Văn hóa tổ chức đời sống tập thể là gì

BỘ CÔNG THƯƠNGTRƯỞNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HỒ CHÍ MINH

CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM

NỘI DUNG TÌM HIỂU: VĂN HOÁ TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG TẬP THỂGVHD: LÊ THỊ KIM OANHLỚP HỌC PHẦN: DHKTKT17BTTMÃ HỌC PHẦN: 422000373318STTHỌ VÀ TÊNMSSV1HỒ NGỌC QUYÊN211228212BÙI QUỐC HUY200641113PHAN TRẦN VIẾT HÙNG200435714PHẠM MINH HIẾU20011511

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 01 năm 2022

3.1 TỔ CHỨC NÔNG THÔN

3.1.1 TỔ CHỨC NÔNG THÔN THEO HUYẾT THỐNG: GIA ĐÌNH VÀ GIA TỘC

Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là GIA ĐÌNH và đơn vị cấu thành là GIA TỘC. Đối với người Việt Nam, gia tộc trở thành một cộng đồng gắn bó có vai trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình: họ rất coi trong các khái niệm liên quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ ... Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt, khái niệm truyền thống của Việt Nam là “ làng nước" , còn nhà nước chỉ là sự sao phỏng khái niệm "quốc gia"của Trung Hoa. Ở Việt Nam , làng và gia tộc [họ] nhiều khi đồng nhất với nhau. Dấu vết hiện tượng "làng là nơi ở của một họ" còn lưu lại trong hàng loạt tên làng: Đặng Xá [nơi ở của họ Đặng], Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá, Châu Xá, Lê Xá, ... Trong làng, người Việt cho đến giờ vẫn thích sống theo lối đại gia đình : các cụ già rất lấy làm hãnh diện nếu họ đứng đầu một gia đình quần tụ được 3, 4 thế hệ [ tam đại đồng dường, tứ đại đồng dường]. Ở nhiều dân tộc ít người phổ biến tình trạng các thế hệ của một đại gia đình, một gia tộc ở tập trung dưới một mái nhà dài – loại nhà này có thể dài tới trên 30 mét, với số lượng thậm chí tới hơn trăm người.Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. Nó là cơ sở của tínhtôn ti. Người Việt có hệ thống tôn ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi tới 9 thế hệ [gọi là cửu tộc]: KỤ CỐ CỤ, ông Cha | TÔI Con Cháu Chắt Chút Hệ thống cửu tộc này thuộc loại rất ít gặp trên thế giới, bởi lẽ tiếng Việt, cả các thếhệ đều thể hiện bằng những từ đơn tiết , điều đó cho thấy sự phân biệt này có nguồn gốc rất lâu đời. Trong khi đó, ở các ngôn ngữ phương Tây chỉ phân biệt 1 thế hệ phía trên và 1-2 thế hệ phía dưới; các thế hệ xa hơn được diễn giải hàng từ ghép , so sánh tiếng Anh : father [ cha ] - grandfather [ ông ] - great - grandfather [

Dẫn nhập Thành tố quan trọng thứ hai của văn hóa là văn hóa tổ chức công đồng với hai bộ phận. Tổ chức đời sống tập thể và tổ chức đời sống cá nhân. Chương này dành cho bộ phận thứ nhất. Tổ chức đời sống tập thể bao gồm những vấn đề thuộc tầm vĩ mô, liên quan đến cuộc sống của cả cộng đồng, trong đó quan trọng nhất là ba lĩnh vực: quốc gia - nông thôn - đô thị.

Đó là bức tranh chung của mọi nền văn hóa. Đối với một nền văn hóa gốc nông nghiệp điển hình như Việt Nam thì tổ chức nông thôn là lĩnh vực quan trong nhất. Nó chi phối cả truyền thống tổ chức quốc gia lẫn tổ chức đô thị, cả diện mạo xã hội lẫn tính cách con người. Nắm vững những đặc thù của tổ chức nông thôn tức là nắm được chìa khóa văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng của người Việt Nam. Sau làng thì đến nước. Ở Việt Nam truyền thống, tổ chức đô thị có vai trò mờ nhạt nhất. Bởi vậy, chương này sẽ nghiên cứu ba vấn đề theo thứ tự sau:

1- Tổ chức nông thôn, 2- Tổ chức quốc gia; 3- Tổ chức đô thị.

§1. TỔ CHỨC NÔNG THÔN

Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy, người nông dân phải liên kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Cho nên nét đặc trưng số một của làng xã Việt Nam là tính cộng đồng : Làng xã Việt Nam được tổ chức rất chặt chẽ đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau.

1. Tổ chức nông thôn theo huyết thống: Gia đình và Gia tộc Những người cùng quan hệ huyết thống gắn bó mật thiết với nhau thành đơn vị cơ sở là GIA ĐÌNH và đơn vị cấu thành là GIA TỘC. Đối với người Việt Nam, gia tộc trớ thành một cộng đồng gắn bó có vai trò quan trọng thậm chí còn hơn cả gia đình: họ rất coi trọng các khái niệm liên quan đến gia tộc như trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ, từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ họ, giỗ tổ, mừng thọ... Không phải ngẫu nhiên mà trong tiếng Việt, khái niệm truyền thống của Việt Nam là “làng nườc”, còn “nhà nước” chỉ là sự sao phỏng khái niệm”quốc gia” của Trung Hoa.

Việt Nam, làng và gia tộc [họ] nhiều khi đồng nhất với nhau. Dấu vết hiện tượng “làng là nơi ở của một họ” còn lưu lại trong hàng loạt tên làng: Đặng Xá [nơi ở của họ Đặng], Ngô Xá, Đỗ Xá, Trần Xá, Nguyễn Xá, Châu Xá, Lê Xá,... Trong làng, người Việt cho đến giờ vẫn thích sống theo lối đại gia đình : các cụ già rất lấy làm hãnh diện nếu họ đứng đầu một gia đình quần tụ được 3, 4 thế hệ [ tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường ]. Ở nhiều dân tộc ít người phổ biến tình trạng các thế hệ của một đại gia đình, một gia tộc ở tập trung dưới một mái nhà dài - loại nhà này có thể dài tới trên 30 mét, với số lượng thậm chí tới hơn trăm người.

