Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian

Văn học dân gian là gì? Các thể loại văn học dân gian

5 (100%) 1 vote

Văn học dân gian là gì? Văn học dân gian là một phần vô cùng quan trọng và không thể tách rời trong bộ môn văn học nghệ thuật. Đây là thể loại văn học mà hầu hết mọi người đều biết tới, tuy nhiên để hiểu rõ thế nào là văn học dân gian hay những nét đặc trưng trong thể loại này thì không phải ai cũng biết. Trong bài viết này, Thegioimay xin chia sẻ những thông tin, kiến thức hữu ích để bạn đọc hiểu rõ hơn về mảng văn học dân gian trong kho tàng văn học Việt Nam nhé!

Văn học dân gian là gì?

Văn học dân gian được định nghĩa là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, hình thành và phát triển qua nhiều tầng lớp xã hội, được lưu truyền từ thế này qua thế hệ khác theo hình thức truyền miệng. Đây là những sản phẩm được tập thể sáng tác. Các tác phẩm văn học dân gian ra đời nhằm mục đích phục vụ trực tiếp cho những sinh hoạt khác nhau trong đời sống cộng đồng của người dân.

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Văn học gian dân gian ra đời gắn liền với đời sống cộng đồng của nhân dân

Đối với người dân Việt Nam, văn học dân gian giống như nguồn sữa trong lành, nuôi dưỡng bao tâm hồn của thế hệ trẻ lớn lên trong chiếc nôi tre Việt Nam, trong từng lời ru ầu ơ dân tộc. Các tác phẩm văn học dân gian không chỉ góp phần thể hiện đời sống lao động và tâm hồn của con người bình dị, mà đó là mảnh đất màu mỡ, chắp cánh cho vườn hoa tình yêu tỏa hương khoe sắc. 

Văn học dân gian mang nhiều giá trị cho con người, từ nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ. Thông qua văn học dân gian, ta có thể cảm nhận rõ hơn sự kỳ diệu của ngôn ngữ tình yêu, cảm thấy thương cây lúa, vườn rau hơn và yêu quý hơn cuộc sống quanh ta.

Bản chất của văn học dân gian

Giải nghĩa bản chất của văn học dân gian chính là trả lời cho câu hỏi “Tác giả của văn học dân gian là ai?” và “Văn học dân gian ra đời nói lên điều gì?” Thực tế, bản chất thuật ngữ văn học dân gian đã nói lên rằng những tác phẩm này được quần chúng nhân dân làm ra. 

Bác Hồ đã từng khẳng định: “Quần chúng chính là những người sáng tạo, công nông là người sáng tạo. Tuy nhiên, quần chúng không chỉ sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội, quần chúng còn là những người sáng tác nữa… Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay đều là những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác này rất hay mà lại ngắn”.

Đối với Lênin, ông lại cho rằng sáng tác truyền miệng dân gian là sáng tác chân chính của những người dân lao động. Văn học dân gian thể hiện được bản sắc riêng, độc đáo, đặc sắc về cả nội dung lẫn nghệ thuật, đề cập đến những vấn đề gắn liền với quần chúng nhân dân và lý giải theo cách nhìn nhận, cách cảm của họ. Vì vậy, văn học dân gian là những phản ánh về thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh của người dân lao động, mang nội dung dân chủ và tính nhân văn vô cùng sâu sắc.

Chung quy lại, lượng lượng sáng tác văn học dân gian chính là những người nông dân lao động, tuy nhiên cũng có một số thành phần tri thức với tư cách là cộng đồng dân tộc. Đây là những người sáng tác với mục đích phục vụ cho đời sống sinh hoạt và sản xuất. Sau những ngày làm việc vất vả, các tác phẩm văn học dân gian giúp người nông dân cảm thấy thoải mái, xua đi những mệt mỏi, áp lực về công việc, cuộc sống.

Giá trị cốt lõi của văn học dân gian là gì?

