Theo bạn hiếu học có giới hạn độ tuổi không tài sao

Liệu còn có đủ thời gian để ta tạo nên một dấu ấn cho cuộc đời này? Câu hỏi ấy vẫn làm phiền lòng bất kì ai vẫn bỏng cháy cái ham muốn làm nên ước mơ cho mình.

Những ví dụ sau không hề có ý làm cho bạn nản lòng, đây là những con người đã tạo nên lịch sử khi họ còn rất trẻ. Charles Darwin nêu lên thuyết chọn lọc tự nhiên khi ông mới 29 tuổi; Marie Curie có được phát hiện lớn về phóng xạ khi bà vẫn còn đang ở tuổi thanh xuân, khi người con gái đẹp nhất vào những năm tuổi 20; Mozart đã có thể chơi đàn và soạn nhạc khi lên 5.

Mozart - Marie Curie - Einstein.

Suốt nhiều năm trời, các nhà khoa học nghiên cứu về các thành tựu trong lịch sử đã chỉ ra rằng trong rất nhiều lĩnh vực, những thử nghiệm thành công và những mốc thành tựu lớn đến từ những khoảng thời gian đầu đời của những thiên tài.

Rốt cục thì, người trẻ có thể tận tụy cống hiện với sức xuân mà những người đứng tuổi không thể. Thậm chí, những linh hồn trẻ trung còn có thể thu hút những sự ủng hộ, những người thầy gạo gội chỉ bảo hay những lời khuyên vô giá từ những cuộc gặp mặt với những con người già dặn hơn.

Giờ đây, một bản phân tích thông tin mới của các nhà khoa học đã chứng minh rằng tuổi tác không hề ảnh hưởng tới sự thành công. Và rằng sự kết hợp giữa tính cách, sự chăm chỉ kiên trì và sự may mắn thuần túy, cùng với trí thông minh đã tạo nên sự thành công Ở BẤT KÌ ĐỘ TUỔI nào.

Kết luận của nghiên cứu này chỉ đơn giản là: Đừng bao giờ từ bỏ. “Thời điểm bạn bỏ cuộc chính là lúc sự sáng tạo của bạn tàn lụi”, đó là những gì ông Albert-Laszlo Barabasi cùng với bà Roberta Sinatra, hai người dẫn dắt đội ngũ nghiên cứu đã rút ra sau những cố gắng phân tích của mình. Cả hai đều là những nhà vật lý học tài năng tại Đại học Đông Bắc Boston.

Nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng sự kết hợp của các yếu tố thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau chính là chìa khóa nằm sau sự thành công. Nghiên cứu mới này đã thể hiện rõ rằng những tác động ấy có ảnh hưởng lên mọi mức độ mọi độ tuổi: những học sinh sinh viên đang nghiên cứu, những vị giáo sư còn trẻ, những nhà khoa học ở độ tuổi trung niên và còn tiếp như vậy nữa. Đó sẽ là bất kì ai không bị độ tuổi của mình [hay nói cách khác là chính trí óc mình] giới hạn.

“Kích cỡ của nghiên cứu này cực kì đáng nể”, vị giáo sư già đáng kính Dean Simonton tại Đại học California đã ca ngợi nỗ lực của các giáo sư trên như vậy. Ông còn nói thêm rằng mối quan hệ chặt chẽ giữa các yếu tố kể trên và những thành công trong sự nghiệp có thể gặp ở vô số lĩnh vực như âm nhạc, điện ảnh, tâm lý học hay những phát minh khoa học kĩ thuật, ...

Giáo sư Dean Simonton tại Đại học California.

Nghiên cứu của các giáo sư tại Đại học Boston tập trung nhiều vào ngành vật lý, gồm thông tin về 2.856 các nhà vật lý học với sự nghiệp kéo dài trên 20 năm, có ít nhất một bài nghiên cứu được xuất bản với khoảng thời gian 5 năm một lần. Bản thân những nghiên cứu ấy cũng phải được đánh giá là đủ lớn để có thể đưa vào trong diện xem xét.

