10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022
Ảnh minh họa. (Nguồn: ibanet.org)

Show

"Nô lệ thời hiện đại" là khái niệm được nhắc nhiều trong những năm gần đây khi mà nạn buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, lao động cưỡng bức, bóc lột tình dục hay các hoạt động như bắt làm nô lệ để trả nợ, hôn nhân ép buộc... vẫn là những vấn đề nhức nhối trên toàn cầu.

Theo Tổ chức Lao động thế giới (ILO), tính đến năm 2016, có khoảng 40 triệu người là nạn nhân của chế độ nô lệ hiện đại, trong đó có 25 triệu người là lao động cưỡng bức.

Đáng quan ngại, theo báo cáo, cứ một trong 4 nạn nhân của nô lệ hiện đại là trẻ em, và có tới 70% nạn nhân là phụ nữ và trẻ em gái.

[Chống mua bán người - vấn đề toàn cầu, cần sự hợp tác quốc tế]

Ravi Shanker Kumar người Ấn Độ từng là lao động trẻ em bị ép buộc làm việc tại một xưởng dệt thảm chật hẹp và thiếu ánh sáng ở Uttar Pradesh. Vì nghèo đói, khi Kumar 12 tuổi, cha mẹ đã đổi anh lấy 10 USD.

Từ đó, Kumar phải làm việc không công từ 12 đến 15 giờ/ngày, 7 ngày 1 tuần. Kumar bị đánh đập, tra tấn, bị bỏ đói, không đủ quần áo mặc và không được điều trị nếu bị thương khi làm việc.

Theo ước tính của trang endslaverynow.org, Kumar chỉ là một trong số hơn 300.000 trẻ em phải làm việc trong ngành công nghiệp dệt thảm của Ấn Độ.

Giống như Kumar, chị Flor Molina cũng là một nạn nhân của tình trạng nô lệ hiện đại. Molina từ Mexico tới Mỹ dưới sự trợ giúp của một người quen, sau đó được xác định là kẻ buôn người.

Kẻ buôn người cho biết Molina nợ 3.000 USD tiền đưa vào nước Mỹ, sau đó bắt Molina phải làm việc không lương 18 giờ/ngày tại một nhà máy may ở thành phố Los Angeles.

Molina bị cấm rời khỏi nhà máy, bị cấm nói chuyện khi làm việc, chỉ được ăn 1 bữa trong ngày và phải ăn trong 10 phút. Chị phải ngủ trong nhà kho, chia sẻ một tấm nệm với các nạn nhân khác.

Sau 40 ngày, Molina may mắn trốn thoát, nhưng với nhiều người di cư khác, cơn ác mộng vẫn tiếp tục.

Xung đột, bất ổn chính trị, nghèo đói, thiếu cơ hội giáo dục, biến đổi khí hậu… đều có thể là lý do khiến một số người trở thành nạn nhân của nạn buôn người và bị biến thành "nô lệ thời hiện đại."

Theo ước tính của Liên hợp quốc, mỗi năm trên thế giới có khoảng 800.000 đến 1 triệu người bị mua bán.

Liên hợp quốc cũng cảnh báo đại dịch COVID-19 gây nguy cơ làm thụt lùi nỗ lực chung trong việc chấm dứt tình trạng nô lệ thời hiện đại cũng như làm gia tăng tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ nghèo đói, đồng thời gia tăng tình trạng dễ bị tổn thương, khiến nhiều người trở thành nạn nhân bị bóc lột sức lao động, bị hành hạ, lạm dụng.

Đặc biệt, đại dịch đã gây ra “những tác hại đáng lo ngại về vấn nạn buôn người” khi những kẻ buôn người lợi dụng khủng hoảng dịch COVID-19 để lôi kéo, lừa đảo những người gặp khó khăn về kinh tế đi tìm "miền đất hứa."

Tháng Bảy vừa qua, cảnh sát 5 nước châu Âu đã triệt phá mạng lưới tội phạm chuyên buôn bán người di cư, đưa trái phép khoảng 10.000 người đến châu Âu trong hơn 1 năm.

Cũng tháng Bảy, nhà chức trách Brazil đã giải cứu được 337 lao động nô lệ từ các đồn điền càphê và các trang trại gia súc.

Tại châu Á-Thái Bình Dương, tình hình tội phạm mua bán người ngày phức tạp, tinh vi, với nhiều hình thức như tiếp cận, rủ rê, lôi kéo đi du lịch, đi làm thuê thu nhập cao, xuất khẩu lao động với chi phí thấp… nhưng để lừa bán, ép buộc, cưỡng bức lao động.

Theo báo cáo của Văn phòng Liên hợp quốc về chống ma túy và tội phạm (UNODC) và Tổ chức Cảnh sát hình sự quốc tế (Interpol), châu Á-Thái Bình Dương, nhất là các nước Tiểu vùng sông Mekong, đã trở thành "điểm nóng" về tình trạng buôn bán người.

Số nạn nhân bị mua bán  ở khu vực này là khoảng 11,7 triệu người, trong đó 55% là phụ nữ, trẻ em gái.

Theo nhật báo The Age (Australia), tại các cơ sở ở một số nước Đông Nam Á, nhiều người hiện đang bị “mắc kẹt” trong điều kiện làm việc và sinh sống nô lệ hiện đại và phải chịu sự đối xử khủng khiếp nếu tìm cách bỏ trốn.