Là kho tàng tri thức to lớn của tri thức

Có thể nói văn học dân gian như “bộ bách khoa toàn thư về cả kiến thức, triết học, tôn giáo” của nhân dân. Nguồn tri thức mà các tác phẩm này mang lại vô cùng phong phú, thuộc mọi lĩnh vực trong đời sống con người cả về xã hội, tự nhiên, lịch sử, tâm linh, kinh nghiệm sống và cách ứng xử,…

Văn học dân gian như là người thầy, đem lại cho con người những bài học sinh động, sâu sắc và gần gũi về mọi phương diện trong đời sống. Các tác phẩm thể hiện những kinh nghiệm quý báu được quần chúng nhân dân đúc kết được từ thực tế cuộc sống, sau đó trình bày lại một cách dễ hiểu, sinh động và cực kỳ dễ nhớ.

Mang giá trị nhân văn về đạo lý làm người

Văn học dân gian có khả năng định hướng, giáo dục về đạo đức, luân lý cho con người trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, thể loại văn học này giáo dục về tình yêu thương đồng loại, niềm tin vào cái thiện, tinh thần lạc quan và dám đứng lên chiến đấu đòi công bằng.

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Văn học dân gian giúp giáo dục con người về những luân thường, đạo lý

Giá trị này gần gũi và có sự giao thoa với phương diện xã hội trong giá trị về nhận thức. Tuy nhiên, với giá trị nhận thức là sự phản ánh khách quan các hiện tượng xã hội thì giá trị nhân văn lại là sự tác động, ảnh hưởng và chi phối trực tiếp lẫn gián tiếp. Tác phẩm văn học dân gian giúp hình thành trong mỗi người phẩm chất tốt đẹp như tinh thần kiên cường, sự bất khuất, lòng yêu quê hương – đất nước,…

Mang giá trị thẩm mỹ

Các tác phẩm văn học dân gian mang tính nghệ thuật, là quan niệm thẩm mỹ của cả cộng đồng, nó mang vẻ đẹp hùng hậu nhưng rất mộc mạc của nhân dân. Những sản phẩm này đều được chắt lọc, mài dũa qua khoảng thời gian dài.

Nhờ vậy, khi đến với những thế hệ trẻ, nó đã trở thành chuẩn mực về nghệ thuật để có thể học tập và sáng tạo. Văn học dân gian được ví như nguồn nuôi dưỡng, là cơ sở giúp hình thành nên văn viết.

Tạo nên nét riêng của bản sắc văn hóa dân tộc

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Tác phẩm văn học dân gian tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc riêng

Khác với văn học viết, các tác phẩm văn học dân gian ra đời và trở thành một bộ phận hữu cơ trong cuộc sống sinh hoạt và hoạt động của nhân dân. Văn học dân gian có mối quan hệ mật thiết với cuộc đời của mỗi người, xuyên suốt từ khi được sinh ra đến lúc mất đi. Môi trường và những thói quen trong sinh hoạt của người dân chính là điều kiện quan trọng để văn học dân gian có thể hình thành và phát triển.

Một số nét đặc trưng cơ bản của văn học dân gian

Bên cạnh khái niệm của văn học dân gian thì đặc trưng của loại hình văn học này cũng là vấn đề cần tìm hiểu rõ. Vậy những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian là gì?

Tính nguyên hợp

Tính nguyên hợp của văn học dân gian được thể hiện ở sự hòa lẫn các hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong hệ thống thể loại của nó. Văn học dân gian chính là bộ bách khoa toàn thư của cả nhân dân lao động.

Tính nguyên hợp trong nội dung của văn học dân gian phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý thức xã hội thời nguyên thủy của con người, khi mà những lĩnh vực sản xuất còn chưa được chuyên môn hóa.

Nguyên nhân chính là bởi đông đảo bộ phận nhân dân, là những tác giả của văn học dân gian, không đủ điều kiện tham gia vào lĩnh vực sản xuất tinh thần khác. Vì thế, họ chỉ thể hiện những kinh nghiệm, tri thức và tư tưởng tình cảm của bản thân vào văn học dân gian, một loại hình nghệ thuật không chuyên.

Bên cạnh đó, tính nguyên hợp của văn học dân gian còn được thể hiện ở mặt nghệ thuật. Những sản phẩm này không chỉ là nghệ thuật về ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của các phương tiện nghệ thuật khác nhau.

Theo phân tích của các chuyên gia, biểu hiện cụ thể của tính nguyên hợp trong văn học dân gian là tính biểu diễn. Loại hình này gồm có ba dạng tồn tại, đó là tồn tại ẩn, tồn tại cố định và tồn tại hiện (thông qua diễn xướng). Trong đó, dạng tồn tại bằng diễn xướng được xem là kiểu tồn tại đích thực của văn học dân gian.