Mặc dù những thành quả của các nhà vật lý học đến nhiều hơn vào giai đoạn đầu nghiên cứu, nhưng nó lại không hề liên quan gì tới tuổi tác của các nhà nghiên cứu cả.

Những kết quả trên phụ thuộc nhiều vào năng suất của từng nhà nghiên cứu. Những người trẻ hơn thường thử nghiệm nhiều hơn, và vì thế họ sẽ có tỉ lệ có được nhiều kết quả tốt hơn.

Dựa vào đó, nếu như đặt năng suất của hai nhóm nhà khoa học trẻ và già như nhau, thì họ cũng có thể có được thành công ở độ tuổi 50 như với độ tuổi 25 vậy. Và thêm nữa, chọn đúng thời điểm và chọn đúng dự án để theo đuổi hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố may mắn nữa.

Để chuyển thể tất cả những sự lựa chọn ngẫu nghiên ấy thành một cống hiến cụ thể thì cần một yếu tố nữa, được một trong số các nhà nghiên cứu kí hiệu bằng kí tự Q.

Ta có thể dịch Q một cách đơn giản là “kĩ năng” của cá nhân nhà khoa học, có thể bao gồm nhiều yếu tố nhỏ hơn như I.Q., động cơ làm việc, sự cởi mở với những ý tưởng mới hay khả năng hợp tác với những người khác. Hoặc đơn giản hơn, đó là khả năng làm việc với bất kì nguồn lực nào mà họ hiện có trên tay.

“Yếu tố Q này cực kì thú vị bởi lẽ nó có thể là những khả năng mà con người có nhưng lại không nhận ra được rằng đó là khả năng trọng tâm của họ”, giáo sư tâm lý học Zach Hambrick tại Đại học Bang Michigan nói. Ông lấy ví dụ về việc diễn đạt rõ ràng, “nếu một phát hiện cực kì hay những lại được diễn đạt một cách nghèo nàn, thì nó sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới bản thân nghiên cứu ấy”.

Yếu tố Q có một điểm thú vị nữa là nó có tính chất bất biến theo thời gian. Trái ngược với những gì mà ta tin tưởng, kinh nghiệm không làm khả năng con người thay đổi một cách thực sự rõ rệt. “Suy nghĩ ấy làm chúng tôi rất bất ngờ”, tiến sĩ Barabasi nói. “Chúng tôi tìm ra rằng ba yếu tố Q, năng suất và sự may mắn là ba yếu tố hoàn toàn độc lập với nhau”.

Các nhà nghiên cứu cũng đã thu thập dữ liệu từ những lĩnh vực khoa học khác và tìm ra rằng mỗi quan hệ giữa các yếu tố trên vẫn tồn tại.

Kết hợp các kết quả lại, nghiên cứu này kết luận được rằng những bản báo cáo nghiên cứu được đưa ra thử nghiệm là sản phẩm của yếu tố Q, điểm mạnh riêng của một nhà nghiên cứu và yếu tố may mắn. Bên cạnh đó còn có yếu tố thời điểm nữa, một dự án đến đúng thời điểm sẽ có thể lợi dụng được toàn bộ những yếu tố trên để phát triển, như nàng thơ bỗng đến với một nhà văn, như cảm hứng sáng tác đến với một nghệ sĩ hay một điệu nhảy ngẫu hứng bỗng xuất hiện trong đầu của một vũ công.

Với những yếu tố ấy, rất có thể những người năng suất lại không thể đạt đỉnh cao nhưng những người có yếu tố Q cao lại không thể thành công trong sự nghiệp. “Sự phát triển của chất lượng yếu tố Q, hay bất kì cái tên nào mà bạn gọi nó, sẽ khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau”, giáo sư Simonton nói. “Đó là lý do tại sao bạn thấy có người rất thành công trong lĩnh vực này lại thường không thể hiện tốt khi đổi sang lĩnh vực khác”.

Một yếu tố quan trọng khác có bị ảnh hưởng bởi tuổi tác, đó là “địa vị” và đi kèm với nó, thường là một sự tự do nhất định để một người có thể trở nên liều lĩnh. Đó là những gì nhà tâm lý học Frank Sulloway tại Đại học California bổ sung.

