Vì sao cuối năm 1929 ở Việt Nam lại xuất hiện ba tổ chức cộng sản

[HNM] - Vào nửa cuối năm 1929, ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn lần lượt được thành lập. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, khẳng định bước phát triển quan trọng của cách mạng Việt Nam, đồng thời cũng chỉ ra rằng những điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản đã hoàn toàn chín muồi trên phạm vi cả nước.

1. Trở lại tình hình, vào cuối những năm 20 của thế kỷ XX, Bắc Kỳ là nơi có phong trào cách mạng phát triển mạnh hơn cả so với các vùng khác trong cả nước. Tại đây, hai tổ chức là Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và Việt Nam Quốc dân đảng đang ra sức hoạt động nhằm lôi kéo và tranh giành quần chúng. Trong khi Việt Nam Quốc dân đảng ngày càng tỏ ra lúng túng về phương thức hoạt động thì Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập hoạt động ngày càng hiệu quả. Bên cạnh đó, thông qua phong trào "Vô sản hóa" và nhất là chịu tác động trực tiếp của phong trào cộng sản, nhiều hội viên thanh niên tiên tiến - những học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - đã sớm nắm bắt được các yêu cầu của thời cuộc và nhanh chóng nhận thấy sự cấp thiết phải thành lập một Đảng Cộng sản để thay thế Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên lãnh đạo và đưa phong trào cách mạng ở Việt Nam tiến lên.

Bước sang năm 1929, tình hình cách mạng Việt Nam có nhiều chuyển biến. Đầu tháng 5-1929, tại Đại hội I Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán tổ chức thanh niên và thành lập Đảng Cộng sản. Đề nghị này không được chấp nhận, Đoàn bỏ ra về.

Sau khi về tới Hà Nội, ngày 1-6-1929, Đoàn đại biểu Kỳ bộ Bắc Kỳ ra Tuyên ngôn giải thích lý do họ bỏ đại hội ra về và chỉ ra những điều kiện khách quan và chủ quan đã chín muồi để thành lập một chính đảng của giai cấp công nhân. Đến ngày 17-6-1929, 20 đại biểu ưu tú của Kỳ bộ Bắc Kỳ nhóm họp tại nhà số 312 phố Khâm Thiên [Hà Nội] tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Hội nghị đã thông qua tuyên ngôn, điều lệ và quyết định xuất bản báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng đã xác định rõ tính chất của Đảng: "Đông Dương Cộng sản Đảng là đảng cách mạng, đại biểu cho tất cả anh chị em vô sản giai cấp [tức thợ thuyền] ở Đông Dương. Đảng Cộng sản là đảng bênh vực cho toàn thế giới vô sản giai cấp, nhưng chỉ gồm những người nào giác ngộ cách mạng, tiên tiến hơn cả trong giai cấp vô sản".

Nội dung Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng cũng cho thấy trình độ, trí tuệ, tinh thần cách mạng của người soạn thảo. Những nội dung của đường lối chính trị đề ra trong Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng đã nhằm vào giải quyết những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của xã hội Việt Nam và đặt trong khuôn khổ chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Những người khởi xướng và thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng đã quán triệt những quan điểm của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Đường kách mệnh [1927] về con đường cách mạng Việt Nam, về vấn đề xây dựng đảng cách mạng. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu: "Đông Dương Cộng sản Đảng là tổ chức cộng sản đầu tiên trên nước Việt Nam. Nó khai trương một thời kỳ mới. Nó là kết quả tất yếu của sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, của phong trào dân tộc và phong trào công nhân phát triển từ sau Chiến tranh thế giới 1914-1918".

2. Sau khi ra đời, đi cùng với công tác tuyên truyền, Đông Dương Cộng sản Đảng cử người vào Nam Kỳ và đi về các địa phương xây dựng, phát triển cơ sở. Đến tháng 8-1929, nhiều cơ sở đảng, nhất là ở Bắc Kỳ được thành lập. Sự phát triển mạnh mẽ của Đông Dương Cộng sản Đảng tác động tích cực đến bộ phận còn lại của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và đến những đại biểu chân chính cách mạng của Tân Việt Cách mạng Đảng, dẫn tới sự ra đời của những tổ chức cách mạng khác vào cuối năm 1929.

Tháng 8-1929, hơn 20 đại biểu tiên tiến của Kỳ bộ Thanh niên Nam Kỳ do Châu Văn Liêm phụ trách họp tại khách sạn ở góc đường Bonard - Filipini [nay là góc đường Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh] quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Về lý do thành lập An Nam Cộng sản Đảng, trong "Lời thông cáo giải thích cho đồng chí vì sao phải tổ chức Đảng Cộng sản An Nam" nêu rõ: "Ở An Nam phải tổ chức Đảng Cộng sản là vì hoàn cảnh An Nam, vì sự giác ngộ của những người cách mạng An Nam mà phải tổ chức...".

