kiệt tác “Truyện Kiều” và ngòi bút tài hoa của đại thi hào Nguyễn Du. Trong phần hai “gia biến và lưu lạc” thuộc tác phẩm “Truyện Kiều”, độc giả không chỉ cảm nhận được nét tinh tế trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, nỗi lòng thương xót của Nguyễn Du trước số phận khổ đau của nhân vật mà còn thấy chân dung của một bậc anh hùng khí phách, tài hoa – Từ Hải. Khác với Kim Trọng – mối tình đầu của Thuý Kiều, Từ Hải mang nét anh hùng, ngạo nghễ, khí phách. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” đã thể hiện rõ nét vẻ đẹp người anh hùng Từ Hải và khát vọng tự do, công lý, chí khí, lý tưởng của chàng.

Một lần nữa số phận Kiều lại rơi vào vòng xoáy khổ đau khi lần thứ hai bị lừa vào lầu xanh. Cuộc đời bị đẩy vào ngõ tối, tưởng chừng như chẳng cách nào giải thoát thì Từ Hải xuất hiện như một ngọn đèn soi sáng số phận Kiều. Từ Hải cứu Thuý Kiều thoát khỏi chốn lầu xanh, hai người sống hạnh phúc “ Trai anh hùng gái thuyền quyên – Phỉ quyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng ”. Nhưng gia đình hạnh phúc êm ấm lại chẳng níu chân được người anh hùng, Từ Hải muốn có sự nghiệp lớn nên sau nửa năm đã từ biệt Thuý Kiều ra đi vì chí lớn. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” từ câu 2213 đến câu 2230 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” bao gồm ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ đối thoại cho thấy chí khi của Từ Hải.

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.

Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong.”

Mở đầu đoạn trích là niềm khát khao lý tưởng của người anh hùng. Câu thơ đầu khắc hoạ lên thời gian “nửa năm” êm đềm có lẽ là hiếm hoi trong cuộc đời Thuý Kiều chính là thời gian nàng và Từ Hải chung sống hạnh phúc. Hình ảnh ẩn dụ “Hương lửa đương nồng” thể hiện tình cảm vợ chồng đang lúc đằm thắm, mặn nồng. Dường như không chỉ cuộc sống của Kiều êm đềm mà chính cuộc sống của Từ Hải cũng hiện lên đầy viên mãn, vẹn trọn trong mái ấm gia đình. Từ Hải chọn ra đi trong hoàn cảnh ấy như một sự thử thách chí lớn. Nguyễn Du đã chọn từ Hán – Việt “Trượng phu” để gọi Từ Hải, không chỉ thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả khi dùng từ ngữ mang sắc thái trang trọng mà còn thể hiện Từ Hải là người nam nhi trượng phu có hoài bão. Từ “thoắt” bộc lộ suy nghĩ dứt khoát, quyết định nhanh chóng giống như tính cách người anh hùng. Kết hợp với từ “thoắt” là động từ “động lòng” ý chỉ sự thôi thúc, giục giã bừng lên chí anh hùng, chí “bốn phương”. Nhân vật Từ Hải với chí lớn được đặt trong không gian “bốn phương”, “trời bể mênh mông”, rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ. Không gian rộng mở, kì vĩ vô cùng nhưng không hề lấn át đi hình ảnh người anh hùng mà còn như nâng hình ảnh Từ Hải lên sánh ngang với trời bể, thể hiện khát khao vùng vẫy, tung hoành khắp nơi như sức mạnh tự nhiên không gì có thể ngăn cản. Điểm nhìn “trông vời” của Từ Hải là nhìn xa nhưng chứa đựng những khát khao hoài bão lớn. Hình ảnh “thanh gươm yên ngựa” đã vẽ nên hình ảnh người anh hùng ngạo nghễ,

tự tin, phong trần. Không chỉ vậy hình ảnh “lên đường thẳng rong” thể hiện phong thái quả quyết, đầy khí phách của người anh hùng. Câu thơ cuối đã khắc hoạ một tư thế đẹp, hiên ngang cùng thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm dựng lên nghiệp lớn của người quân tử. Đây là tư thế của người anh hùng mang hùng tâm tráng trí. Qua bốn câu thơ đầu độc giả hình dung được vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải ở niềm khao khát lý tưởng lên đường thực hiện chí lớn. Khát vọng ấy dù được đặt trong hoàn cảnh thử thách nhưng Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, vì tình yêu mà quên đi lý tưởng cao cả. Không gian vũ trụ rộng lớn đã tô điểm cho tầm vóc người anh hùng với ý chí cao đẹp.