“Jean-Baptiste Lamarck đưa ra dẫn chứng chứng minh cho sự tiến hóa của giống loài vào năm 1801 và khi đó ông đã 57 tuổi, đến tuổi 66 ông mới cho xuất bản cuốn sách ‘Philosophie Zooligique’ để ủng hộ cho thuyết tiến hóa”, giáo sư Sulloway nói. “Đây là ví dụ cực kì phù hợp để cho thấy rằng phải xét tới địa vị xã hội của một người để xét tới những nghiên cứu của họ, bởi lẽ những thuyết gây tranh cãi sẽ được đưa ra công chúng khi mà những nhà khoa học đã đủ gạo cội, đủ trí thông minh và danh tiếng để hỗ trợ họ”.

Ta có thể thấy rằng, việc “tuổi tác ngăn sự thành công” là do tâm lý chúng ta tự tạo ra rào cản và hơn nữa, khoa học đã chứng minh được rằng điều đó hoàn toàn không đúng. Những yếu tố khác cần được cân nhắc và thậm chí, ta còn có những ví dụ cụ thể về việc tuổi tác là một người bạn đắc lực trong những nghiên cứu khoa học.

Dù nạn còn trẻ hay thậm chí đã đứng tuổi, hãy đừng nản lòng trước khó khăn và hãy thể hiện rằng, tuổi tác chỉ là một rào cản mà loài người chúng ta tự vẽ ra. Hãy vẽ đè lên đó con đường thành công của chính mình!

GS Trần Ngọc Thêm cho rằng "Từ chỗ coi trọng cái bằng mà sinh ra cách học đối phó, học để thi... Việc đối phó với thi cử đẻ ra tệ nạn quay cóp. Tệ nạn này nghiêm trọng đến chừng nào và phổ biến đến đâu thì thực tiễn cuộc sống và các số liệu điều tra đều dẫn đến cùng một kết quả...".

Xem phần 1:

GS Trần Ngọc Thêm phản hồi độc giả VietNamNet về ngộ nhận "cần cù, hiếu học"



"Người hiếu học thực sự đi học nhằm để khai trí, đạt thức, và thông tuệ"

[Ảnh Đinh Quang Tuấn]

Về “đức tính cần cù” và “huyền thoại về tính cần cù”

Một bạn đọc chưa tán thành cách giải thích vì sao người Việt lười hơn các dân tộc châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, bởi lý do thời tiết hay vị trí địa lý là không chuẩn: Trước hết, tôi không nói rằng thời tiết hay vị trí địa lý là toàn bộ lý do. Sự khác biệt về điều kiện tự nhiên chỉ là lý do dẫn đến sự khác biệt về cách thức mưu sinh. Và sự khác biệt về cách thức mưu sinh trong một thời gian dài [cùng một số yếu tố khác nữa] sẽ tạo nên sự khác biệt về tính cách dân tộc.

Bình luận này nói tiếp: “Nhật Bản, Hàn Quốc chỉ là 2 trong số rất nhiều quốc gia có điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn Việt Nam. Nhưng cũng chỉ có 2 quốc gia đó là phát triển”, thêm nữa “trong thời phong kiến họ cũng là quốc gia kinh tế kém phát triển”. Ý này có chỗ đúng và có chỗ sai. Chỗ đúng [rất quan trọng] là không phải cứ cần cù là sẽ phát triển. Chỗ sai là trong số những quốc gia có điều kiện thời tiết khắc nghiệt hơn ta, không chỉ có Nhật Bản, Hàn Quốc là phát triển: Nhiều quốc gia phương Tây ở xứ lạnh, thời tiết rất khắc nghiệt, nhưng đều phát triển rất sớm.