Sức mạnh gia tộc thể hiện ở tinh thần đùm bọc, thương yêu nhau. Người trong họ có trách nhiệm cưu mang nhau về mặt vật chất: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì ; hỗ trợ nhau về trí tuệ, tinh thần: Nó lú nhưng chú nó khôn ; và dìu dắt nhau, làm chỗ dựa cho nhau về Hình 3: Nhà dài Tây Nguyên chính trị: Một người làm quan, cả họ được nhờ.

Cách tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú dựa trên quan hệ hàng ngang , theo không gian. Nó là nguồn gốc của tính dân chủ , bởi lẽ muốn giúp đỡ nhau, muốn có quan hệ lâu dài thì phải tôn trọng, bình đẳng với nhau. Đó là hình thức dân chủ sơ khai, dân chủ làng mạc ; trong lịch sử, nền dân chủ nông nghiệp này có trước nền dân chủ tư sản của phương Tây. Tính dân chủ bình đẳng kéo theo mặt trái là thói dựa dẫm, ỷ lại và thói đố kị, cào bằng.

1. Tổ chức nông thôn theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội Trong một làng, phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; tuy nhiên nhiều làng có những bộ phận cư dân sinh sống bằng nghề khác, họ liên kết chặt chẽ với nhau, khiến cho nông thôn Việt Nam có thêm một nguyên tắc tổ chức thứ ba là tổ chức theo nghề nghiệp, tạo thành đơn vị gọi là PHƯỜNG. Ở nông thôn có thể gặp hàng loạt phường như phường gốm làm sành sứ, phường nề làm nghề xây cất, phường chài làm nghề đánh cá, phường vải làm nghề dệt vải, rồi những phường nón , phường giấy , phường mộc , phường thợ tiện, phường đúc đồng...

Bên cạnh phường để liên kết những người cùng nghề, ở nông thôn Việt Nam và mở rộng ra là xã hội Việt Nam nói chung, còn có HỘI là tổ chức nhằm liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: Hội tư văn liên kết các quan văn cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong làng không ra làm quan, hội võ phả liên kết những người theo nghề võ, hội bô lão liên kết các cụ ông, hội chư bà liên kết các cụ bà đi chùa, rồi còn hội tổ tôm , hội chọi gà , hội cờ tướng , v. Phường và hội rất gần nhau, nhưng phường thì mang tính chất chuyên môn sâu hơn và bao giờ cũng giới hạn trong quy mô nhỏ.

Cũng giống như tổ chức nông thôn theo địa bàn cư trú, tổ chức theo nghề nghiệp và sở thích là sự liên kết theo chiều ngang, cho nên đặc trưng của phường hội là tính dân chủ - những người cùng phường hội có trách nhiệm tương trợ giúp đỡ lẫn nhau.

1. Tổ chức nông thôn theo truyền thống nam giới: Giáp Đây là hình thức tổ chức có lẽ xuất hiện muộn sau này. Nó tạo nên cái đơn vị gọi là GIÁP. Đứng đầu giáp là ông cai giáp [câu đương]; giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh

  • lềnh nhất, lềnh hai, lệnh ba [từ chữ lệnh mà ra]. Đặc điểm của giáp là: [a] chỉ có đàn ông tham gia, và [b] mang tính chất “cha truyền con nối”, cha ở giáp nào thì con cũng vào giáp ấy. Trong nội bộ giáp phân biệt ba lớp tuổi chủ yếu: ti ấu [từ nhỏ đến 18 tuổi], đinh [hoặc tráng: đinh = đứa; tráng = khỏe mạnh] và lão.

Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường tuổi lên lão là 60. Tuy nhiên, nhiều làng có lệ riêng quy định tuổi lên lão là 55 hoặc 50. Thậm chí có làng còn hạ tuổi lên lão xuống 49 [bởi lẽ 49 thường là tuổi hạn, tổ chức lên lão sớm cho chắc chắn]. Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp, cả làng trọng vọng. Cách tổ chức nông thôn theo “giáp” ra đời muộn, nhưng nó lại xây dựng trên nguyên tắc trọng tuổi già

là truyền thống rất lâu đời. Sở dĩ như vậy là vì, khác với các nền văn hóa gốc du mục trọng sức mạnh, cư dân nông nghiệp sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên cần những người giàu kinh nghiệm - điều chỉ có được ở tuổi già.

Ở các dân tộc miền núi, nơi hầu như không chịu ảnh hường của văn hóa Trung Hoa, từ ngàn xưa cho đến tận ngày nay già làng, hội đồng già làng vẫn nắm toàn bộ quyền hành. Ở vùng người Việt [miền xuôi], quyền hành thực sự trong làng đã được chuyển giao cho lớp trẻ hơn; tuy nhiên, truyền thống trọng lão vẫn được duy trì - người ta vẫn kính lão đắc thọ; kính già, già để tuổi cho. Khi làng có việc, các cụ già tùy theo tuổi tác, được ngồi ngang hàng với các quan viên chức sắc; quy định phổ biến là các cụ già 60 tuổi ngang với tú tài , 70 tuổi ngang với cử nhân , 80 tuổi ngang với tiến sĩ. Có nơi tôn xưng gọi các cụ già là quan lão. Vị trí do tuổi tác mang lại gọi là xỉ tước [ xỉ = răng, gãy răng là dấu hiệu của tuổi già] hoặc thiên tước [tước vị trời cho].

Giáp là một tổ chức mang tính hai mặt - nó vừa được tổ chức theo chiều dọc [theo lớp tuổi], lại vừa được tổ chức theo chiều ngang [những người cùng làng]. Cho nên, một mặt, giáp mang tính tôn ti , nó là một môi trường tiến thân bằng tuổi tác: Sống lâu lên lão làng ; mặt khác, giáp lại cũng có tính dân chủ : tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi đều bình đẳng như nhau, cứ đến tuổi ấy thì sẽ có địa vị ấy.

1. Tổ chức nông thôn theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã Về mặt hành chính, làng được gọi là XÃ [đôi khi một xã cũng có thể gồm vài làng], xóm được gọi là THÔN [đôi khi một thôn cũng thể gồm vài xóm]. Nông thôn Nam Bộ còn có ấp [ấp là xã thôn lập ra ở nơi mới khai khẩn hoặc thôn ở biệt lập].

