Ví dụ tính khách quan của phủ định biện chứng

Theo triết học Mác Lênin thì bất kể một sự vật một hiện tượng kỳ lạ nào trong quốc tế đều phải trải qua quy trình sinh ra, quy trình sống sót, tăng trưởng và sau đó là diệt vong .

Mỗi một sự vật mới ra đời chính là kết quả của sự phủ định sự vật cũ, điều này cũng có nghĩa là sự phủ định chính là tiền đề và là điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ, đây chính là phủ định biện chứng. Ở bài viết dưới đây sẽ nêu ví dụ về phủ định biện chứng.

>> >> >> Tham khảo : Phủ định là gì ?

Đặc điểm của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định, tự thân sự phát triển và là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của một sự vật mới, cái mới tiến bộ hơn sự vật cũ.

Bạn đang đọc: Ví dụ về phủ định biện chứng

Khi có sự phủ định thì sẽ là tàn phá những cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào cấu trúc của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự tăng trưởng tiếp theo và cho những cái mới sinh ra để thay thế sửa chữa cho cái cũ .

Trước khi đưa ra ví dụ về phủ định biện chứng thì cần nắm được các đặc điểm của phủ định biện chứng.

Phủ định biện chứng có những đặc thù như sau :

– Đặc điểm về tính khách quan

Nguyên nhân của sự phủ định nằm trong bản thân của sự vật và cũng chính là để xử lý những xích míc bên trong sự vật đó .
Mỗi sự vật sẽ có những phương pháp phủ định riêng tuỳ thuộc vào việc xử lý xích míc của bản thân chúng. Điều này có nghĩa là phủ định biện chứng không nhờ vào vào ý muốn cũng như là ý chí của mỗi con người. Con người chỉ hoàn toàn có thể ảnh hưởng tác động vào đó nhằm mục đích mục tiêu để làm cho quy trình phủ định ấy hoàn toàn có thể diễn ra một cách nhanh hay chậm dựa trên cơ sở nắm được những quy luật về sự tăng trưởng của sự vật .

– Đặc điểm về tính kế thừa

Do phủ định biện chứng là tác dụng sự tăng trưởng tự thân của sự vật do đó nó không hề là sự thủ tiêu hay là sự tự phá huỷ trọn vẹn những cái đã cũ .
Cái mới chỉ được sinh ra dựa trên nền tảng của cái cũ. Tuy nhiên cái mới sinh ra sẽ không xóa bỏ trọn vẹn những cái cũ mà đã có sự tinh lọc, giữ lại đồng thời tái tạo những mặt còn thích hợp cũng như những mặt tích cực. Cái mới này chỉ gạt bỏ những cái cũ, gạt bỏ những mặt xấu đi, những lỗi thời và lỗi thời gây cản trở cho sự tăng trưởng. Do đó phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định chắc chắn .

Những cái mới được tạo ra trong phủ định biện chứng là những cái biểu hiện sự phát triển phù hợp với quy luật của các sự vật, của hiện tượng, đây cũng là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong các quá trình phát triển.

Ví dụ tính khách quan của phủ định biện chứng

Ví dụ về phủ định của phủ định

Ví dụ về phủ định biện chứng cụ thể như sau: Quá trình nảy mầm của hạt giống. Trong ví dụ này mầm ra đời từ hạt giống, sự ra đời này chính là sự phủ định biện chứng đối với hạt, nhờ sự ra đời này thì mới có quá trình tiếp tục phát triển thành cây và sinh tồn.

Xem thêm: Dual Sim Là Gì – Điện Thoại Hai Sim Là Gì

Quá trình phủ định của phủ định diễn ra vô tận trong bản thân của mỗi sự vật và hiện tượng kỳ lạ từ đó tạo nên sự hoạt động, tăng trưởng vô tận của quốc tế vật chất . Ở mỗi chu kỳ luân hồi tăng trưởng khác nhau của những sự vật, hiện tượng kỳ lạ thường sẽ trải qua hai lần phủ định biện chứng. Điều này có nghĩa là trải qua một quy trình phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định sẽ kết thúc một chu kỳ luân hồi tăng trưởng nhưng đồng thời đây cũng lại là một điểm xuất phát của một chu kỳ luân hồi mới và chi kỳ này sẽ được lặp lại vô tận . Ví dụ về sự phủ định của phủ định như sau : Một quả trứng sẽ là sự khẳng định chắc chắn khởi đầu ở trong điều kiện kèm theo được ấp qua quy trình phủ định lần 1 sẽ tạo ra gà mái con tiếp đó trải qua quy trình phủ định lần 2 tức là khi gà mái con lớn lên thì sẽ sinh ra nhiều quả trứng .

Đây chính là tác dụng sự phủ định của phủ định. Sự tăng trưởng biện chứng trải qua mỗi lần phủ định biện chứng là sự thống nhất giữa vô hiệu, những thừa kế và tăng trưởng. Trải qua mỗi lần phủ định sẽ vô hiệu được những cái cũ, những yếu tố còn lỗi thời từ đó sẽ tạo ra được những cái mới hơn, những cái tương thích hơn với sự tăng trưởng .

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

Ví dụ tính khách quan của phủ định biện chứng

Ví dụ tính khách quan của phủ định biện chứng

XEM GIẢI BÀI TẬP SGK GDCD 10 - TẠI ĐÂY

Ví dụ tính khách quan của phủ định biện chứng
Đặt câu hỏi

Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học ra đời đầu tiên vào khoản thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ VI trước công nguyên, và đã trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau với các tư tưởng thích ứng với từng thời kỳ/ giai đoạn phát triển của lịch sử. Triết học Mác – Lênin ra đời cũng như là 1 tất yếu lịch sử, không chỉ là sự phản ánh thực tiễn xã hội, mà còn là sự phát triển hợp logic của lịch sử tư tưởng nhân loại.