Ông Jan Santiago thuộc Tổ chức Chống lừa đảo toàn cầu (GASO) cho biết với doanh thu hàng tỷ USD, những "nhà máy lừa đảo" này đã tạo ra một ngành buôn bán người thứ cấp để cung cấp cho các doanh nghiệp tội phạm sử dụng nhiều lao động, dẫn đến việc tra tấn, cưỡng hiếp và các hoạt động lạm dụng trên quy mô lớn khác.

Các trùm lừa đảo điều hành các hoạt động này bóc lột những người lao động ngây thơ đang tìm kiếm một công việc hợp pháp, giam giữ họ bên trong các tổ hợp, buộc họ làm việc hàng ngày từ 8h sáng đến 23h đêm và đánh đập hoặc đe dọa nếu họ không kiếm đủ tiền.

Vụ việc 42 công dân Việt Nam bỏ trốn khỏi sòng bài thuộc ấp Chrey Thum, xã Sampeou Poun, huyện Kaoh Thom, tỉnh Kandal (Campuchia) bơi qua sông Bình Di (An Giang) để về nước là một ví dụ.

Qua lời khai của các nạn nhân và tài liệu chứng cứ thu thập được, bước đầu cơ quan điều tra đã xác định vụ việc này có dấu hiệu của tội phạm mua bán người và tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép.

Những người này khai nhận, do tin vào những lời chào mời hấp dẫn tuyển lao động làm việc tại Campuchia với mức lương từ 700-1.000 USD/tháng trên mạng xã hội nên đã vượt biên trái phép sang Campuchia, với công việc hàng ngày là làm game online và lên các trang mạng theo sự chỉ đạo của chủ.

Thậm chí nhiều người bị đưa vào các đường dây thực hiện hành vi lừa đảo, mỗi ngày làm việc 15 giờ, hoặc bị bán vào các sòng bài, bị đánh đập, tra tấn đòi tiền chuộc nếu muốn trở về Việt Nam.

Nhóm người này còn khai bị hành hung, đánh đập dã man khi họ không hoàn thành công việc. Liên quan tới vụ việc, cơ quan điều tra đã phát hiện 4 đường dây có dấu hiệu tội phạm mua bán người xuất hiện ở một số tỉnh, thành phố trong cả nước.

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022
Lực lượng tuần tra biên giới Anh giải cứu người di cư lênh đênh trên biển khi đang cố vượt eo biển Manche, về tới cảng Dover, phía Đông Nam Anh ngày 3/5/2022. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Từ năm 1998, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã chọn ngày 23/8 hàng năm là Ngày quốc tế về buôn bán nô lệ để thúc đẩy việc xóa bỏ mọi hình thức bóc lột nô lệ thời hiện đại. Nạn nhân của chế độ nô lệ hiện đại có thể là bất kỳ ai, ở bất cứ lứa tuổi, giới tính, quốc tịch và sắc tộc nào.

Việc chấm dứt chế độ nô lệ hiện đại sẽ đòi hỏi những phản ứng tổng hợp, phù hợp với từng môi trường cụ thể, mà trước hết tập trung vào xóa đói giảm nghèo, giải quyết thất nghiệp, bạo hành, phân biệt đối xử, bị gạt ra bên lề xã hội.

Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác giữa các chính phủ và với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan trong các lĩnh vực như thực thi pháp luật lao động, thực thi pháp luật hình sự và quản lý di cư nhằm ngăn chặn nạn buôn người và giải quyết tình trạng lao động cưỡng bức qua biên giới.

Đặc biệt, công tác phòng chống nạn buôn người đang được các nước đẩy mạnh.

Năm ngoái, lực lượng chức năng châu Âu đã phát hiện và ngăn chặn hơn 900 vụ buôn người.

Mỹ đã ra mắt lực lượng đặc nhiệm chống buôn người, đồng thời phối hợp với Mexico và các nước Trung Mỹ thành lập nhóm phản ứng nhanh chống buôn người.

Tại Đông Nam Á, đầu tháng Tám này, Indonesia và Campuchia đã thảo luận việc hợp tác ngăn chặn nạn buôn người, như điều tra chung, hỗ trợ pháp lý lẫn nhau, thiết lập đội phản ứng nhanh và ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác giữa lực lượng cảnh sát hai nước về việc xử lý các vụ mua bán người.

Mới nhất, Bộ Nội vụ Campuchia đã mở chiến dịch truy quét, tăng cường tuần tra, kiểm soát để đối phó với tình trạng buôn người và những băng nhóm tội phạm lừa gạt người nước ngoài tới quốc gia này lao động trái phép.

Việt Nam cũng đã quyết liệt thực hiện nhiều giải pháp đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này trên cơ sở triển khai hiệu quả Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030, đồng thời đang xây dựng hồ sơ gia nhập Nghị định thư về chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không.

Từ ngăn chặn tội phạm mua bán người qua biên giới tới xóa bỏ chế độ nô lệ thời hiện đại, có thể nói, đây là cuộc chiến cam go đòi hỏi sự chung tay phối hợp và đổi mới hành động trên phạm vi toàn cầu./.