Trong xã, sự phân biệt rõ rệt nhất là phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư [còn gọi là dân nội tịch và dân ngoại tịch ]. Dân chính cư là dân gốc ở làng ấy, còn dân ngụ cư là dân từ nơi khác đến trú ngụ. Sự phân biệt này hết sức gắt gao: dân chính cư có đủ mọi quyền lợi, còn dân ngụ cư luôn bị khinh rẻ. Sự đối lập này không phải là con đẻ của chế độ phong kiến như người ta thường nghe mà chính là sản phẩm của cơ chế văn hóa nông nghiệp: đó là một phương tiện duy trì sự ổn định của làng xã [xem thêm III§2]. Nó nhằm hạn chế việc người nông dân bỏ làng đi ra ngoài, cũng như hạn chế không cho người ngoài vào sống ở làng. Bất kì ai, ở bất kì làng nào, nếu bỏ làng mình ra đi thì sẽ không đâu dung nạp, sẽ rơi vào thân phận đáng sự của dân ngụ cư.

Người ta lại cũng hay nói tời việc người Việt Nam đời đời kiếp kiếp gắn bó với làng quê, với “quê cha đất tổ”, vời nơi “chôn nhau cắt rốn” như một thứ tình yêu quê hương đặc biệt. Thực ra, đó không phải là cái gì khác mà chính là một hệ quả của sự phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư được điều khiển một cách vô thức bởi nhu cầu ổn định làng xã: người ta sợ rơi vào thân phận dân ngụ cư nên không dám đi đâu. Ngày nay, khi sự

Cách thức tổ chức hộ máy hành chính xã thôn Việt Nam như vậy đã được hình thành dần dần như một sản phẩm lịch sử của quá trình phát triển văn hóa dân tộc.

1. Tính cộng đồng[ lk các thành viên] và tính tự trị - hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam 1.6. Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hưởng tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại.

Sản phẩm của tính cộng đồng ấy là một tập thể làng xã mang tính tự trị : làng nào biết làng ấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau 1 và phần nào độc lập với triều đình phong kiến. Mỗi làng là một “VƯƠNG QUỐC” nhỏ khép kín với luật pháp riêng [mà các làng gọi là hương ước ] và “tiểu triều đình” riêng [trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là cơ quan hành pháp; nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ 2 ]. Sự biệt lập đó tạo nên truyền thống phép vua thua lệ làng. Tình trạng này thể hiện quan hệ dân chủ đặc biệt giữa nhà nước phong kiến với làng xã ở Việt Nam.

Ông Phạm Văn Đồng [1994] từng nhận định: “Trong lịch sử lâu đời của dân tộc, làng ... vừa có tính đẳng cấp phong kiến [= tôn ti - TNT], vừa có tính cộng đồng [= dân chủ - TNT] rất đáng quý. Lúc bấy giờ câu nói “Phép vua thua lệ làng” có cái đạo lí chân chính của nó thể hiện một dạng dân chủ mà phải biết nhìn với con mắt lịch sử thì mới thấy hết ý nghĩa độc đáo”.

Trải qua các triều đại, nhà nước phong kiến luôn tìm cách nắm chặt bộ máy xã thôn nhưng luôn thất bại. Cố gắng lớn nhất là vào đời Trần Thái Tông [1225-1258], nhà nước cử ra những “xã quan” đại diện cho quyền lợi của chính quyền trung ương vế nắm cạnh bộ máy làng xã nhưng đến đời Trần Thuận Tôn [1388-1397] thì phải bãi bỏ Đời Lê, cố gắng này lạt được lặp lai [Lê Thánh Tông đổi “xã quan” thành “xã trường”], nhưng tử thế kỉ XV trở đi, triều đình lại phải lùi bước xã trường trả về cho dân cử. Ý đồ này được lặp lại một lấn thứ ba dưới thời Pháp thuộc : Năm 1904 ở Nam Kì và 1921 ở Bắc Kì, thực dân Pháp ban bố những nghị định nhằm cải tổ lại bộ máy hành chính cấp xã [gọi là Chính sách Cải lương hương chính ]. Nhưng, cũng như những lấn trước, cuộc cái tổ này cũng không tránh khỏi thất bại, cho nên năm 1927 chính quyền thực dân phải ban bố một nghị định có chiếu cố nhiều hơn đến cơ cấu cố truyền và năm 1941 thì vai trò của dân làng trong việc tổ chức bộ máy hành chính địa phương lại được nới rộng hơn nữa. Năm 1905, sau 5 năm rưỡi giữ chức Toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer trong cuốn hồi kí của

1 Hiện t ợng “kết chạ” [kết nghĩa anh em giữa các làng] chỉ phổ biếnƣ ở một vùng nhất định, không phổ biến rộng rãi. 2 Tứ trụ là bốn chức quan cột trụ của triều đình phong kiến.

mình đã rút ra kết luận: “Theo tôi, duy trì trọn vẹn, thậm chí tăng cường cách tổ chức cũ kĩ mà chúng ta đã thấy, là một điều tốt. Theo cách tố chức này thì mỗi làng xã sẽ là một nước cộng hòa nhỏ , độc lập trong giới hạn những quyền lợi địa phương. Đó là một tập thế được tổ chức rất chặt chẽ, rất có kỉ luật, và rất có trách nhiệm đối với chính quyền cấp trên về cá nhân những thành viên của nó”.

Tính cộng đồng và tính tự trị chính là hai đặc trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã; chúng tồn tại song song như hai mặt của một vấn đề.

1.6. Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình – bến nước - cây đa. Làng nào cũng có một CÁI ĐÌNH. Đó là biểu tượng tập trung nhất của làng về mọi phương diện. Trước hết, nó là một trung tâm hành chính , nơi diễn ra mọi công việc quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thu thuế, nơi giam giữ và xử tội phạm nhân... Thứ đến, đình là một trung tâm văn hóa , nơi tổ chức các hội hè, ăn uống [do vậy mà có từ đình đám ], nơi hiểu diễn chèo tuồng. Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo : Thế đất, hướng đình được xem là quyết định vận mệnh cả làng; đình cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo trợ cho dân làng. Cuối cùng, đình là một t rung tâm về mặt tình cảm : Nói đến làng là nghĩ đến cái đình với tất cả những tình cảm gắn bó thân thương nhất: Qua đình ngả nón trông đình, đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu...