Tính truyền miệng

Đây là một trong những đặc trưng riêng của văn học dân gian. Truyền miệng là phương thức sáng tác và lưu truyền các tác phẩm văn học dân gian. Ngay cả khi xuất hiện văn viết và được ghi chép lại, văn học dân gian vẫn tiếp tục tồn tại dưới hình thức truyền miệng. 

Nói đến nguyên nhân hình thành đặc tính truyền miệng của văn học dân gian, có nhiều ý kiến cho rằng thời kỳ này chưa xuất hiện chữ viết. Đến khi có chữ viết thì đa số người dân lao động lại thất học. Bên cạnh đó, tất cả các phương tiện in ấn đều bị giai cấp thống trị nắm trong tay. Vì vậy, hình thức truyền miệng trở thành phương tiện duy nhất của nhân dân.

Tuy nhiên, ta không thể phủ nhận được tính truyền miệng có những hình thức và vẻ đẹp mà không các văn học viết không hề có được. Cụ thể, do đặc tính truyền miệng nên vỏ âm thanh của ngôn từ cũng được phát huy đến mức tối đa. 

Trong khi đó, việc ghi chép thành các tác phẩm viết trong những công trình sưu tầm về văn học dân gian, kể cả những công trình được sưu tầm và biên soạn một cách công phu đã bị mất mát đáng kể về vỏ âm thành của ngôn ngữ nói. Chính điều này đã tạo nên sự đặc sắc của một tác phẩm văn học dân gian trong môi trường diễn xướng.

Do có đặc tính truyền miệng, các tác phẩm văn học dân gian thường rất ngắn gọn, dễ nhớ và thường có nhiều dị bản khác nhau. Tính truyền miệng của văn học dân gian có mối liên kết chặt chẽ với quá trình diễn xướng dân gian một cách sinh động, hào hứng.

Tính tập thể

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Tác phẩm văn học dân gian có tính tập thể

Các tác phẩm văn học dân gian là do nhân dân sáng tác, tuy nhiên không phải tất cả nhân dân đều là tác giả của văn học dân gian.Tính tập thể của loại hình này thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm. 

Điều quan trọng của nó là mọi người biểu diễn, thưởng thức hay không và các tác phẩm này đã đạt được những thành tựu gì không. Trong quá trình này, tập thể nhân dân cùng tham gia vào công việc sáng tạo tác phẩm văn học dân gian.

Đặc trưng cơ bản này có liên quan chặt chẽ với các đặc trưng khác của loại hình văn học dân gian như tính vô danh, tính khả biến (dị bản) hay tính truyền miệng,…

Tính dị bản

Tính dị bản là một đặc trưng nổi bật của văn học dân gian, nghĩa là một tác phẩm có thể sẽ có nhiều bản kể, văn bản khác nhau. Sự khác nhau đó thể hiện trên nhiều phương diện như đề tài, nghệ thuật, thể loại, nội dung, … và ở nhiều yếu tố như chí tiết, sự kiện, tình tiết, thời gian, không gian, nhân vật, từ ngữ, hình ảnh,…

Nói đến tính dị bản của văn học học dân gian sẽ có hai điểm nổi bật, bao gồm những yếu tố cố định không thay đổi và những yếu tố mới. Điều này được thể hiện trong mối quan hệ giữa “ứng tác” và “truyền thống”.

Các tác phẩm văn học dân gian khi truyền miệng sẽ có những thay đổi và tạo ra cái hoàn toàn mới, xa rời và thoát ly với các tác phẩm cùng một công thức truyền thống. Dựa theo yếu tố giống nhau về hình thức ngôn ngữ, ta có thể khảo sát được tính dị bản của các tác phẩm này. Hầu như các tác phẩm dị bản không đi theo một hệ thống nội dung và hình thức thường thấy, cho dù ít nhiều vẫn tồn tại một số yếu tố có liên hệ với cái cũ.

Loại hình gắn liền mật thiết với đời sống sinh hoạt của người dân

Văn học dân gian là gì? Đó là sự xuất hiện và tồn tại như một phần hợp thành không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt của người dân. Sinh hoạt của người dân chính là một trong những môi trường sống, nuôi dưỡng và phát triển các tác phẩm văn học dân gian.