Message From the Secretary of State

Dear Reader:

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022
This year’s Trafficking in Persons Report sends a strong message to the world that global crises, such as the COVID-19 pandemic, climate change, and enduring discriminatory policies and practices, have a disproportionate effect on individuals already oppressed by other injustices.  These challenges further compound existing vulnerabilities to exploitation, including human trafficking.  We must break this inhumane cycle of discrimination and injustices if we hope to one day eliminate human trafficking.

The U.S. Department of State strives to advance around the world the security, prosperity, and values that U.S. citizens share.  We know recent events have led our country to grapple with unequal treatment and racism here at home that has reverberated around the world.  As a government and society, we strive to correct past wrongs and advance racial equity in the United States and abroad.  We commit to bringing this dedication to our efforts to fight human trafficking as well.  We will seek to use our year-round engagement with governments, advocates, and the private sector to build a more effective anti-trafficking strategy rooted in equity.  This must include coming to terms with our role in having perpetuated violence and dehumanized people, and we must work to right these past wrongs.

Systemic discrimination creates inequities between communities, whether the discrimination targets perceptions of race, ethnicity, sexual orientation and gender identity, or any other social identities.  It manifests in societal exclusion and prejudices against those communities, which help perpetuate an imbalance of opportunity and support.  These inequities undercut our goal of combating human trafficking and embolden traffickers. We have seen, for instance, how deeply held racial biases and stereotypes inappropriately influence outcomes for those in our criminal justice system as they lead to racially disparate assumptions about who is identified as a trafficker and who is identified as a victim.  This is not a new truth, but it is a somber, unacceptable reality.

Through this report, we call on governments to join the United States in improving our collective efforts to comprehensively address human trafficking.  Doing so requires us to mitigate harmful practices and policies that cause socioeconomic or political vulnerabilities that traffickers often prey on.  Part of this work requires us to acknowledge we will never be able to understand the full scope of what is needed without the expertise of those affected by systemic inequality.  Representation and diversity of experience and thought matter.  Therefore governments, including the United States, must foster an inclusive environment that allows for a thriving, diverse workforce at all levels.

I have said before, building a “more perfect union” is both an acknowledgement of our imperfection and a commitment to continue striving toward progress in a transparent way.  I believe that is true here.  I look forward to the work ahead, knowing there is much still to accomplish, and we will be more successful when we work together to achieve the goals of combating human trafficking and creating a more fair, equitable world.

Sincerely,
Antony Blinken

Message From the Acting Director

Dear Reader:

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022
If there is one thing we have learned in the last year, it is that human trafficking does not stop during a pandemic.  The concurrence of the increased number of individuals at risk, traffickers’ ability to capitalize on competing crises, and the diversion of resources to pandemic response efforts has resulted in an ideal environment for human trafficking to flourish and evolve. Yet, despite the added challenges and risks that the pandemic has presented, we have also witnessed the adaptability among those continuing to combat human trafficking and their dedication to ensuring the continuation of anti-trafficking efforts to minimize the effects of the pandemic on victims and the broader anti-trafficking community.  This year, the TIP Report introduction examines the emerging trends, challenges, and adaptations to global anti-trafficking efforts as a result of the COVID-19 pandemic.

With this year’s Report we celebrate the efforts of anti-trafficking professionals who continued to serve and identify victims as well as prosecute traffickers amidst the pandemic’s devastating effects on the world’s most vulnerable populations.  We salute the survivor leaders––those with lived experience of human trafficking––who have demonstrated resilience and reaffirm that employing trauma- and survivor-informed approaches is essential, crisis or not.  While acknowledging these leaders, we recognize that many of us have also been touched by trauma, whether through loss of a loved one, our own illness, or dealing with large-scale lockdowns and extreme uncertainty.  A trauma-informed approach is needed now more than ever.  We must ensure that our commitment to victim-centered and trauma- and survivor-informed approaches when serving victims and survivors is uninterrupted.  We must also extend this approach to our interactions with our colleagues throughout the anti-trafficking field.

While hopeful that we’re turning the corner on the pandemic, we know that different countries are at different stages in their pandemic response and recovery.  We call on governments and anti-trafficking actors to draw inspiration from the innovation and leadership this Report highlights to continue and improve the response to combat trafficking even amidst the necessary recovery efforts.  We should also consider the lessons learned over the course of this global health crisis.  It is through collaboration and collective understanding of both the nuances of our profoundly changed world and the needs of those affected most by the compounding effects of both human trafficking and the COVID-19 pandemic that a path forward emerges.

I look forward to once again engaging in-person with government counterparts, NGO representatives, and individuals with lived experience to continue the two decades of progress that was celebrated and recognized last year in the twentieth TIP Report.  Through collaboration, learning, and embracing innovation, I am confident that global anti-trafficking efforts will emerge stronger than ever.

Sincerely,
Kari Johnstone

Human Trafficking in the Context of a Global Pandemic

The COVID-19 pandemic is a health crisis with unprecedented repercussions for human rights and economic development globally, including in human trafficking. COVID-19 generated conditions that increased the number of people who experienced vulnerabilities to human trafficking and interrupted existing and planned anti-trafficking interventions. Governments across the world diverted resources toward the pandemic, often at the expense of anti-trafficking efforts, resulting in decreased protection measures and service provision for victims, reduction of preventative efforts, and hindrances to investigations and prosecutions of traffickers. At the same time, human traffickers quickly adapted to capitalize on the vulnerabilities exposed and exacerbated by the pandemic.