Việc đưa sự kiện “dạy thêm học thêm ngăn chặn mãi không được và học sinh vừa đi đường vừa xúc cơm ăn ngay trên xe máy” làm cơ sở chứng minh cho tính cần cù hiếu học có chỗ không ổn. Bởi cái “cần cù hiếu học” này không phải xuất phát từ sự tự nguyện tự giác của các em mà là do áp lực của cha mẹ và xã hội [con ngoan mà!].

Ta sẽ nghĩ sao nếu nhớ rằng những công chức “sáng cắp ô đi tối cắp ô về” hiện nay, những người đang lấp đầy các quán cà phê buổi sáng và các quán nhậu buổi chiều hiện nay, khi còn nhỏ đều đã từng mất hết tuổi thơ vì phải học thêm, từng vừa đi đường vừa xúc cơm ăn ngay trên xe máy? Chả lẽ là lúc nhỏ cần cù hiếu học để rồi khi lớn lên thì nghỉ bù, ăn chơi bù?

Tôi nói ở người Việt, cần cù chỉ là huyền thoại còn là căn cứ trên những tiêu chí khách quan với những số liệu rất cụ thể. Tôi so sánh với Hàn Quốc, Nhật Bản vì đây là những quốc gia được thừa nhận là cần cù nhất thế giới. Chẳng hạn, xét theo số giờ làm việc trung bình trong năm thì người Hàn Quốc làm việc gấp 1,3 lần nhiều hơn so với người Nhật và 1,5 lần nhiều hơn so với người Mỹ, trong khi số ngày nghỉ của họ chỉ bằng 1/2 của người Nhật và 1/5 của người Mỹ. Đến lượt mình, so với người Mỹ thì người Nhật cũng làm việc gấp 1,3 lần nhiều hơn, trong khi số ngày nghỉ của họ chỉ bằng một nửa.



Nhìn vào những con số trên ta sẽ tự thấy Việt Nam nằm ở chỗ nào, khi mà nước ta có số lượng lễ hội trong năm vào loại cao nhất thế giới [khoảng 8.000 lễ hội] nhưng lại có năng suất lao động [theo số liệu do Tổ chức Lao động Quốc tế ILO công bố năm 2015] đứng cuối khu vực: thấp hơn Singapore gần 15 lần, thấp hơn Nhật 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần.

Tôi gọi “tính cần cù” của người Việt là huyền thoại vì theo Từ điển tiếng Việt [do Hoàng Phê chủ biên] thì huyền thoại là “câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng”. “Tính cần cù” của người Việt chính là một sự tưởng tượng như thế.

Về chuyện hiếu học hay hiếu danh

Người hiếu học thực sự đi học nhằm để khai trí, đạt thức, và thông tuệ. Thi cử chỉ là một cách đánh giá. Danh phận, địa vị chỉ là hệ quả.

Trong khi người Việt ta đi học [tất nhiên không phải là tất cả] thường nhằm đến danh phận, địa vị nên mới quá coi trọng cái bằng. Từ chỗ coi trọng cái bằng mà sinh ra cách học đối phó, học để thi. Thi gì thì học nấy, nhiều khi thi xong là quên luôn, còn cái gì không thi thì bỏ qua. Việc đối phó với thi cử đẻ ra tệ nạn quay cóp. Tệ nạn này nghiêm trọng đến chừng nào và phổ biến đến đâu thì thực tiễn cuộc sống và các số liệu điều tra đều dẫn đến cùng một kết quả:

Về mức độ nghiêm trọng thì điển hình nhất là sự kiện diễn ra ở trường THPT dân lập Đồi Ngô [Lục Nam, Bắc Giang] trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2012, khi mà có tới 12 video-clip quay lại cảnh gian lận có sự tiếp tay và đồng lõa cùa các giám thị do chính các thí sinh thực hiện được tung lên mạng. Nhận xét về vụ này, giáo sư Ngô Bảo Châu từng cho rằng “Đây là một sự kiện đặc biệt... chưa từng có tiền lệ trong lịch sử loài người”. 