Vẻ đẹp chí khí, lý tưởng của người anh hùng càng được khắc hoạ rõ nét và nổi bật qua lời đối thoại giữa Thuý Kiều và Từ Hải trong mười hai câu thơ tiếp theo.

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.

Từ rằng: “Tâm phúc tương tri

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh,

Tiếng chiêng dậy đát bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.

Bằng nay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận biết là đi đâu?

Đành lòng chờ đó ít lâu,

Chầy chăng là một năm sau vội gì!”

Lời Thuý Kiều được thể hiện qua duy nhất một cặp câu lục bát nhưng đã bộc lộ sâu sắc tình cảm và sự khéo léo của nàng. Về lý nàng nói về bổn phận của người vợ trong đạo Nhọ quy định “tam tòng”, phận gái phải theo chồng. Về tình nàng “một lòng xin đi”, nàng lấy tình cảm thuỷ chung, son sắc, một lòng một dạ để theo chồng. Lời nói của Kiều vừa có lý vừa có tình qua đó ánh lên vẻ đẹp người phụ nữ truyền thống, vẻ đẹp nhân cách của người vợ sẵn sàng sẻ chia với chồng và sự tế nhị khéo léo trong giao tiếp của nàng. Trước lời nói thuận tình thuận lý của vợ nhưng Từ Hải vẫn từ chối. Chàng coi Thuý Kiều không chỉ là vợ mà còn là “tâm phúc tương tri” ý chỉ tri kỉ, người thấu hiểu nhau sâu sắc. Câu hỏi tu từ “sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” như một lời trách cứ nhẹ nhàng rằng đã coi nhau là tri kỉ, thấu hiểu lòng dạ nhau sau còn giữ nếp nghĩ của nữ nhi bình thường. Lời trách cứ nhưng lại như lời khuyên nhủ Thuý Kiều vượt lên tình cảm thông thường để sánh với tư tưởng người anh hùng. Sau lời từ chối là lời hứa hẹn được tô đậm bởi biện pháp phóng đại. Hình ảnh “muời vạn tinh binh”, “bóng tinh” cùng âm thanh “tiếng chiêng” được phóng đại đã khắc hoạ khát vọng to lớn của Từ Hải về chiến thắng lừng lẫy, vang dội, một sự nghiệp ghi danh kì vĩ ở vùng trời tự do. Hình ảnh “mặt phi thường” hoán dụ chân dung Từ Hải – con người tài năng, xuất chúng với nội lực bên trong thôi thúc người anh hùng thực hiện giấc mộng công danh. Mục đích đằng sau khát vọng về chiến thắng lừng lẫy không chỉ

Nghe như non nước vọng lời ngàn thu”

Người đó không ai khác chính là Nguyễn Du cùng với kiệt tác Truyện Kiều. Mỗi một đoạn, mỗi câu thơ trong Truyện Kiều đều là “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” mà thi gia dầy công chắp bút. Ở đó, ẩn sau số phận cuộc đời mỗi nhân vật đã được nhà đại thi hào của dân tộc chúng ta gửi gắm biết bao giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Và trong số những trích đoạn của “Truyện Kiều”, đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là một trong những minh chứng tiêu biểu nhất với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí , khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng...

Đoạn trích “Chí khí anh hùng” nằm ở phần hai: Gia biến và lưu lạc, từ câu 2213 đến câu 2230. Lúc ấy, khi mà Thúy Kiều đang tuyệt vọng, chìm đắm trong cuộc sống đau khổ, ê chề nơi lầu xanh thì Từ Hải đã xuất hiện và cứu nàng ra khỏi chốn tửu sắc đầy thị phi ấy. Nhờ có Từ Hải, Thúy Kiều được báo ân báo oán, được hưởng hạnh phúc vợ chồng như những người phụ nữ bình thường khác. Nhưng tình yêu giữa Thúy Kiều và Từ Hải vẫn không thể nào che khuất đi ước mơ gây dựng một sự nghiệp lớn lao ở con người này. Đó chính là lí do mà khi mối tình của họ vừa chớm nở được "nửa năm" thì Từ Hải đã tiếp tục lên đường với khát khao cháy bỏng gây dựng sự nghiệp của mình. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” chính là miêu tả cảnh Từ Hải từ biệt Thúy Kiều để ra đi.