Các tác phẩm văn học, bài hát ru ầu ơ đều gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của mọi gia đình và đại bộ phận người dân lao động. Cho đến ngày nay, việc ru con vào giấc ngủ là điều không thể thiếu. Tương tự đó, những nghi lễ, bài dân ca, truyền thống văn hóa gắn liền với tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội,… 

Từ những đặc tính trên, có thể thấy văn học dân gian là một loại hình nghệ thuật đa chức năng, nó chính là một phần không thể thiếu trong sinh hoạt hằng ngày của nhân dân.

Hệ thống các thể loại trong văn học dân gian

Thần thoại

Đây là thể loại văn học dân gian gắn liền với hình ảnh của các vị thần sáng tạo ra thế giới tự nhiên và văn hóa. Từ đó thể hiện nhận thức của con người thời cổ đại về nguồn gốc thế giới, phản ánh quá trình sáng tạo văn hóa và khát vọng chinh phục tự nhiên.

Ví dụ: Thần Trụ Trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Nữ thần Mặt Trời, Ông Trời,…

Truyền thuyết

Một trong các thể loại văn học gian được biết đến nhiều đó là Truyền thuyết. Đây là những truyện kể truyền miệng về các nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử hoặc giải thích về phong tục tập quán, hiện tượng thiên nhiên, nguồn gốc của phong vật địa phương theo quan điểm của nhân dân. 

Các tác phẩm truyền thuyết sử dụng biện pháp nghệ thuật phổ biến là khoa trương, phóng đại, đồng thời sử dụng các yếu tố thần kỳ, huyền ảo giống với truyện thần thoại và cổ tích.

Ví dụ: Thánh Gióng, sự tích Hồ Hoàn Kiếm, Bánh Chưng – Bánh Giầy, Mai An Tiêm, An Dương Vương và chiếc nỏ thần,…

Sử thi

Thể loại văn học dân gian Sử thi là những tác phẩm được viết theo thể tự sự dân gian có quy mô lớn. Nội dung của sử thi hàm chứa những bức tranh rộng lớn và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân.

Các tác phẩm sử thi thường sử dụng ngôn ngữ có nhịp, có vần giúp xây dựng nên nhân vật trung tâm là những anh hùng, dùng sĩ đại diện cho một bộ phận dân cư thời cổ đại. Hình tượng nghệ thuật của truyện vô cùng hào hùng, hoành tráng.

Ví dụ: Sử thi Đăm Săn của dân tộc Ê đê, Đẻ đất đẻ nước của dân tộc Mường,…

Truyện cổ tích

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Truyện cổ tích Tấm Cám

Đây là một thể loại văn học dân gian được tự sự do dân gian sáng tác, có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thế sự, cổ tích thần kỳ, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật. Truyện cổ tích là loại truyện ngắn, cốt truyện chủ yếu kể về nhân vật dân gian hư cấu, ví dụ như tiên, bụt, yêu tinh, mụ phù thủy, … thường có phép thuật hoặc bùa chú. Hầu hết, các tác phẩm truyện cổ tích đều có kết thúc có hậu, thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân.

Ví dụ: Sọ Dừa, Tấm Cám, Cây Khế, Sự tích trầu cau, Cô bé Lọ Lem,…

Truyện ngụ ngôn

Thể loại này là truyện kể dân gian bằng văn xuôi hoặc bằng thơ, mượn những câu chuyện về loài vật, đồ vật, cây cỏ, … làm ẩn dụ hoặc lấy chính con người để nói bóng gió, kín đáo về chuyện đời, chuyện người. Từ đó, các tác phẩm truyện ngụ ngôn gửi gắm bài học luân lý, triết lý nhân sự và bài học kinh nghiệm trong đời sống.

Ví dụ: Trí thông minh của ta đây (con hổ, con trâu và người đi cày), Cáo mượn oai hùm, Rùa và Thỏ, Con cáo và chùm nho,…

Truyện cười

Đây là những tác phẩm tự sự dân gian có dung lượng ngắn, đa dạng và phức tạp và kết thúc bất ngờ. Truyện bao gồm những hình thức được gọi bằng những danh từ khác nhau, kể về những việc xấu, trái với tự nhiên có tác dụng gây cười. Truyện sử dụng tiếng cười để giải trí, mua vui khen và chê những thói hư tật xấu của con người trong đời sống xã hội.

