Vùng nội thủy của lãnh thổ quốc gia là gì năm 2024

Vì vùng nội thủy, vùng lãnh hải mới là lãnh thổ của quốc gia ven biển. Còn ranh giới phía ngoài lãnh hải gọi là đường biên giới quốc gia trên biển. Còn vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế theo định nghĩa là những vùng biển nằm ngoài lãnh hải gọi là những vùng biển thuộc quyền chủ quyền của quốc gia. Vì vậy hai vùng biển này không coi là lãnh thổ của quốc gia.

Công ước quốc tế năm 1982 là một Hiến pháp về biển và đại dương khi đưa ra khái niệm đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải mà theo đó các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia có: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Nội thủy: theo Điều 8, khoản 1, Công ước 1982 định nghĩa nội thủy là "các vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải". Trong vùng nội thủy, quốc gia thực hiện chủ quyền của mình như trên lãnh thổ đất liền. Một quốc gia có thể có nhiều vùng nội thủy với các chế độ pháp lý khác nhau: nội thủy, nội thủy trong đó quyền qua lại vô hại của tàu thuyền được tôn trọng và vùng nước lịch sử được đặt dưới chế độ nội thủy.

Lãnh hải: lần đầu tiên, lãnh hải của các quốc gia có một bề rộng thống nhất 12 hải lý [mỗi hải lý tương đương 1.850 m]. Điều 2 của Công ước 1982 xác định: "Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và các vùng nội thủy tới một vùng biển tiếp giáp với chúng dưới tên gọi lãnh hải và có bề rộng không vượt quá 12 hải lý". Chủ quyền giành cho quốc gia ven biển trên lãnh hải không phải là tuyệt như trên các vùng nội thủy. Đi qua được coi là không gây hại chừng nào việc đi qua này không làm phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của quốc gia ven biển. Điều 19, Công ước 1982 đưa ra danh sách cụ thể mà tàu thuyền nước ngoài không được phép tiến hành trong vùng lãnh hải của quốc gia ven biển khi thực hiện quyền đi qua:

- Đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với nguyên tắc của luật pháp quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên hợp quốc.

- Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào.

- Thu thập tình báo gây thiệt hại hoặc tuyên truyền nhằm làm hại cho quốc phòng hay an ninh quốc gia ven biển.

- Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay; phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự.

- Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển.

- Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm công ước; đánh bắt hải sản; nghiên cứu hay đo đạc.

- Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển; mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua....

Tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền qua lại không gây hại trong lãnh hải phải tuân thủ luật pháp của quốc gia ven biển về các vấn đề trên [còn nữa].

Nội thủy và lãnh hải là những khái niệm đã được Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 [gọi tắt là Công ước 1982] định nghĩa và làm rõ chế độ pháp lý của chúng.

Nội thủy là vùng nước ở nội địa hoặc ở phía bên trong đường cơ sở, giáp với bờ biển; gồm: biển nội địa, cảng biển, vũng đậu tàu, vịnh, vùng nước ở khoảng giữa bờ biển và đường cơ sở.

Về chế độ pháp lý, trong nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền đầy đủ, toàn vẹn và tuyệt đối như lãnh thổ trên đất liền. Mọi quy chế, luật lệ ban hành trên toàn lãnh thổ đều áp dụng cho nội thủy. Tàu [thuyền] của nước ngoài muốn vào nội thủy của quốc gia ven biển đều phải xin phép trước và chỉ khi được phép của quốc gia ven biển đó mới được vào.

Lãnh hải [vùng nước tiếp giáp với nội thủy, nằm phía ngoài nội thủy] là vùng nước có chiều rộng không vượt quá 12 hải lý, nằm sát liền phía ngoài đường cơ sở dọc theo bờ biển. Như vậy, Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam, ngày 12-5-1977: “Lãnh hải của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam rộng 12 hải lý, ở phía ngoài đường cơ sở” là hoàn toàn phù hợp với Công ước 1982.