Despite the significant disruptions to efforts to combat this crime, the anti-trafficking community found ways to adapt and forged new relationships to overcome the challenges. Some governments and organizations conducted in-depth assessments to identify the changing trends. Others leveraged technology to drive innovative solutions. Many aligned policies and practices to current realities. Nonetheless, the challenges uncovered by COVID-19 are monumental and may be long lasting, requiring sustained collaboration among governments, civil society organizations, private sector leaders, survivor leaders, and other anti-trafficking actors to adjust and respond aptly to overcome these challenges. As a result, this year’s TIP Report introduction highlights human trafficking issues related to COVID-19, with special focus on how anti-trafficking stakeholders adapted in rapidly changing environments. It reflects on the lessons learned from practitioners and offers considerations to rebuild momentum through coordinated anti-trafficking strategies. The introduction also illustrates collaborative ways to reimagine anti-trafficking efforts with an emphasis on preparedness to prevent compounding effects of future crises on trafficking victims and vulnerable individuals, as well as efforts to combat the most recent emerging human trafficking trends.

A Growing Number of People Experiencing Economic and Social Vulnerabilities

The economic and social distress generated by the pandemic and related mitigation efforts exacerbated risks for vulnerable and marginalized populations. These included women and children, people affected by travel restrictions and stay-at-home orders, communities in areas of food insecurity, and survivors of trafficking, as well as persons directly and indirectly affected by the disruption of economic activities and reduced livelihood options. Due to school closures, some children lacked access to education, shelter, and/or food. Survivors of trafficking faced an increased risk of potential re-victimization due to financial and emotional hardships during the crisis. A survey by the Office of Security and Co-operation in Europe’s OSCE Office for Democratic Institutions and Human Rights (ODIHR) and UN Women highlights that almost 70 percent of trafficking survivors from 35 countries reported that their financial well-being was heavily impacted by COVID-19, and more than two-thirds attributed a decline in their mental health to government-imposed lockdowns triggering memories of exploitative situations. Many survivors had to close shops or leave jobs due to lockdowns and some were pressured by former traffickers when other employment options dried up. Some survivors had to sell their cell phones to purchase food, further isolating them from potential assistance from case workers. Additionally, COVID-19 mitigation efforts, such as stay-at-home orders and travel limitations, increased rates of gender-based violence and substance abuse, both of which put individuals at a higher risk of human traffickers exploiting them. Individuals in underserved communities faced barriers to accessing healthcare, while foreigners were stigmatized as carriers and spreaders of the virus, placing them at higher risk for exploitation and violence. Substantial changes in financial situations, such as the reduction of wages and work hours, closure of workplaces, rising unemployment, and reduced remittances, coupled with the rise in costs of living and disruptions to social safety networks, created newly precarious situations for those not previously vulnerable and even more precarious situations for those who were already at risk of exploitation.

Công nhân lương thấp và người nhập cư và những người trong nền kinh tế không chính thức phải đối mặt với các điều kiện việc làm rủi ro hơn, bao gồm cả chuyển động bị hạn chế, cơ chế giám sát tối thiểu, giữ lại tiền lương và tăng các khoản nợ, tất cả các chỉ số hoặc cờ cho nạn buôn người.Trong các đơn đặt hàng ở nhà, những người lao động sống ở nơi làm việc của họ trở nên đặc biệt dễ bị buôn bán tình dục và lao động cưỡng bức trong khi bị hạn chế trong khả năng tìm kiếm sự trợ giúp hoặc rời khỏi tình trạng bóc lột của họ.Với các cơ chế giám sát tối thiểu, nhiều người trong số các công trình này vẫn không được giám sát, dẫn đến ít cơ hội hơn để nhận dạng nạn nhân.Tại các quốc gia vùng Vịnh, một cuộc khảo sát nghiên cứu IST với 6.000 công nhân nhập cư đã kết luận các chủ lao động có khả năng giới hạn công nhân gia đình nhập cư cao hơn 36 % và có khả năng buộc những người lao động đó phải làm việc vào ngày nghỉ ngơi hơn 240 %.Trong cùng một cuộc khảo sát, hơn 50 phần trăm công nhân nhập cư đã báo cáo các khoản nợ mới vì đại dịch.Theo UNODC, những người lao động nhập cư có kế hoạch bị gián đoạn bởi các hạn chế du lịch Covid-19, để đi du lịch về nhà hoặc đến nơi làm việc, có khả năng đã phải trả phí tuyển dụng hoặc chi phí đi lại, khiến họ có nguy cơ mắc kẹt nợ.Tương tự, một nghiên cứu của Chính phủ Philippines cũng cho thấy nhiều công nhân người Philippines ở nước ngoài đã bị mắc kẹt vì tiền tiết kiệm của họ trong năm 2020. Nhu cầu chìm cũng khiến các nhà bán lẻ lớn toàn cầu hủy bỏ đơn đặt hàng và trong nhiều trường hợp, từ chối trả tiền cho các sản phẩm của họđã được sản xuất.Trung tâm quyền lợi công nhân toàn cầu của Đại học bang Pennsylvania và Hiệp hội Quyền công nhân báo cáo rằng điều này dẫn đến việc đóng cửa hàng ngàn nhà máy tại các quốc gia sản xuất đã gửi hàng triệu công nhân nhà máy, thường không có khoản thanh toán hợp pháp.