Sự khác biệt giữa các the loại văn học dân gian
Truyện cười Thầy bói xem voi

Ví dụ: Lợn cưới áo mới, Thầy bói xem voi, Treo biển,…

Tục ngữ

Tục ngữ là thể loại văn học dân gian với những câu nói ngắn gọn, súc tích có nhịp điệu, có hình ảnh. Tục ngữ được đúc kết từ kinh nghiệm, tri thức của dân gian về mọi mặt trong đời sống như xã hội, lao động sản xuất,… Các câu nói này được nhân dân sử dụng phổ biến trong đời sống và lời ăn tiếng nói thường ngày.

Ví dụ: Kiến tha lâu đầy tổ; Khoai ruộng lạ, mạ ruộng quen.

Ca dao

Thể loại ca dao là những tác phẩm thơ ca dân gian trữ tình Việt Nam, được sáng tác nhằm diễn tả thế giới nội tâm của con người và truyền miệng dưới những câu hát không theo một điệu nhất định. Ca dao được sáng tác phổ biến theo thể thơ lục bát, vì vậy rất dễ nhớ, dễ thuộc và thường được kết hợp với âm nhạc khi diễn xướng.

Hầu hết các câu ca dao có nội dung khá đơn giản và rất đa dạng, xoay quanh các vấn đề trong đời sống sinh hoạt và tình cảm con người. Một số đề tài như ca dao ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước; ca dao về tình cảm gia đình; ca dao về tình yêu đôi lứa; ca dao than thân; ca dao châm biếm, hài hước;… 

Ví dụ:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Câu đố

Thể loại văn học dân gian câu đố là những câu nói có vần, phản ánh những hình ảnh ẩn dụ của sự vật, sự việc, hiện tượng theo lối nói chệch, từ đó để người nghe tìm ra đáp án chính xác. Khi sáng tạo các câu đố, người ta phải tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt, sau đó phản ánh chúng thông qua phép so sánh, hình tượng hóa.

Các câu đố không chỉ có tác dụng giải trí, rèn luyện khả năng tư duy cho con người mà còn cung cấp một lượng tri thức bổ ích về cuộc sống.

Ví dụ: Mình bằng hạt đỗ, ăn giỗ cả làng, đó là con gì? → Con ruồi

Nhà xanh mà đóng khố xanh/ Tra đỗ, trồng hành, thả lợn vào trong, đố là gì?

→ Chiếc bánh chưng

Vè là một trong các thể loại của văn học dân gian có hình thức văn vần, mang tính thời sự, giúp phản ánh kịp thời về các sự kiện, sự việc nào đó xảy ra trong làng hoặc trong nước. Thông qua các câu vè thể hiện thái độ khen/chê của dân gian đối với những sự kiện đó.

Ví dụ:

Vè chửa hoang

“Xem thử nó giống ai

Cái đầu nó giống ông cai

Cái lưng ông xã

Cái vai ông trùm”

Truyện thơ

Truyện thơ là những tác phẩm văn học dân gian được sáng tác bằng chữ Nôm, phần lớn được viết theo thể thơ lục bát, đây là thể thơ quản thuộc và dễ nhớ đối với quần chúng. Các tác phẩm truyện thơ thường phản ánh số phận, khát vọng của con người về cuộc sống ấm no, hạnh phúc và một xã hội công bằng.

Ví dụ: Tiễn dặn người yêu, Phạm Công – Cúc Hoa, Tống Trân – Cúc Hoa,…

Chèo

Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam, phát triển mạnh nhất ở khu vực phía bắc Việt Nam. Thể loại này thường kết hợp các yếu tố trữ tình với trào lồng nhằm mục đích ca ngợi, tưởng nhớ những tấm gương đạo đức. Bên cạnh đó phê phán, đả kích những thói hư, tật xấu trong xã hội.

Ví dụ: Bài ca giữ nước, Thị Mầu lên chùa,…

>>> Bài viết tham khảo: Khám phá ngay những trang web thú vị mà có thể bạn chưa biết

Bài viết trên là tổng hợp những thông tin về khái niệm và đặc trưng loại hình văn học dân gian. Hy vọng, qua bài viết bạn đọc đã hiểu rõ văn học dân gian là gì và các thể loại của nó.