Khác với Thanh Tâm Tài Nhân trong “Kim Vân Kiều truyện” chỉ thuật lại trong đôi ba dòng ngắn ngủi “Từ Hải sắm một căn nhà ở với Kiều được năm tháng rồi từ biệt ra đi” thì Nguyễn Du với ngòi bút xuất chúng của mình đã dựng nên một cảnh li biệt giữa đôi trai gái để hoàn thiện giấc mộng anh hùng “đầu đội trời, chân đạp đất” lớn nhất của cuộc đời mình. Bốn câu thơ đầu khắc họa thật đậm, thật rõ nét hình ảnh của Từ Hải trước lúc lên đường:

“Nửa năm hương lửa đương nồng,

Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trông vời trời bể mênh mang,

Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”

Nửa năm chính là khoảng thời gian Kiều và Từ Hải chung sống hạnh phúc bên nhau. Nguyễn Du đã làm khó bậc anh hùng ấy khi đặt chàng trong hai khoảng không gian đối lập: Một bên là không gian khuê phòng “hương lửa đương nồng” với cuộc sống vợ chồng đằm thắm mặn nồng, có thể níu kéo bất kì một người đàn ông nào. Trái lại, một bên là không gian vũ trụ bao la có sức vẫy gọi mãnh liệt. Từ Hải được đặt trong hoàn cảnh thử thách chí lớn, khi chàng phải lên đường giữa lúc hạnh phúc gia đình trọn vẹn, viên mãn. Đường đường là đấng “trượng phu” – một người đàn ông có hoài bão chí lớn, chàng không một chút níu kéo giằng xé hay do dự mà khẳng khái đưa ra quyết định của chính mình. Những từ ngữ, hình ảnh: “thoắt”, “động lòng bốn phương” đã thể hiện một quyết định nhanh chóng, dứt khoát, bừng lên cái chí anh hùng giữa trời bể mênh mông của Từ Hải. Cái ánh mắt trông vào “trời bể mênh mang” là ánh nhìn hướng đến một khoảng không gian xa hơn rộng hơn nơi mà bậc hào kiệt thỏa trí vẫy vùng với những đam mê, lí tưởng. Hình ảnh “Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” không chỉ tái hiện hình ảnh con người mạnh mẽ, hào hùng đặt trên nền kì vĩ của không gian mà còn vẽ lên tư thế tự tin, ngạo nghễ, hiên ngang với thái độ mạnh mẽ, dứt khoát quyết tâm làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng mang hùng tâm tráng chí. Bốn câu thơ đầu thể hiện một khát vọng thực hiện chí lớn của chàng anh hùng họ Từ. Khát vọng ấy không những được đặt trong một bối cảnh đặc biệt để thấy

một Từ Hải không quyến luyến, bịn rịn, không vì tình yêu mà quên đi lí tưởng cao cả; mà còn được đặt trong một không gian vũ trụ rộng lớn để tôn lên tầm vóc người anh hùng.

Lẽ thường, cuộc chia tay nào cũng đầy nước mắt, cũng đọng những dùng dằng chẳng nỡ của kẻ ở với người đi. Với Từ và Kiều cũng không phải là ngoại lệ. Nàng không muốn một thân một mình, giường đơn gối chiếc trong căn nhà lạnh lẽo, nàng một mực muốn được sẻ chia, được gánh vác sự nghiệp với Từ Hải. Lời lẽ nghe sao mà tha thiết thế:

“Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng,

Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”

Nho giáo đã viết, phận nữ nhi: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Kiều một lòng xin đi theo âu cũng là hợp tình hợp lí với đạo Nho truyền thống. Hơn nữa, trong hoàn cảnh của Thúy Kiều lúc này, Từ Hải chính là điểm tựa tinh thần duy nhất. Từ đã dang tay cứu vớt cuộc đời Kiều, cho Thúy Kiều những ngày tháng hạnh phúc nên theo quy luật tâm lý thông thường, Kiều luôn muốn gắn mình với Từ Hải. Đó là tình yêu, là sự cảm thông, là đức hi sinh thủy chung son sắt với chồng của nàng Kiều. Ấy thế nhưng, trái với những mong mỏi của nàng, Từ ngay lập tức đáp lại:

“Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,

Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?”