Có người cho rằng đình có nguồn gốc Trung Hoa. Thực ra, nó chỉ là một tên gọi mới, phổ biến trong người Việt miền xuôi để chỉ một khái niệm cũ, một kiến trúc truyền thống rất lâu đời mà cho đến tận ngày nay vẫn còn tồn tại vời tên gọi nhà rông. Nhà rông và đình chỉ là những tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm, chúng có cùng chức năng và kiểu kiến trúc, là hậu thân của những ngôi nhà làng thời Hùng Vương với sàn cao và mái cong hình thuyền mà ta vẫn thấy khắc trên các trống đồng. Đình làng Đình Bảng [Bắc Ninh] làm vào thế kỉ XVIII vẫn theo lối nhà sàn [xem hình 5].

Do ảnh hưởng của trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất cả mọi nghi dần dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ quần tụ lại nơi BẾN NƯỚC [ở những làng không có sông chảy qua thì có GIẾNG nước] - chỗ hàng ngày chị em gặp nhau cùng rửa rau, vo gạo, giặt giũ, chuyện trò.

CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói hương nghi ngút - đó là nơi hội tụ của thánh thần: Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề; Sợ thần sợ cả cây đa. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ chỉ những người đi làm đồng, những khách qua đường... Nhờ khách qua đường, gốc cây đa trở thành cánh cửa sổ liên thông làng với thế giới bên ngoài.

Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LŨY TRE. Rặng tre bao kín quanh làng, trở thành một thứ thành lũy kiên cố bất khả xâm phạm: đốt không cháy, trèo không được,

Một nhược điểm trầm trọng thứ ba là thói cào bằng, đố kị , không muốn cho ai hơn mình [để cho tất cả đều đồng nhất, giống nhau!]: Xấu đều hơn tốt lỏi; Khôn độc không bằng ngốc đàn; Chết một đống còn hơn sống một người... Những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở Việt Nam, khái niệm “giá trị” trở nên hết sức tương đối [nó khẳng định đặc điểm tính chủ quan của lối tư duy nông nghiệp]: Cái tốt, nhưng mà tốt riêng rẽ thì trở thành xấu [ khôn độc không bằng ngốc đàn ]; ngược lại, cái xấu, nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình thường: Toét mắt là tại hướng đình, Cả làng cùng toét, riêng mình em đâu!

1.6. Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào SỰ KHÁC BIỆT. Khởi đầu là sự khác biệt của cộng đồng [làng, họ] này so với cộng đồng [làng, họ] khác. Sự khác biệt - cơ sở của tính tự trị - tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể phải tự lo liệu lấy mọi việc. Vì phải tự lo liệu, nên người Việt Nam có truyền thống cần cù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Nó cũng tạo nên nếp sống tự cấp tự túc : mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống của làng mình; mỗi nhà có vườn rau, chuồng gà, ao cá - tự đảm bảo nhu cầu về ăn; có bụi tre, rặng xoan, gốc mít - tự đảm bảo nhu cầu về ở. Mặt khác, cũng chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt - cơ sở của tính tự trị - mà người Việt Nam có thói xấu là óc tư hữu ích kỷ : Bè ai người nấy chống; Ruộng ai người nấy đắp bờ; Ai có thân người nấy lo, ai có bò người nấy giữ, Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu... Óc tư hữu ích kỉ nảy sinh ra từ tính tự trị của làng xã Việt và đã luôn bị chính người Việt phê phán: Của mình thì giữ bo bo, Của người thì để cho bò nó ăn; Của người bồ tát, lúa mình buộc lạt...

Thói xấu thứ hai có nguồn gốc từ tính tự trị là óc bè phái, địa phương cục bộ , làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vẹn cho địa phương mình: Trống làng nào làng nấy đánh, Thánh làng nào làng nấy thờ; Trâu ta ăn cỏ đồng ta; Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn...

Một biểu hiện thứ ba của tính khác biệt - cơ sở của tính tự trị - là óc gia trưởng - tôn ti : Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn theo huyết thống, tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia trưởng, tạo nên tâm lí quyền huynh thế phụ , áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lí: Sống lâu lên lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu , thì nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất là khi mà thói gia đình chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn. Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy. Cả hai quy định tính cách của dân tộc. Cuộc sống nông nghiệp lúa nước và lối tư duy biến chứng, như ta đã biết, dẫn đến sự hình thành nguyên lí âm dương và lối ứng xử nước đôi. Cho nên tính chất nước đôi chính là một đặc điểm tính cách của dân tộc Việt. Người Việt đồng thời vừa có tinh

thần đoàn kết tương trợ lại vừa có óc tư hữu, ích kỉ và thói cào bằng ; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có óc bè phái, địa phương ; vừa có nếp sống dân chủ bình đắng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti ; vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân ; vừa có tính cần cù và nếp sống tự cấp tự túc lại vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại. Tất cả những cái tết và cái xấu ấy cứ đi thành từng cặp và đều tồn tại ở người Việt Nam; bởi lẽ tất cả đều bắt nguồn từ hai đặc trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà mặt tốt hoặc mặt xấu sẽ được phát huy: Khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ đe doạ sự sống còn của cả cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết và tính tập thể; nhưng khi nguy cơ ấy qua đi rồi thì thói tư hữu và óc bè phái địa phương có thể lại nổi lên.

1. Làng Nam Bộ Đến thời Nguyễn, việc khai phá đồng bằng Nam Bộ đã đem lại thêm một khuôn mặt mới cho làng xã Việt Nam. Nông thôn Nam bộ cũng tổ chia thành làng, nhưng nếu như làng xã Bắc Bộ cổ truyền tự trị khép kín thì nét đặc trưng chung của thôn ấp Nam bộ là tính mở : Làng Nam Bộ không có lũy tre dày đặc bao quanh với cái cổng làng sớm mở tối đóng như làng Bắc Bộ. Ở vùng đất cao [gọi là miệt giồng ], bờ tre chỉ còn là một biểu tượng đánh dấu ranh giới các ấp thôn; ở vùng sông nước [ miệt sông ], thôn ấp trải dài dọc theo các kênh rạch. Thành phần dân cư của làng Nam Bộ thường hay biến động, người dân không bị gắn chặt với quê hương như ở làng Bắc Bộ. Tính cách người nông dân Nam Bộ do vậy cũng trở nên phóng khoáng hơn: Làm bao nhiêu ăn nhậu bấy nhiêu, được đến đâu hay đến đó.