Triết học đó đã khắc phục sự tách rời thế giới quan duy vật và phép biện chứng trong lịch sử phát triển của Triết học. Triết học Mác – Lênin, Ph.Ăngghen khẳng định: nó còn là một sự cần thiết tuyệt đối, trở thành hình thức tư duy quan trọng nhất, cao nhất, thích hợp nhất đối với sự phát triển của khoa học. Nó đem đến cho khoa học hiện đại những chức năng có ý nghĩa phương pháp luận trong việc xem xét, luận giải bản thân sự phát triển của mình.

Khái niệm phủ định dùng để chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác, giai đoạn vận động, phát triển này bằng giai đoạn vận động, phát triển khác. Theo nghĩa đó, không phải bất cứ sự phủ định nào cũng dẫn tới quá trình phát triển.

+ Khái niệm phủ định biện chứng dùng để chỉ sự phủ định tạo ra những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật.

Ví dụ, quá trình “hạt giống nảy mầm”. Trong trường hợp này: cái mầm ra đời từ cái hạt; sự ra đời của nó là sự phủ định biện chứng đối với cái hạt, nhờ đó giống loài này tiếp tục quá trình sinh tồn và phát triển.

2. Vai trò và đặc trưng của phép phủ định biện chứng:

–   Vai trò của phủ định biện chứng đối với sự phát triển

Phủ định biện chứng giữ vai trò tạo ra những điều kiện, tiền đề phát triển của sự vật bởi vì: phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định – xuất phát từ nhu cầu tất yếu của sự phát triển. Đồng thời quá trình phủ định đó, một mặt kế thừa được những yếu tố của sự vật cũ, cần thiết cho sự phát triển của nó, tạo ra khả năng phát huy mới của các nhân tố cũ; mặt khác lại khắc phục, lọc bỏ, vượt qua được những hạn chế của sự vật cũ, nhờ đó sự vật phát trển ở trình độ cao hơn.

–  Đặc trưng của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng là sự “tự thân phủ định”, tức là sự phủ định xuất phát từ nhu cầu tồn tại, phát triển của sự vật: sự vật chỉ có thể tồn tại, phát triển một khi nó tất yếu phải vượt qua hình thái cũ và tồn tại dưới hình thái mới. Tính chất đó của sự phủ định cũng còn gọi là tính khách quan của sự phủ định. Mặt khác, quá trình phủ định biện chứng cũng là quá trình bao hàm trong đó tính chất kế thừa – kế thừa các yếu tố nội dung cũ trong hình thái mới, nhờ đó chẳng những nội dung cũ được bảo tồn mà còn có thể phát huy vai trò tích cực của nó cho quá trình phát triển của sự vật.

  • Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.
  • Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.

Ví dụ, quá trình vận động của tư bản (k) từ hình thái tư bản tiền tệ sang hình thái tư bản hàng hoá (tư liệu sản xuất và sức lao động) là một sự phủ định trong quá trình vận động, phát triển của tư bản. Quá trình này có sự thay đổi hình thái tồn tại của tư bản nhưng nội dung giá trị của tư bản được bảo tồn dưới hình thái mới – hình thái có khả năng khi tiêu dùng trong sản xuất thì chẳng những có khả năng tái tạo giá trị cũ mà còn có khả năng làm tăng giá trị mới của tư bản.

–  “Phủ định của phủ định”

Khái niệm “phủ định của phủ định” hay “phủ định cái phủ định” hoặc “phủ định sự phủ định” có 2 nghĩa cơ bản:

+ Một là, dùng để chỉ quá trình phủ định lặp đi lặp lại trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. (A – B -C.., trong đó: A bị B phủ định, nhưng đến lượt nó lại bị C phủ định,…).

Ví dụ, quá trình vận động, phát triển của xã hội loài người: xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời là sự phủ định đối với xã hội nguyên thuỷ, đến lượt nó lại bị xã hội phong kiến phủ định,…

+ Hai là, dùng để chỉ quá trình vận động, phát triển diễn ra dưới hình thức có tính chu kỳ “xoáy ốc”: sự lặp lại hình thái ban đầu của mỗi chu kỳ phát triển nhưng trên một cơ sở cao hơn qua hai lần phủ định cơ bản.

Ví dụ, tính chu kỳ của quá trình vận động tăng trưởng, phát triển của một giống loài thực vật:… hạt – cây – những hạt mới…; hoặc sự vận động tăng trưởng và phát triển của tư bản (k):… T – H (Tlsx + Slđ)… H’ – T’ (T + t)…

3. Nội dung của quy luật phủ định biện chứng:

Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.

Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.

Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy ốc” hay “vòng xoáy trôn ốc”. Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

Sự phát triển theo đường “xoáy ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường “xoáy ốc” thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật – giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên vẹn như cái cũ mà trên cơ sở cao hơn, tốt hơn.

Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.

4. Ý nghĩa phương pháp luận phủ định biện chứng:

Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường thẳng nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các hiện tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi mới, khắc phục khuynh hướng bi quan, chán nản, dao động trước những khó khăn của sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặc dù khi mới ra đời, cái mới có thể còn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có nhận thức đúng về cái mới và có thái độ đúng đối với cái mới đồng thời chủ động phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định sạch trơn”.

Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản chất, tính quy luật, những hình thức và phương pháp nhận thức, vấn đề chân lý. Nó giải đáp một cách đúng đắn và đầy đủ mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học.