Bằng một câu hỏi tu từ, Từ Hải như vừa trách vừa khuyên Kiều không cần phải sống theo đạo tam tòng cổ hủ của đời xưa, mong vợ mình vượt lên khỏi cái suy nghĩ đó để là người sánh vai với đấng anh hùng như chàng. Từ Hải đã từ chối khéo léo để Kiều hiểu ra vấn đề, từ đó thấy được sự thấu hiểu sâu sắc của chàng đối với vợ mình, khẳng định tình cảm giữa hai người là tri âm tri kỉ chứ không phải tình yêu đơn thuần. Hơn thế nữa, Từ Hải còn vẽ ra viễn cảnh tương lai qua trí tưởng tượng và sự tự tin ngạo nghễ của người anh hùng:

“Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chuông dậy đất bóng tinh rợp đường.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.”

Bút pháp ước lệ tượng trưng cùng những hình ảnh, âm thanh được phóng đại: “mười vạn tinh binh”, “tiếng chiêng dậy đất”, “bóng tinh” và biện pháp hoán dụ “mặt phi thường”,... tất cả đã khắc họa lên sự kì vĩ, hùng tráng, vang dội của những chiến công sánh vai với chân dung của người anh hùng tài năng xuất chúng. Có thể thấy, Từ Hải ở thực tại nhưng dường như đang sống ở những ngày chiến thắng. Mục đích của chàng là để khẳng định danh tiếng của bản thân giữa đời và hơn hết, Từ Hải muốn có sự nghiệp để đón rước Kiều về làm vợ với nghi lễ trang trọng nhất: “rước nàng nghi gia”. Đó là chí khí anh hùng gắn liền với tình yêu thương, coi trọng Kiều. Tuy nhiên, mặc dù cứng rắn như vậy nhưng chàng vẫn kín đáo thể hiện sự quan tâm, lo lắng của mình dành cho Thúy Kiều:

“Bằng nay bốn bể không nhà,

Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?

hơn 200 năm kể từ khi ra đời, kiệt tác ấy vẫn làm tốn bao bút mực ca ngợi của người đời. Nguyễn Du đã gửi gắm trong đó biết bao giá trị nhân đạo sâu sắc mà đoạn trích “Chí khí anh hùng” là một trong những trích đoạn gây được nhiều tiếng vang với sự phản ánh chân thực giấc mơ tự do công lí, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn của người anh hùng với chân dung nhân vật Từ Hải. Từ Hải là một giấc mơ của Nguyễn Du, giấc mơ anh hùng,giấc mơ tự do và công lý. Cho nên Từ Hải là một người chí khí,một người siêu phàm. Con người ấy đến từ một giấc mơ và ở lại như một huyền thoại. Hiện diện trong “Truyện Kiều” như một nhân cách sử thi, Từ Hải đã làm nên những trang sôi động nhất, hào sảng nhất trong cái thế giới buồn đau dằng dặc của “Đoạn trường tân thanh”. Đoạn trích “Chí khí anh hùng” là một đoạn trích tiêu biểu khắc họa rõ nét chí khí anh hùng của Từ Hải.

Sau khi đã giải quyết xong thủ tục bán mình [“Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao”], lấy tiền lo lót cho xong vụ kiện [“Họ Chung ra sức giúp vì, Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong”] Kiều đang chờ lên xe hoa theo Mã Giám Sinh. Đêm ấy Kiều bồi hồi thương cho Kim Trọng, tìm cách trả nghĩa nợ tình cho chàng. Đèn thắp sáng đêm, nước mắt đầm đìa. Nhân Thúy Vân thức dậy hỏi, Kiều bấy giờ mới cậy em thay lời và trao duyên cho em. Đây là đoạn thơ trữ tình dài nhất trong Truyện Kiều. Trước đây Tản Đà từng nhận xét : “Trong cả quyển Kiều , văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới hết tình sự”. Nếu nói Nguyễn Du là nghệ sĩ tài hoa bậc thầy về miêu tả tâm lý nhân vật thì đoạn này là đoạn thơ tiêu biểu nhất, thần tình nhất, khiến cho các nhà phân tích, bình giảng trước nay không hết lời thán phục và ca ngợi. Lê Trí Viễn kế thừa cách hiểu của các ông Nguyễn Tường Tam, Đào Duy Anh đã có những lời phân tích, bình phẩm thấu đáo nhất đối với hai câu sau đây. Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du viết :