Điều lệ An Nam Cộng sản Đảng ghi rõ: "An Nam Cộng sản Đảng là chi bộ của Quốc tế Cộng sản nên gọi là An Nam Cộng sản Đảng chi bộ Quốc tế Cộng sản". Về điều kiện vào Đảng: "Ai tin theo chương trình của Quốc tế Cộng sản, hăng hái phấn đấu trong một bộ phận Đảng, phục tùng mệnh lệnh Đảng và góp nguyệt phí, có thể cho vào đảng được". Tuy nhiên, "vào đảng phải qua một thời kỳ dự bị để hiểu cho thấu chương trình và chính sách của Đảng, để Đảng xét tư cách và năng lực từng người".

Sự ra đời của An Nam Cộng sản Đảng đã chứng tỏ việc thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam đã trở nên chín muồi, phù hợp với yêu cầu bức thiết của phong trào cách mạng Việt Nam. Đồng thời, An Nam Cộng sản Đảng đã góp phần quan trọng đưa chủ nghĩa Mác - Lênin thâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, góp phần cho xu hướng cộng sản phát triển mạnh mẽ và ngày càng thắng thế ở Việt Nam.

Đến thời điểm này, cùng với quá trình phân hóa trong Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên dẫn tới sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, xu hướng cộng sản ngày càng lôi cuốn và tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số đảng viên Tân Việt Cách mạng Đảng. Theo đó, tháng 9-1929, các đại biểu chân chính của Tân Việt Cách mạng Đảng họp tại Sài Gòn ra "Tuyên đạt" thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Đến cuối tháng 12-1929, các văn kiện của Đông Dương Cộng sản liên đoàn được chính thức thông qua, đánh dấu quá trình hoàn tất việc thành lập tổ chức Đông Dương Cộng sản liên đoàn. Các đảng viên của Đảng đều là những cá nhân tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng Đảng, được giác ngộ cộng sản, đã thoát ly khỏi ảnh hưởng của những người lãnh đạo có khuynh hướng quốc gia cải lương trong Tân Việt Cách mạng Đảng. Cũng từ đây, các tổ chức cơ sở của Tân Việt Cách mạng Đảng đã căn cứ vào nghị quyết, lần lượt tổ chức ra các chi bộ Đông Dương Cộng sản liên đoàn.

Tóm lại, chỉ trong một thời gian ngắn, ba tổ chức cộng sản đã nối tiếp nhau ra đời trên đất nước Việt Nam. Đó là sự lựa chọn đúng đắn, là sự kiện vô cùng mới mẻ, là bước phát triển nhảy vọt của sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, của phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Các tổ chức cộng sản ra đời hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển khách quan tất yếu của cách mạng Việt Nam, đi đúng quỹ đạo của thời đại, đáp ứng đúng nguyện vọng và ý chí của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Cả ba tổ chức đều có những nhược điểm của thời kỳ mới ra đời, nhưng đã đáp ứng được nhu cầu bức thiết của lịch sử. Hơn nữa, sự xuất hiện và tăng cường hoạt động của Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào nửa sau năm 1929 đã khẳng định bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ hệ tư tưởng cộng sản đã giành được ưu thế mạnh mẽ trong phong trào dân tộc.

[Còn nữa]

Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới - thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc. Cách mạng Tháng Mười Nga đã nêu tấm gương sáng trong việc giải phóng các dân tộc bị áp bức.

Sự ra đời của Quốc tế Cộng sản [Quốc tế III] vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tại Việt Nam, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.

Về chính trị, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn; chia Việt Nam thành ba xứ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Thực dân Pháp câu kết với giai cấp địa chủ để bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân dân Việt Nam.

Về kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư khai thác tài nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hoá, thực dân Pháp thi hành triệt để chính sách văn hóa nô dịch, gây tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta đều bị cấm đoán. Chúng tìm mọi cách bưng bít và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ trên thế giới vào Việt Nam và thi hành chính sách ngu dân để dễ bề cai trị.

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hoá, giáo dục thực dân, xã hội Việt Nam đã diễn ra quá trình phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân hoá. Một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.

Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do.

Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nông dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức bóc lột.

Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vô sản, có lòng yêu nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; Hai là, xoá bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Phong trào Cần Vương - phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, do giai cấp phong kiến lãnh đạo đã chấm dứt ở cuối thế kỷ XIX với cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng [năm 1896]. Sang đầu thế kỷ XX, khuynh hướng này không còn là khuynh hướng tiêu biểu nữa. Phong trào nông dân, tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài mấy chục năm cũng thất bại vào năm 1913. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại. 

Các phong trào yêu nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. 

Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành [tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này] ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.

Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp [tháng 12/1920], Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III [Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập] và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” [tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên]. Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên [năm 1925], tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu [Trung Quốc] và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông [ở Liên Xô trước đây] và trường Lục quân Hoàng Phố [Trung Quốc] nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng [Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn] thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng. 

Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

[ST]

Video liên quan

Chủ Đề