Hình ảnh vi phạm quy chế thi tại hội đồng thi Trường THPT DL Đồi Ngô - Bắc Giang [Ảnh cắt từ clip]

Về mức độ phổ biến thì sự gian lận này không chỉ có ở thí sinh mà ở nhiều nơi đã trở thành hiện tượng có tổ chức gần như công khai [có nơi thu tiền để hối lộ giám thị; hàng thùng giấy photo bài giải được đưa vào giao cho nhân viên phục vụ mang đi phân phát ở các phòng thi].

Trong đợt chấm thi tốt nghiệp THPT năm 2003 có một số tỉnh cầu cứu Bộ cho mở đáp án riêng cho tỉnh mình để nâng tỉ lệ đỗ từ 50% lên 70%. Năm 2010, thậm chí 12 tỉnh ở đồng băng sông Cửu Long đã liên kết với nhau tự ý hạ chuẩn đáp án của Bộ để nâng tỉ lệ đỗ tốt nghiệp của toàn vùng. Trong kỳ thi tốt nghiệp năm 2014 tại một trường THPT ở Hà Tây, khi thi thử có 90% trượt, đến khi thi thật thì đỗ tới 100%!

Trong cuộc điều tra do chúng tôi thực hiện năm 2014 với khoảng 5.600 người tham gia, trả lời câu hỏi về việc “Giở sách quay cóp khi thi cử”, có 79,3% thừa nhận đã từng thực hiện điều này trong hành động hoặc suy nghĩ; riêng đã thực hiện trong hành động cũng có tới 64,2%. Số chưa bao giờ nghĩ đến chỉ chiếm 20,7%.

Một lối học như thế, nếu vẫn cứ muốn gọi là hiếu học thì có lẽ cụm từ “hiếu học lạc hậu” của PGS. Văn Như Cương – nhà sư phạm, người sáng lập và Hiệu trưởng Trường PTDL Lương Thế Vinh – có thể xem là phù hợp khi ông cho rằng “Chúng ta đang sống trong xã hội hiếu học lạc hậu, bởi ai cũng muốn vào đại học, dù số đông sinh viên ra trường không có việc làm”.

Ngoan trong “con ngoan” nên hiểu như thế nào?

Có ý kiến so sánh rằng nếu “ngoan” mà tệ thế thì nước Nhật sẽ ngày càng "tệ hại" vì người Nhật cúi đầu chào lễ phép khi gặp nhau. Nhầm lẫn này có thể hiểu được vì trong tiếng Việt có hai cách hiểu về “ngoan”.

Cách hiểu thứ nhất được ghi nhận trong mọi từ điển chính là “dễ bảo, biết nghe lời”: “Việt Nam tự điển” của Hội Khai Trí Tiến Đức [xuất bản năm 1931] giải thích ngoan là “có nết na, dễ bảo” [đứa bé này ngoan, cô gái ngoan]. “Từ điển tiếng Việt” của Viện Ngôn ngữ học [do Hoàng Phê chủ biên] cũng định nghĩa ngoan [trong “đứa bé ngoan”] là “nết na, dễ bảo, biết nghe lời”. Trái nghĩa với ngoan [khó bảo, bướng bỉnh] là “hư”.

Cách hiểu thứ hai tuy không thấy ghi nhận trong từ điển nào, nhưng tồn tại trên thực tế, đồng nhất “ngoan ngoãn” với “lễ phép”. Sau năm 1975 người miền Bắc vào Nam đều có nhận xét rằng trẻ em miền Nam “ngoan hơn”, đi về khoanh tay thưa gửi rất lễ phép. Lối giao tiếp của người Nhật, người Thái, Lào, Mianmar... đều được xem là thuộc phạm trù này.

Trong hai cách hiểu thì cách hiểu thứ nhất [ngoan = dễ bảo] là nghĩa chính, sử dụng phổ biến. Vì là nghĩa phổ biến nên nó được ghi nhận trong mọi từ điển xưa nay. Chính cách hiểu này nằm trong vô thức của người Việt Nam, từ gia đình vào đến nhà trường và ra đến xã hội.

Xem phần cuối:

"Đừng bắt triết lý giáo dục phải ôm tất cả"

GS Trần Ngọc Thêm

Video liên quan

Chủ Đề