Những kẻ buôn người nhanh chóng thích nghi và khai thác các rủi ro liên quan đến Covid-19

Vì Covid-19 gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu và tăng số lượng cá nhân dễ bị buôn bán người, những kẻ buôn người đã điều chỉnh các chiến thuật hiện tại của họ để tận dụng các hoàn cảnh độc đáo của đại dịch.Những kẻ buôn người nhắm vào số lượng người ngày càng tăng không thể giảm thiểu, thích nghi hoặc xây dựng khả năng phục hồi chống lại các tác động kinh tế và xã hội tồi tệ hơn;Họ cũng khai thác các tình huống trong đó sàng lọc và xác định nạn nhân thậm chí còn trở nên khó khăn hơn.Điều này bao gồm các cá nhân bị giới hạn trong nhà hoặc nơi làm việc của họ, các hộ gia đình cần hỗ trợ tài chính và công nhân trong khu vực không chính thức.Những kẻ buôn người nhắm vào các gia đình gặp khó khăn về tài chính và đưa ra những lời hứa sai lầm và lời đề nghị công việc lừa đảo để tuyển dụng con cái của họ, trong khi các gia đình khác bị bóc lột hoặc bán con cái của họ cho những kẻ buôn người để hỗ trợ tài chính.Chủ doanh nghiệp và chủ nhà gây áp lực cho các cá nhân phải vay tiền để đổi lấy lao động giá rẻ hoặc khai thác tình dục thương mại.Ngoài ra, những kẻ buôn người đã tìm cách khám phá lại những người sống sót, những người trở nên không ổn định về tài chính và dễ bị hủy bỏ.

Một số ví dụ bao gồm:

  • Ở Ấn Độ và Nepal, các cô gái trẻ từ khu vực nghèo và nông thôn thường được dự kiến sẽ rời trường để giúp hỗ trợ gia đình trong thời kỳ khó khăn kinh tế, một số người bị buộc phải kết hôn để đổi lấy tiền, trong khi những người khác buộc phải làm việc để bổ sung thu nhập bị mất.
  • Các báo cáo từ Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Uruguay minh họa rằng chủ nhà đã buộc người thuê của họ (thường là phụ nữ) quan hệ tình dục với họ khi người thuê không thể trả tiền thuê nhà.
  • Trong quá trình khóa, những kẻ buôn người ở Amazon ở Brazil đã thay đổi mô hình của họ bằng cách gửi nạn nhân buôn bán tình dục trẻ em đến thủ phạm tư nhân hoặc địa điểm cụ thể thay vì những nơi thông thường nơi trẻ em được bán cho thủ phạm.
  • Ở Haiti, Nigeria và Mali, các băng đảng hoạt động trong các trại IDP đã tận dụng việc giảm an ninh và bảo vệ hạn chế để buộc cư dân tại trại thực hiện các hành vi tình dục thương mại.
  • Ở Miến Điện, các gia đình đã trải qua sự sụt giảm mạnh mẽ trong thu nhập hộ gia đình, với 94 % hộ gia đình được khảo sát báo cáo giảm thu nhập, 81 % báo cáo ít nhất một thành viên trong gia đình mất việc và 69 % báo cáo phải cho vay khiến các gia đình này dễ bị buôn bán.

Trong khi số lượng cá nhân có nguy cơ buôn bán tăng trưởng trong đại dịch, các điều kiện theo đó những kẻ buôn người phát triển mạnh.Những kẻ buôn người đã tận dụng khả năng giảm và thay đổi các ưu tiên của cơ quan thực thi pháp luật dẫn đến ẩn danh và miễn trừ lớn hơn để theo đuổi tội ác của họ.Sự gián đoạn đối với các hệ thống tư pháp công cộng và chuyển các nguồn lực từ các nỗ lực chống buôn người trong đại dịch làm tăng sự miễn cưỡng đối với những kẻ buôn người và hạ thấp tỷ lệ bắt giữ của họ.

Sự gia tăng các hình thức khai thác tình dục trực tuyến

Những nỗ lực giảm thiểu đại dịch đã buộc nhiều người phải thay đổi trực tuyến, bao gồm cả những kẻ buôn người.Tuyển dụng trực tuyến và chải chuốt tăng lên khi trẻ dành nhiều thời gian trực tuyến hơn để học ảo do đóng cửa trường học, thường có ít sự giám sát của cha mẹ.Các báo cáo từ một số quốc gia đã chứng minh sự gia tăng mạnh mẽ trong khai thác tình dục và buôn bán tình dục thương mại trực tuyến, bao gồm khai thác tình dục trực tuyến của trẻ em (OSEC), và nhu cầu và phân phối tài liệu khai thác tình dục trẻ em (CSEM), bao gồm nội dung liên quan đến nạn nhân buôn người.Bộ Tư pháp Philippines ghi nhận sự gia tăng gần 300 phần trăm trong các giới thiệu về buôn bán tình dục trực tuyến tiềm năng và các vụ án OSEC từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2020, giai đoạn mà Philippines đang bị khóa hoặc kiểm dịch.Ở Ấn Độ, đã có sự gia tăng 95 % trong các cuộc tìm kiếm trực tuyến cho CSEM và Ấn Độ được xếp hạng trong số các quốc gia cao nhất trên thế giới về các tài liệu liên quan đến lạm dụng tình dục trẻ em được tìm thấy trực tuyến với tổng số 11,6 % tổng hợp các báo cáo toàn cầu vào năm 2020.Trung tâm trẻ em mất tích và khai thác quốc gia Hoa Kỳ (NCMEC) đã báo cáo mức tăng 98,66 % trong các báo cáo thu hút trực tuyến từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2020 so với cùng kỳ năm 2019 và các báo cáo về cybertipline của họ tăng gấp đôi lên 1,6 triệu.Mặc dù những kẻ buôn người đã sử dụng cơ hội tăng số lượng trẻ em trực tuyến để mở rộng hoạt động của họ, nhưng cần lưu ý rằng một phần của sự gia tăng là kết quả của việc tuần hoàn của những câu chuyện liên quan đến buôn bán và thông tin sai lệch trên các nền tảng truyền thông xã hội.Điều này bao gồm các cá nhân đã điều tra lại nội dung CSEM với hy vọng giúp đỡ nạn nhân và nâng cao nhận thức, nhưng vô tình góp phần báo cáo các gai để lại ít thời gian và nguồn lực để theo đuổi mọi sự cố.Với đủ thời gian để những kẻ buôn người thiết lập các phương pháp hiệu quả để tuyển dụng và chải chuốt nạn nhân của họ và không đủ con đường để truy tố các hình thức khai thác tình dục trực tuyến khác nhau, đại dịch đã tăng tốc và tích lũy những thách thức để chống buôn bán tình dục trực tuyến.