Mọi sự đổi thay đều có lí do của nó. Thành phần cư dân hay biến động vì nơi đây còn nhiều miền đất chưa khai phá, người dân có thể rời làng tìm đến chỗ dễ làm ăn hơn. Việc tổ chức thôn ấp theo các dòng kênh, các trục giao thông thuận tiện là sản phẩm của thời đại, khi kinh tế hàng hóa đã bắt đầu phát triển. Tính cách phóng khoáng là do thiên nhiên Nam bộ ưu đãi khí hậu ổn định, hầu như ít gặp thiên tai bắt thương. Vì làng Nam Bộ có cấu trúc mở, tính cách người Nam Bộ phóng khoáng, nên vùng này dễ tiếp nhận hơn những ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa phương Tây [kể cả những ảnh hưởng tiêu cực thời Pháp, Mĩ].

Tuy nhiên, dù hay biến động, người Nam Bộ vẫn sống thành làng với thấp thoáng bóng tre , mỗi làng vẫn có một ngôi đình với tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng [dù chỉ là “Thành Hoàng” chung chung], hàng

chính là môi trường sống, là tập tục cộng đồng chủ yếu của người Việt Nam. Còn làng xã ở phương Tây thì, như Mác nói, nó chỉ là một tập hợp rời rạc như cái “bao tải khoai tây”.

Cá nhân Bảng 3: So sánh tổ chức xã hội của Việt Nam và phương Tây Vùng [tỉnh] ở Việt Nam là không quan trọng; trong khi đó thì ở phương Tây, mỗi vùng là lãnh địa riêng của một lãnh chúa. Thời kì tư bản, những lãnh địa đó chuyển thành các bang, và nhà nước trở thành liên bang. Mỗi bang là một vương quốc nhỏ, thường có luật pháp riêng. Ranh giới giữa các bang rất rõ ràng.

Con người Việt Nam sống trong tập thể nhỏ là làng , nhưng để chống lụt và chống ngoại xâm thì phải tập hợp với nhau, thành nước. Bởi vậy mà đối với người Việt Nam, quốc gia và ranh giới quốc gia là rất đỗi thiêng liêng [xem thêm III-§2.1]. Không phải ngẫu nhiên mà khi nói đến Việt Nam và một số dân tộc phương Đông, người phương Tây thường nghĩ ngay đến ý thức quốc gia và tinh thần dân tộc như những đặc trưng nổi bật nhất. Trong khi đó thì ở phương Tây, ranh giới quốc gia rất mờ: Người du mục xưa quen sống lang thang. Người phương Tây nay đi qua biên giới quốc gia một cách dễ đàng. Con người sinh ra ở nước này, khi lớn lên, có thể chuyển qua nước khác làm ăn, sinh sống, lấy vợ lấy chồng mà không hề phải băn khoăn.

Không chỉ ở Châu Âu, mà ngay ở khu vực Trung Hoa cũng vậy, những người hiền tài đời xưa, khi không hài lòng với ông vua của mình đều có thế dễ dàng đi qua nước khác, tìm ông vua khác mà phục vụ. Họ không bị trói buộc bởi ý thức quốc gia, họ đi tìm minh chủ với chí hướng “bình thiên hạ” [ thiên hạ = thế giới]. Trong một bài giảng đầu năm 1924, Tôn Trung Sơn nhận xét rằng “mấy trăm năm trước thì Trung Quốc hoàn toàn không có chủ nghĩa dân tộc”, sở dĩ như vậy là vì mất nghìn năm nay, Trung Quốc vốn thực hiện chủ nghĩa bình định thiên hạ, đã chinh phục hết các tiểu quốc ở châu Á”

Người Việt Nam, do ý thức quốc gia lớn, cho nên thường ít quan tâm đến những vấn đề quốc tế [cũng như người nông dân quan tâm đến việc trong làng và thờ ơ với việc ngoài làng]. Ở phương Tây, các quốc gia phong kiến luôn quan hệ mật thiết với nhau, dù là chiến tranh hay hòa bình. Thời tư bản, giới tư sản các nước liên minh với nhau; khối công nhân cũng lien hiệp lại, tạo nên tinh thần quốc tế vô sản.

Cấấp độ Lo i hìnhạ

Làng xã Vùng [t nh]ỉ Quốấc gia Quốấc tếấ

Vi t Namệ – + – + – Ph ng Tấyƣơ + – + – +

2.1. Nước là sự mở rộng của làng**_. Chức năng nhiệm vụ_** của nước cũng giống như chức năng nhiệm vụ của làng - ứng phó với môi trường tự nhiên và ứng phó với môi trường xã hội - chỉ có quy mô là khác nhau.

Nếu ứng phó với môi trường tự nhiên ở phạm vi làng là liên lết lại để sản xuất chủ Kịp thời vụ, thì ở phạm vi quốc gia là chống thiên tai, đặc biệt là ứng phó với lũ lụt. Đông Nam Á là vùng sông nước, cho nên lũ lụt là hiện tượng ghê gớm nhất. Từ khi lập quốc, chống lụt đã là nhiệm vụ hàng đầu của quốc gia, tự sinh tồn của dân tộc. Lịch sử Việt Nam là lịch sử đắp đê. Truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh , một trong những truyền thuyết sớm nhất, chính là một bài ca chống lụt.

Nhiệm vụ thứ hai là ứng phó với môi trường xã hội, ở cấp độ làng là chống trộm cướp, trong phạm vi quốc gia là chống giặc ngoại xâm. Do vị trí địa lí đặc biệt của mình, Việt Nam cũng là nước không may phải liên tục đối phó với nạn ngoại xâm. Truyền thuyết Thánh Gióng là câu chuyện quan trọng thứ hai của thời kì dựng nước.