Cậy em, em có chịu lời Tại sao lại dùng “cậy” mà không dùng “nhờ”, Nguyễn Tường Tam và Đào Duy Anh có lẽ là những người đầu tiên giải thích ngoài lý do thanh điệu [trắc], gây một điểm nhấn lắng đọng cho câu thơ, còn vì chữ “cậy” bao hàm cái ý hy vọng tha thiết của một lời dối dăng [trông cậy], có ý nương tựa, gửi gắm, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nếu dùng “nhờ” thì bấy nhiêu nghĩa sẽ nhạt hết. Còn nói “chịu” mà không nói “nhận” cũng như vậy : “chịu” lời là một sự chấp nhận bắt buộc, còn “nhận” thì tùy lòng, mà trong trường hợp này Kiều muốn em không được từ chối đề nghị của chị. Lời lẽ thắt buộc được lựa chọn thật là tinh xác, chặt chẽ.

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa Cái yêu cầu em ngồi lên trên để Kiều lạy trước, thưa sau cũng là một ý nài ép như vậy. Nhưng bây giờ lại dùng lễ nghi để bắt buộc. Lời “thưa” rất trang trọng, báo hiệu nội dung nghiêm trang, trịnh trọng sẽ nói ở sau. Vừa tình vừa lễ như vậy thì Vân từ chối sao đặng?

Lời thưa của Thúy Kiều rất rõ ràng, dứt khoát :

Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em! Người xưa xem tình yêu là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, cho nên nói “gánh tương tư”. Mà giữa đường đứt gánh thì dang dở vô cùng, không sao mang xách cho hết. Hình ảnh đã nói rõ tình trạng bất lực của Thúy Kiều. Mọi việc phó thác cho em gánh vác. Keo chim loan dùng nối dây đàn, dây cung bị đứt, ở đây dùng chỉ nối mối dây tơ duyên [Đoạn trên có câu : “Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong”]. Nhưng tơ duyên của Kiều đã đứt, đối với Thúy Vân, đó là mối tơ thừa. Thúy Kiều hiểu thấu cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em nên nói thẳng ra luôn. “Mặc em” có nghĩa là phó mặc cho em đó, dở hay em gánh vác cho chị. Câu nói này cũng mang giọng điệu người chị phó thác cho em nữa, cho nên có nhiều sức nặng. Bốn câu thơ đã nói hết tình trông cậy, ủy thác và nài ép, không cho em chối từ.

Nhờ cậy xong Kiều mới nói lý do :

Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về. Kiều đã mất hết hiện tại. Tương lai của nàng trông chờ vào lòng thương. Mai sau em đốt hương, chơi đàn [ so tơ ] – những hoạt động hạnh phúc, em hãy nhớ đến chị. Cái cách hình dung oan hồn bơ vơ của mình nơi mai hậu thật là thê thảm : Kiều sau này chỉ còn là ngọn gió vật vờ nơi lá cây ngọn cỏ! Còn gì có thể gây lòng thương cảm hơn là gợi lên những hình ảnh của hư vô? Kiều lúc ấy đã chết, nàng chỉ còn có oan hồn, nhưng xin nhớ cho : Hồn còn mang nặng lời thề, Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai. Kiều mang nặng lời thề, nhưng dù có tan tành cái thân xác phụ nữ mảnh mai như bồ liễu, nàng cũng quyết đền ơn đáp nghĩa [ đền nghì ] cho Kim Trọng. Trúc mai là biểu tượng của tình thân yêu thời niên thiếu, là biểu tượng của mối tình đầu, rất sâu nặng. Lúc bấy giờ chị và em đã là người của hai thế giới khác nhau : Dạ đài cách mặt khuất lời, Rảy xin giọt nước cho người thác oan. “Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Em sẽ không trông thấy chị nữa [ cách mặt ], chị nói em cũng không nghe thấy [ khuất lời ], em hãy rảy một giọt nước cho người thác oan là chị. Thông thường người ta rảy một chén nước mà ở đây Kiều chỉ xin một giọt, thì đáng thương biết bao. Kiều tuy tự nguyện hy sinh, bán mình chuộc cha, nhưng vẫn ý thức mình bị oan uổng, sau khi chết hồn oan không tan. Theo niềm tin tôn giáo cổ truyền thì nước trong là chất tinh khiết có thể tẩy rửa nỗi oan khuất, làm cho oan hồn được mát mẻ. Từ khi trao vật kỷ niệm cho đến giờ Kiều như quên hẳn hiện tại, nàng chỉ sống với cái mai hậu hư vô của mình, vì nàng hy vọng em và Kim Trọng được hạnh phúc, và mai hậu nàng sẽ được thương đến. Hiện tại thì nàng chỉ là con số không :

Bây giờ trâm gẫy, bình tan, Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân! Trăm nghìn gửi lạy tình quân, Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi. Nhìn lại hiện tại Kiều chỉ thấy mất mát.