Tác động của Covid-19 đến cộng đồng chống buôn người

Các chính phủ, nhà tài trợ và các tổ chức xã hội dân sự phải đối mặt với các vấn đề nan giải thực tế và đạo đức đối chiếu các chiến lược giảm thiểu đại dịch với việc thực hiện các hoạt động chống buôn người. & NBSP;Trong sự vắng mặt của các phản ứng chống buôn người đầy đủ trên khắp thế giới, các nạn nhân đã không xác định được, những người sống sót đã bị đánh giá thấp và những kẻ buôn người không chịu trách nhiệm.

Ưu tiên cạnh tranh và giảm năng lực

Trong suốt cuộc khủng hoảng Covid-19, các chính phủ phải đối mặt với tình trạng thay đổi các ưu tiên để tập trung vào các mối quan tâm về sức khỏe và kinh tế ngày càng tăng, đã thu hút sự chú ý và nguồn lực từ những nỗ lực chống buôn người.Các nỗ lực phòng ngừa giảm khi một số chính phủ đình chỉ các chiến dịch nâng cao nhận thức, thường tập trung vào các khu vực ít thường xuyên hơn trong đại dịch, bao gồm các sân bay, cửa hàng biên giới, xe buýt và xe lửa, trường học và địa điểm cho các cuộc tụ họp lớn.Các cuộc trò chuyện liên quan đến buôn bán người thường được tổ chức bởi các nhà lãnh đạo cộng đồng, bộ lạc và tôn giáo thường bị hủy bỏ hoặc hoãn lại.Các đơn đặt hàng ở nhà và các hạn chế du lịch khiến các quan chức tiền tuyến khó khăn hơn trong việc bảo vệ các cá nhân thông qua các kỹ thuật sàng lọc và sàng lọc thích hợp, khiến các quan chức dựa vào nạn nhân để tự nhận mình trong đại dịch, hiếm khi xảy ra.Ở nhiều quốc gia, các cơ quan thực thi pháp luật đã chỉ định lại nhân viên chịu trách nhiệm điều tra nạn buôn người để thực thi các biện pháp khóa chặt và các biện pháp y tế công cộng.Kể từ khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia ở Peru, các nhiệm vụ của các đơn vị cảnh sát, bao gồm cả những người tập trung vào các nỗ lực chống buôn người, đã chuyển sang thực thi các biện pháp cách ly do chính phủ áp dụng.Điều này, cùng với sự thiếu hụt thiết bị bảo vệ để cung cấp cho cảnh sát, dẫn đến nhiều nhân viên thực thi pháp luật và các quan chức chống buôn người chuyên dụng khác bị nhiễm Covid-19, một số người đã chết.

Không thể phủ nhận điều cần thiết đối với các chính phủ trong việc thực hiện các phản ứng y tế công cộng hiệu quả, phối hợp để ngăn chặn sự mất mát của cuộc sống và thiệt hại kinh tế do đại dịch.Nhưng, điều quan trọng là phải duy trì ý chí chính trị và năng lực để tập trung vào các ưu tiên khác để tránh bị trượt ngược về tiến trình thực hiện trong lĩnh vực chống buôn người hoặc góp phần vào các thách thức trong việc chống lại tội phạm.Khi các lỗ hổng tăng lên và những kẻ buôn người nhanh chóng thích nghi, các chính phủ phải thực hiện các bước để giải quyết các nỗ lực chống buôn người trong các chiến lược Covid-19 của họ, bao gồm bằng cách hỗ trợ và hợp tác với cộng đồng chống buôn người vì nó điều chỉnh môi trường hoạt động đại dịch.