2.1. Việc chống ngoại xâm đòi hỏi phải có tinh thần đoàn kết toàn dân và lòng yêu nước. Hai điều kiện này là sản phẩm sẵn có của tính cộng đồng và tính tự trị làng xã.

Khởi nguồn từ cuộc sống nông nghiệp, tính cộng đồng coi mọi người trong làng như anh chị em trong nhà đã chuyển thành ý thức cộng đồng trong phạm vi quốc gia: Bầu ơi thương lấy bí cùng, Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng. Tính cộng đồng trong phạm vi làng là cơ sở tạo nên tính đồng nhất trong hàng loạt lĩnh vực: đồng tộc, đồng niên, đồng nghiệp, đồng hương... và tất yếu dẫn đến sự đồng nhất trong phạm vi quốc gia: đồng bào [sinh ra từ cùng một bọc trứng]. TINH THẦN ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN từ đó mà ra.

Trên phương diện tính tự trị , làng xã và quốc gia của người Việt Nam và các nước có nền văn hóa nông nghiệp đều mang tính khép kín như nhau, dẫn đến ý thức quốc gia rất mạnh [chính vì vậy mà ở các nước phương Đông hay nảy sinh những xu hướng quốc gia chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa cực đoan]. Cũng giống như người bỏ làng ra đi bị xem là dân ngụ cư, bị khinh rẻ, người Việt Nam truyền thống có tâm lí xem việc bỏ quê hương ra nước ngoài sinh sống là việc tày trời, trong lịch sử nhiều khi nó thậm chí được xem là một sự phản bội, một trọng tội. Ý THỨC ĐỘC LẬP DÂN TỘC và LÕNG YÊU NƯỚC mãnh liệt từ đó mà ra.

2.1. Sự khác biệt cơ bản của tổ chức quốc gia so với tổ chức làng xã là ở chỗ: Ở phạm vi nhỏ, mọi người quen biết nhau thì cách tổ chức tốt nhất là sống theo tình cảm; nhưng khi ra phạm vi lớn, dân đông hơn mà lại không quen biết nhau thì việc tổ chức và quản lí đòi hỏi phải chặt chẽ hơn, cũng tức là phải tăng cường chất DƯƠNG TÍNH hơn. Chính vì vậy mà biện pháp tất yếu để tổ chức xã hội là từ tự phát [thời Hùng Vương] tới

của dân Việt khác luật của người Hán đến hơn mười điều”. Sau khi dẹp yên loạn 12 sứ quân, để củng cố chính quyền, năm 968 Đinh Tiên Hoàng đã nâng cao hiệu lực của pháp luật lên một bước bằng cách định ra những hình phạt hà khắc như nấu trong vạc lớn đặt ở sân triều, cho hổ dữ nuôi trong cái ăn thịt... Thời Lí có bộ luật Hình thư gồm 3 quyển do Lí Thái Tông ban hành năm 1042; thời Trần có bộ Quốc triều hình luật gồm 1 quyển ban hành năm 1244; đời Lê có bộ Quốc triều hình luật [còn gọi là Lê triều hình luật ] gồm 6 quyển do Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức ban hành năm 1489 gồm 6 quyển vời 722 điều [thường gọi là luật Hồng Đức ]. Đời Nguyễn có bộ Luật Gia Long ban hành năm 1815, sau trở thành Hoàng triều luật lệ. Trải qua các cơn binh lửa, trong số các bộ luật trên chỉ có Luật Hồng Đức và Luật Gia Long là còn giữ được. Hai bộ luật này đều ra đời vào thời kì Nho giáo là quốc giáo, nên chúng chịu ảnh hường khá nhiều của luật Trung Hoa [Minh, Thanh].

2. Nước với truyền thống dân chủ của văn hóa nông nghiệp Nếu việc tổ chức chặt chẽ quy củ khiến cho nhà nước phong kiến Việt Nam khác biệt với làng xã [và giống nhà nước trung Hoa và phương Tây] thì truyền thống dân chủ lại làm cho nhà nước phong kiến Việt Nam giống với làng xã [và khác biệt quan trọng so với nhà nước Trung Hoa và phương Tây]. Làng ứng xử với nhau theo tình cảm tạo nên truyền thống dân chủ, nước tuy có tổ chức chặt chẽ hơn nhưng trên đại thể vẫn duy trì quyền thống dân chủ ấy.

2.2. Đứng đầu nước là vua. Vua Việt Nam không quá chuyên chế độc đoán như phương Tây và tạo cho mình một thế uy nghiêm của ông “con trời” như ở Trung Hoa 1 mà đi lên từ thủ lĩnh buôn làng, coi dân như con cháu mình. Trong tiếng Việt, từ vua và bố xuất phát từ cùng một gốc. Thời Hùng Vương, từ “bô” [với các biến thể pò, pô, bồ ] vừa có nghĩa là cha vừa có nghĩa là thủ lĩnh của dân làng - già làng: Pô Inư Nagar trong tiếng Chàm, Pô t’rinh trong các ngôn ngữ Tây Nguyên, Pò chiêng trong tiếng Tày-Thái [mà người Hán phiên âm là Bồ chính ]... Từ một từ “bô”, ban đầu, dần dần được phân hóa ra, một đằng chuyển thành bô, một đằng chuyển thành vua: bố  Bô  bua 2  vua. Không phải ngẫu nhiên mà lãnh tụ khởi nghĩa Phùng Hưng [766-791] được dân tôn làm Bố cái đại vương [ bố cái = cha mẹ]. Chữ Nôm của ta ghi chữ “vua” 𤠀 gồm chữ “vương” 王 ở trên để chỉ nghĩa và chữ “bố” 布 ở dưới chỉ âm. Vua nông nghiệp gắn bó với đất đai, với truyền thống tư duy văn hóa khu vực. Trong Ngũ hành, hành Thổ là quan trọng nhất, cho nên vật biểu của hành Thổ là Người - con người ở trung ương cai quản muôn loài. Vua cai quản muôn dân, nên ở Việt Nam và Trong

1 Trong tiếng Hán thì chữ “Quân” 君 là ng ời cai trị [Vua] lại đ ợc ghép từ chữ doãn ƣ ƣ 尹 và chữ khẩu 口, trong đó chữ doãn mô phỏng hình tay cầm gậy, t ợng tr ng quyền lực: Vuaƣ ƣ là ng ời ra lệnh bằng sức mạnh củaƣ quyền lực. 2 Ng ời M ờng gọi vua Việt là ƣ ƣ bua Dịt. Từ điển của A. de Rhodes cũng ghi âm này là bua.