“Trâm gẫy bình tan” là hình ảnh của tình duyên tan vỡ. Một lời kêu than, một lời tiếc nuối : “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân” – Bao nhiêu là ái ân hò hẹn [đã “kể làm sao xiết”, lại còn “muôn vàn”, là nhiều lắm], thế là đã hết! Kiều tự thấy có lỗi rất lớn với Kim Trọng, cho nên gửi lại chàng trăm lạy, nghìn lạy. Đây là lễ vọng từ biệt trong lòng. Câu “Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi” thấm đượm chua chát.

Từ câu “Bây giờ trâm gẫy bình tan” Kiều như chỉ nói với mình và Kim Trọng trong hiện tại, nàng quên hẳn Thúy Vân trước mặt mình, cũng giống như trước đó, nàng sống hẳn trong thế giới hư vô của mai sau.

Phận sao phận bạc như vôi? Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng. Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang! Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!

Đó là lời oán trách, lời cật vấn số phận vô lý, nhưng nàng phải chấp nhận số phận : “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. “Nước chảy hoa trôi” là cảnh xuân đã hết, hoa rụng, tuyết tan, nước chảy đưa các cánh hoa trôi nổi, phiêu dạt. Kiều như thấy mình cũng là cánh hoa lìa cành, mặc dòng nước trôi, không làm chủ được mình nữa.

Hai câu cuối cùng là than với Kim, thương xót Kim, đau vì mình phụ Kim, một điều mà mình không muốn. “Thôi thôi” là tiếng than tiếc rẻ, là dằn vặt, “thôi thôi” cũng là tiếng xác nhận sự phụ bạc của mình [như “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma !”]. Lời đau đớn ấy đã khiến Kiều ngất đi :

Cạn lời hồn ngất máu say, Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng. Đoạn “Trao duyên” đây đúng là Kiều đã nói hết lời [ cạn lời ]. Lời trao duyên nhưng nói như một lời trăng trối, lời vĩnh biệt. Trước lời trao là tình của mình, sau khi trao mình đã trắng tay. Trước khi trao mình là người sống, sau khi trao mình cầm bằng như đã chết, chỉ còn hồn oan, chín suối, dạ đài, ngọn gió. Trước khi trao Kiều sống với hiện tại, khi trao Kiều vừa sống với quá khứ và hiện tại. Nhưng khi trao xong Kiều chỉ sống với tương lai hư vô. Phút trở về hiện tại là lúc đớn đau, tan nát đến chết ngất. Nguyễn Du đã hình dung hết trạng thái tâm lý của Kiều. Lời của nàng là lời nói từ trạng thái ấy, không gian ấy. Cho nên lời nàng Kiều khi thì đối thoại, khi thì độc thoại, khi thì nói với người trước mặt, khi thì nói với người vắng mặt. Toàn bộ đoạn văn là nỗi lòng đau đớn tan nát thê thảm nhất. Con chim sắp chết thì lời kêu thương. Mối tình sắp mất thì lời thê thảm. Đây đúng là đoạn văn lâm ly nhất trong Truyện Kiều. Chủ đề Trao duyên là một chủ đề chỉ có trong văn học trung đại. Tình yêu, tình duyên là một bộ phận không tách rời của sự sống con người. Tình yêu là sự gặp gỡ, gắn gó tự nguyện của hai tâm hồn, hai trái tim nam nữ, là sự hiến dâng tự nguyện cho nhau những gì quý báu nhất của cuộc đời. Vì vậy làm sao có thể có chuyện trao duyên, trao tình cho một người khác chưa từng yêu nhau được? Tình yêu là cái không thể đem trao cho người khác. Trong Truyện Kiều Nguyễn Du đã phân biệt tình yêu và tình duyên. Duyên là sự gặp gỡ, run rủi.

Chủ Đề