Giảm nguồn tài chính và nhân sự

Các tác nhân chống buôn người đã trải qua sự giảm toàn bộ tài nguyên và hoạt động.Các tổ chức phi chính phủ từ các quốc gia khác nhau đã báo cáo cắt giảm tài trợ đáng kể do Covid-19, điều này đã buộc một số người phải tạm dừng tất cả các hỗ trợ hoặc hủy bỏ một số dịch vụ hỗ trợ nạn nhân.Trong năm 2019, Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) đã tạo ra một phần mười dòng tài chính bên ngoài cho các nước đang phát triển, theo OECD, dự đoán thêm sự sụt giảm tới 8 % vào năm 2020 do tác động của Covid-19 đối với các nền kinh tế.Trong bảy tháng đầu tiên của đại dịch, sáng kiến minh bạch viện trợ quốc tế đã ghi nhận giảm 17 % trong các cam kết của nhà tài trợ song phương giữa năm 2019 đến 2020, bao gồm sự sụt giảm năm phần trăm của ODA.Trong sự sụt giảm của các quỹ bắt buộc, các nhà tài trợ đã thay đổi hỗ trợ cho các lĩnh vực nhân đạo và y tế, do đó dẫn đến các cam kết thấp hơn để ngăn chặn xung đột và hỗ trợ hòa bình, an ninh và nhân quyền.Điều này đã có tác dụng xếp tầng cho các tổ chức chống buôn người địa phương và những nỗ lực của họ, vì nhiều nhà tài trợ đã từ bỏ các quỹ hứa hẹn và cơ hội tài trợ giảm dần trong lĩnh vực này.Theo khảo sát chung của phụ nữ OSCE và Liên Hợp Quốc, chỉ có 24 phần trăm trong số 385 tổ chức chống buôn người phản ứng với cuộc khảo sát có thể vẫn hoạt động đầy đủ trong đại dịch.

Những thách thức đối mặt với nạn nhân và những người sống sót

Nạn nhân và những người sống sót phải đối mặt với những trở ngại khi tiếp cận hỗ trợ và hỗ trợ như các khóa học, các giao thức xa cách xã hội và thiếu tài nguyên khiến các nhà cung cấp dịch vụ đóng cửa và giảm dịch vụ.Các nhà cung cấp đã đấu tranh không chỉ để duy trì các dịch vụ cho các cá nhân được xác định, mà còn tạo ra không gian an toàn theo năng lực và các giao thức xa cách xã hội để cho phép cung cấp dịch vụ cho các cá nhân được xác định trong tương lai.Các dịch vụ hỗ trợ và ứng phó khẩn cấp truyền thống khác, như nơi trú ẩn, bệnh viện và phòng khám, nơi các nạn nhân có thể được xác định là quá tải, với công suất giảm hoặc đóng cửa do các hạn chế hoặc tăng liên quan đến covid.Tự tiết lộ một kinh nghiệm buôn bán của một người cũng trở nên nguy hiểm hơn, đặc biệt là đối với các nạn nhân bị cách ly với kẻ buôn người của họ, được giảm cơ hội di chuyển và nguy cơ nhiễm trùng COVID-19 do chạy trốn vào cộng đồng.Hơn nữa, Khảo sát Phụ nữ OSCE/Liên Hợp Quốc kết luận rằng chỉ có 14 phần trăm cơ chế giới thiệu quốc gia hoạt động đầy đủ, một phần do các nhân viên chính phủ làm việc tại nhà và kiến thức và năng lực công nghệ thấp.Đối với các nạn nhân buôn bán quốc gia nước ngoài, biên giới kín có nghĩa là hồi hương vẫn là một thách thức chính, dẫn đến việc các nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ nạn nhân trong thời gian dài hơn với nguồn lực suy giảm.Tại Nigeria, IOM và chính phủ Nigeria đã ủng hộ việc hồi hương hơn 7.000 người sống sót buôn bán trong cả năm 2018 và 2019 nhưng chỉ có thể hồi hương 620 cá nhân từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2020.có khả năng dẫn đến rủi ro bảo vệ và sức khỏe nghiêm trọng ở các quốc gia về sự trở lại, cũng như tăng chi phí và thêm khó khăn do yêu cầu kiểm dịch khi đến.

Khảo sát phụ nữ OSCE/LHQ đã chứng minh hoàn cảnh chung của những người sống sót trong đại dịch, lưu ý rằng việc tiếp cận việc làm đã giảm 85 %, 73 % dịch vụ y tế, dịch vụ xã hội 70 %, hỗ trợ pháp lý và tiếp cận thực phẩm và nước uống 66 %, 66 %,Hỗ trợ tâm lý 64 phần trăm, và tiếp cận với chỗ ở an toàn 63 %.Với quyền truy cập hạn chế vào các dịch vụ bao gồm, trong nhiều trường hợp, là sự không thể thiếu đối với những người sống sót và sự độc lập, những người sống sót sau khi buôn bán có nguy cơ tái phạm.Nhiều biện pháp giảm thiểu Covid-19, chẳng hạn như đeo mặt nạ, tham gia ảo và tự cô lập, có thể tái chiến thắng những người sống sót.Mặt nạ và các thiết bị bảo vệ cá nhân khác, cũng như các cam kết ảo, làm giảm khả năng đọc các tín hiệu trên khuôn mặt và phi ngôn ngữ và ngôn ngữ cơ thể, có thể là một cơ chế sinh tồn cho những người sống sót.Những người sống sót có thể liên kết các đơn đặt hàng ở nhà và tự cô lập với các hạn chế di chuyển và cảm giác có ít nơi hơn để chạy trốn, có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm phản ứng chấn thương đối với một số người sống sót.Nhìn chung, tác động tăng cường đối với sức khỏe tinh thần và sức khỏe thể chất của nạn nhân buôn người và những người sống sót sau sự cô lập lâu dài, giảm khả năng tiếp cận các dịch vụ và các rủi ro liên quan đến chungCác phản ứng chống buôn người tập trung vào nạn nhân trong đại dịch.