Hoa, vua mặc áo màu vàng, tức là giành màu của hành thổ, trung ương cho riêng mình [xem II-§2].

Truyền thống dân chủ giữa người lãnh đạo với dân chúng duy trì gần như suốt lịch sử. Sử sách Trung Hoa ghi rằng khi người Hán vào Việt Nam, các quan lại địa phương, không phân biệt rạch ròi ngôi thứ, có thể gọi con hát vào rồi cùng nắm tay nhảy múa, hát hò với họ. Theo lời kể của một sứ thần trung Hoa đến Việt Nam năm 990 thì vua và triều đình nước Việt sinh hoạt rất bình dị: “Lê Hoàn đi chân đất xuống nước và câu cá bằng một cần câu tre dài; mỗi lần nhà vua câu được một con cá thì quần thần nhảy lên reo mừng”. Sử sách chép nhiều chuyện cảm động về sự quan tâm của các vua thời Lí-Trần đến dân chúng và tù nhân. Việc vua xuất của trong kho ra phát chẩn cho dân mỗi khi đói kém, mất mùa cũng là việc xưa thường thấy.

Truyền thống dân chủ ở Việt Nam không chỉ bộc lộ trong quan hệ giữa lãnh đạo với người dân mà còn bộc lộ trong quan hệ giữa người dân với thánh thần, giữa con người với loài vật. Dân thờ cúng thánh thần và đòi hỏi thánh thần phải có trách nhiệm “phù hộ” cho dân; nếu không, dân có thể “trừng trị” thánh thần hoặc lên “kiện” Trời. Còn đây là lời tâm sự bình đẳng thân tình của người nông dân với con trâu của mình: Trâu ơi ta bảo trâu này ; Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta, Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công, Bao giờ cây lúa trổ bông, Thì còn ngọn nó ngoài đồng trâu ăn...

2.2. Tính dân chủ trong việc tổ chức quốc gia Việt Nam cũng bộc lộ qua truyền thống lãnh đạo tập thể.

Khởi nguồn từ tổ chức làng xã và những hình thức Hội đồng già làng. Hội đồng kì mục, truyền thống lãnh đạo tập thể ở cấp quốc gia đi từ quan hệ huyết thống như _vua chị

  • vua em_ [Trưng Trắc và Trưng Nhị], vua anh - vua em [Ngô Xương Văn, Ngô Xương Ngập; ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễ Huệ, Nguyên Lữ], vua cha – vua con với hình thức Thái thượng hoàng [thời Trần, thời Hồ và thời Mạc], đến quan hệ xã hội mang tính pháp lí vua-chúa [vua Lê - chúa Trịnh] theo nguyên tắc “Hoàng gia giữ uy phúc, vương phủ giữ quyền bính” [vua có địa vị cao nhưng quyền lực nhỏ, còn chúa thì địa vị thấp nhưng thực quyền lớn]. Sự phân chia này được cả hai bên chấp thuận và thực hiện nghiêm chỉnh: Vua thừa nhận quyền lực và không can dự vào công việc của chúa; chúa bằng lòng với vị trí bề tôi và giữ lệ tôn kính đối với vui [khi thiết triều, chúa ngồi ở vị trí thấp hơn, phía bên trái nhà vua; khi nhận chức, chúa phải quỳ nhận sắc phong và áo mũ vua ban. Truyền thống lãnh đạo tập thể này là sản phẩm của lối từ duy tổng hợp và biện chứng, hay đắn đo cân nhắc không muốn làm mất lòng ai của người Việt Nam [trong khi đó thì ở các nền văn hóa trọng sức mạnh lại thường xuyên xảy ra việc anh em, cha con, chú cháu... lập mưu giết nhau để giành ngôi].

Truyền thống lãnh đạo tập thể một cách dân chủ này vẫn tiếp tục phát huy tác dụng vào thời nay theo nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Người thủ trưởng

cho người phụ nữ: đã để tang cha mẹ chồng [= đóng góp về mặt tinh thần], đã làm cho nhà chồng trở nên giàu có [= đóng góp về mặt kinh tế], ngoài nhà chồng ra không còn nơi nương tựa [= vấn đề đạo lí]. Luật Gia Long cũng cấm chống không được bán vợ, không được bắt vợ làm thuê, không được hạ vợ chính xuống làm nàng hầu...

2.2. Truyền thống dân chủ nông nghiệp còn thể hiện trong việc tuyển chọn người vào bộ máy quan lại. Ở phương Tây, bộ máy quan lại phong kiến [với các tước vị công, hầu, bá, tử, nam] được bổ nhiệm theo lối cha truyền con nối. Còn ở Việt Nam và một số nước phương Đông thì việc tuyển chọn quan lại được tiến hành theo con đường thi cử. Con nhà nghèo nếu thông minh chăm chỉ thi đỗ trạng nguyên thì một bước có thể trở thành quan to.

Khoa thi

Hình thức

Xếp loại Danh hiệu, học vị người đỗ

Tên dân gian

Người đỗ đầu

A- Thi Hương

Tam trường II

Sinh đồ Tú tài [từ năm 1829]

Ô. Đồ Ô. Tú Giải nguyên T A M N G U Y Ê N Tứ trường I

Hương cống  Cử nhân [từ năm 1829]

Ô. Cống Ô. Cử B- Thi Hội Tứtrường

II Phó bảng [từ năm 1829] Hội I Thái học sinh  nguyên Tiến sĩ [từ năm 1370]

Ô. Nghè

C- Thi Hương

Thi trong nội điện

Tam giáp [từ 1232]