Về chế độ pháp lý, đối với lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền đầy đủ, toàn vẹn nhưng không tuyệt đối. Lãnh hải thuộc quốc gia ven biển, ranh giới ngoài của lãnh hải là đường biên giới quốc gia trên biển. Tàu [thuyền] nước ngoài có thể “đi qua vô hại” lãnh hải của quốc gia ven biển.

Khác với đường biên giới trên đất liền, đường biên giới trên biển không đánh dấu bằng các cột mốc biên giới mà được đánh dấu bằng bảng kê tọa độ địa lý các điểm trên biển và gửi Liên hợp quốc để lưu chiểu. Nó là đường phân định giữa một bên là “vùng nước lãnh thổ” [bao gồm nội thủy và lãnh hải] với một bên là vùng nước thuộc quyền tài phán quốc gia trên biển.

Còn quyền “đi qua vô hại” của tàu [thuyền] nước ngoài, theo Điều 18 của Công ước 1982, là các tàu [thuyền] đó được quyền đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển, nhưng “Phải đi liên tục, không được dừng lại nếu không có sự cố đặc biệt, bất khả kháng”, không có hành động làm phương hại đến hòa bình, an ninh, trật tự hay lợi ích của quốc gia ven biển. Quyền “đi qua vô hại” là quyền đặc thù đối với tàu [thuyền] trong lãnh hải, nó không được áp dụng đối với vùng trời phía trên lãnh hải, nghĩa là các phương tiện bay của nước ngoài không được quyền “bay qua vô hại” trong vùng trời phía trên lãnh hải. Điều 19 của Công ước cũng quy định về các hành động của các tàu [thuyền] nước ngoài khi các tàu [thuyền] này đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển, đó là:

- Không đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của quốc gia ven biển;

- Không luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ khí nào;

- Không thu thập tin tức tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;

- Không tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven biển;

- Không phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;

- Không phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;

- Không xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven biển;

- Không gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;

- Không đánh bắt hải sản;

- Không nghiên cứu hay đo đạc;

- Không làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;

- Không có các hoạt động không trực tiếp liên quan đến việc đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển.

Liên quan trực tiếp đến lãnh hải còn có Điều 20, 21, 22. Điều 20 quy định tàu ngầm và các phương tiện ngầm khác khi “đi qua vô hại” lãnh hải của quốc gia ven biển buộc phải đi nổi và phải treo cờ quốc tịch. Còn Điều 21, 22 cho biết quốc gia ven biển có thể định ra các luật và quy định liên quan đến việc “đi qua vô hại” ở trong lãnh hải của mình phù hợp với các quy định của Công ước 1982 và các quy định khác của luật pháp quốc tế.

Nội thủy và lãnh hải là gì?

Nội thủy và lãnh hải là hai vùng biển giáp nhau, đều thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển. Song nội thủy và lãnh hải có quy chế pháp lý khác nhau theo hướng là càng cách xa bờ thì quyền của nước có biển càng giảm bớt đi.

Vùng biển tiếp giáp với vùng nội thủy có tên gọi là gì?

Lãnh hải là một vùng biển ven bờ nằm ngoài và tiếp liền với lãnh thổ đất liền hoặc nội thủy của quốc gia ven biển.

Vùng nội thủy của quốc gia được giới hạn như thế nào?

Như vậy, nội thuỷ được hiểu là tất cả các vùng nước được giới hạn giữa một bên là đường bờ biển của lãnh thổ đất liền hay lãnh thổ đảo của một quốc gia với một bên là đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cũng như các vùng biển khác thuộc thẩm quyền tài phán của quốc gia đó.

Đối với vùng biển Việt Nam vùng đặc quyền kinh tế được xác định như thế nào?

Phù hợp với quy định của Công ước cua LHQ về Luật Biển năm 1982, Luật Biển Việt Nam quy định cụ thể: Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, hợp với lãnh hải thành một vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ cơ sở.

Chủ Đề