3- Đồng Tiến sĩ xuất thân Ô. Nghè

Đình nguyên

2- TS xuất thân [Hoàng giáp] Ô. Hoàng

1- TS cập đệ

Tam khôi

3-Thám hoa Ô. Thám 2-Bảng Nhãn Ô. Bảng 1-Trạng Nguyên Ô. Trạng Bảng 3: Các hình thức thi cử và học vị Việc học hành thi cử ngày xưa tiến hành theo một cách thức rất khác bây giờ. Nhà nước chỉ tổ chức một vài trường học cho con em quan lại, kiểu như Quốc Tử Giám. Còn lại, nhà nước thả nổi, dân tự lo lấy. Việc thi cử được tổ chức theo chế độ tam khoa: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Hương là làng, thi Hương là thi ở cấp cơ sở cho các thí sinh một tỉnh hoặc một số tỉnh; thi Hương qua được 3 kì gọi là Sinh đồ, vượt qua được 4 kì thì gọi là Hương cống. Hai danh hiệu này từ thời Mình Mạng [1829] đổi thành Tú tài và Cử nhân Đỗ Hương cống [Cử nhân] rồi mới được tham gia vào thi Hội. Hội là họp lại, tập trung lại. Thi Hội tổ chức ở quy mô vùng lớn hoặc ở kinh đô. Thi Hội đỗ thì thành Tiến sĩ [tiến sĩ là kẻ sĩ có tài được tiến cử cho vua dùng]. Đỗ tiến sĩ mới được dự vào thi Đình. Thi Đình nhằm xếp các tiến sĩ thành ba loại gọi là Tam giáp : Tiến sĩ cập đệ [tiến sĩ đệ Nhất giáp], tiễn sĩ xuất thân [tiến sĩ đệ Nhị giáp], đồng tiến sĩ xuất thân [tiến sĩ đệ Tam

giáp]. Bậc tiến sĩ cập đệ từ 1244 lại chia thành Tam khôi : Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Thời Nguyễn không lấy đỗ Trạng nguyên bởi sợ đỗ cao dễ tự mãn sinh lòng phản nghịch. Bù vào đó, bổ sung thêm học vi Phó bảng [dưới tiến sĩ]. Mỗi khoa thi, người đỗ đầu có danh hiệu riêng: đỗ đầu thi Hương gọi là Giải nguyên, đỗ đầu thi Hội gọi là Hội nguyên, đỗ đầu thi Đình gọi là Đình nguyên. Đỗ đầu có 3 khoa thi được gọi là Tam nguyên [xem bảng 3 2].

2.2. Truyền thống văn hóa nông nghiệp trọng văn [trọng tình  trọng đức  trọng văn, xem I- §2] nên trong xã hội, kẻ sĩ [văn sĩ] được coi trọng nhất, đứng đầu danh mục các nghề trong xã hội: SĨ, NÔNG, CÔNG, THƯƠNG. Võ sĩ thuần túy ít được để ý văn sĩ khi cần có thể lo cả việc võ [chiến tranh] lẫn việc kinh tế. Sau trí thức là nông dân. Tuy nông đứng hàng thứ hai, song suy cho cùng thì nó vẫn là nghề cơ bản nuôi sống trí thức, nuôi sống cả cộng đồng và kiến tạo nên truyền thống văn hóa nông nghiệp : Nhất sĩ nhì nông, hạt gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.

Công và thương bị coi là những nghệ thấp kém. Công sở dĩ không được coi trọng vì cuộc sống nông nghiệp tự cấp tự túc ít nhu cầu trao đổi hàng hóa, nên sản xuất công nghiệp không được phát triển, chỉ dừng lại ở mức thủ công, nghề phụ. Thương là nghề bị coi rẻ nhất: dĩ nông vi bản, dĩ thương vi mạt [lấy nông làm gốc, lấy thương làm ngọn]. Sở dĩ có tình trạng như vậy là vì do tính cộng đồng, xã hội nông nghiệp sống theo tình cảm, trong khi nghề buôn bán lấy lợi nhuận làm đầu. Mặt khác, do tính tư trị, xã hội nông nghiệp tự cấp tự túc ít có nhu cầu mua bán 1 , mà người buôn bán thì vẫn cần phải sống, vì vậy họ phải tìm cách tăng lợi nhuận bất chính. Truyền thống thương nghiệp Việt Nam là gian dối: Gian tham mua quịt bán lường; Thật thà cũng thể lái trâu, Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng; Đấu hàng xáo, gáo hàng dầu... Vì gian dối nên dân buôn lại càng bị mọi người khinh ghét. Ngay cả nhà nước cũng chủ trương trọng nông, ức thương. Thời Hồng Đức nhà vua từng định đuổi những thị dân không có hộ khẩu ở Thăng Long về quê làm ruộng [song không thực hiện được]. Ở Việt Nam, cách nói đồ con buôn là lời chửi vào loại nặng nề nhất.

1 Ở nông thôn, 2 - 3 làng mới có một cái chợ; mỗi chợ cứ 5 – 7 hay 20 ngày mới họp một lần; và mỗi lần chỉ họp trong vài giờ.

Văn hóa đời sống bao gồm những mất gì?

Năm 2007, cuốn Lý luận văn hoá và đường lối văn hoá của Đảng cho rằng đời sống văn hoá bao gồm 4 yếu tố: văn hoá vật thể và phi vật thể; cảnh quan văn hoá; văn hoá cá nhân; văn hoá của các “tế bào” trong mỗi cộng đồng, từ đó đưa ra khái niệm: “Đời sống văn hoá là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng thể những ...

Biểu tượng của tính tự trị là gì?

Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là lũy tre. Rặng tre bao bọc quanh làng trở thành một thứ thành lũy kiên cố, bất khả xâm phạm. Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho xóm làng khác biệt hẳn ấp lý Trung Hoa, có thành quất bằng đất bao bọc.

Văn hóa đời sống thực chất là gì?

Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối sống mới và nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất. Bởi vì, có dựa trên nền đạo đức mới thì mới xây dựng được lối sống mới, nếp sống mới, và đạo đức mới lại được thể hiện trong lối sống và nếp sống.

Tổ chức làng xã La Gi?

Tư tưởng làng xã là sự phản ánh trên phương diện tư tưởng toàn bộ đời sống của cộng đồng cư dân nông thôn cùng chung sống trong một đơn vị hành chính làng xã nhất định. Làng xã là một hình thức tổ chức xã hội phổ biến của nông dân Việt Nam.

Chủ Đề