Thử thách truy tố

Các hệ thống tư pháp hình sự thường trì hoãn và đình chỉ các nỗ lực truy tố tổng thể trong khi các quan chức thực thi pháp luật đã làm việc để quản lý các vụ dịch Covid-19, ngay cả trong các đơn vị của họ.Các nhân viên thực thi pháp luật đã không thể tiến hành các cuộc điều tra và phỏng vấn thích hợp với các cá nhân để có được bằng chứng cần thiết để truy tố các vụ buôn người.Khi các cuộc điều tra và truy tố đã tiến hành, việc điều phối các biện pháp phòng ngừa an toàn bổ sung gặp phải nạn nhân và nhóm công tố, mức độ thoải mái tiếp tục trì hoãn quá trình trong một số trường hợp.Trong các trường hợp khác, phương pháp mặc định để thực hiện các cuộc phỏng vấn hầu như có thể không tối ưu cho nạn nhân, những người đã báo cáo cảm thấy thoải mái hơn khi phát triển mối quan hệ với các nhà điều tra trước khi chia sẻ kinh nghiệm của họ.Các thành viên của các nhóm truy tố có nghĩa vụ phải suy nghĩ sáng tạo để đáp ứng nhu cầu của nạn nhân trong khi xem xét sức khỏe và sự an toàn của chính họ.Cho dù các cuộc phỏng vấn trực tiếp hoặc ảo được tổ chức, các công tố viên thường tránh phỏng vấn các nạn nhân nhiều lần, hạn chế khả năng của các nhà điều tra theo dõi và xác nhận chi tiết.Truy cập vào các dịch vụ thông tin và dịch thuật cho nạn nhân buôn bán cũng là một thách thức, vì các mạng lưới hỗ trợ nạn nhân đã giảm các dịch vụ xuống mức tối thiểu.Hơn nữa, các quan chức tư pháp đã hoãn các vụ truy tố và thủ tục tố tụng của tòa án do sự chậm trễ trong các cuộc điều tra, nỗ lực duy trì các quy định về xa cách xã hội an toàn và tập trung vào các ưu tiên cạnh tranh.Tòa án đóng cửa khi bắt đầu đại dịch cũng trì hoãn các vụ truy tố, đóng góp đáng kể vào các hệ thống tư pháp tồn đọng của các vụ kiện.Mặc dù nhiều quốc gia đã chuyển sang tiến hành tố tụng tại tòa án hầu như không có kết nối internet và các rào cản liên quan đến chi phí đối với việc truy cập internet cho các cộng đồng nông thôn hoặc không được giám sát ở một số quốc gia, như Gambia, khiến nạn nhân gặp khó khăn khi tham gia các tòa án ảo.Những sự chậm trễ này đã làm giảm nạn nhân tiếp cận với công lý và hỗ trợ pháp lý, điều này cản trở nạn nhân, tình cảm, phục hồi và hồi hương về tình cảm, trong khi cho phép những kẻ buôn người tiếp tục các hoạt động tội phạm của họ và đe dọa nạn nhân bị buộc tội.

Các thách thức đa diện được tạo ra bởi đại dịch CoVID-19 tiếp tục phát triển và phơi bày lỗ hổng ở các cá nhân, cũng như các khoảng trống hệ thống.Vượt qua và thích nghi với những tác động rộng lớn này của đại dịch vẫn rất quan trọng đối với một phản ứng hiệu quả chống lại nạn buôn người.

Thích ứng với những nỗ lực chống buôn người để đối phó với Covid-19

Để đối phó với các thách thức mới nổi, chính phủ và các tổ chức xã hội dân sự đã thực hiện các đánh giá nghiên cứu chuyên sâu về tác động của Covid-19, tận dụng công nghệ như một phương pháp để giải quyết các xu hướng mới nổi, phương pháp chính sách thích nghi và tìm cách mở rộng sự bảo vệ cho nạn nhân.Đã có và tiếp tục có các giải pháp sáng tạo do người sống sót và thông tin không chỉ để đảm bảo tiếp tục các nỗ lực chống buôn người mà còn thúc đẩy sự an toàn và an ninh trong đại dịch.Cộng đồng chống buôn người đã xoay vòng để giải quyết các tình huống mới trong đại dịch Covid-19, chứng minh khả năng phục hồi và tạo ra các giải pháp tiên tiến có thể có lợi ngay cả sau đại dịch, nhưng nhiều thách thức vẫn tồn tại và tiếp tục xuất hiện.

Đánh giá nghiên cứu thực tế và nghiên cứu

Trong suốt cuộc khủng hoảng Covid-19, việc thiếu dữ liệu chính xác và đáng tin cậy đã đặt ra một thách thức đối với các nỗ lực chống buôn người hiệu quả và hiệu quả trên toàn thế giới.Rõ ràng là Covid-19 đã làm trầm trọng thêm các lỗ hổng của hàng triệu cá nhân và những nỗ lực bị ảnh hưởng xấu để chống buôn người, nhưng ít thông tin cụ thể tồn tại để xác nhận các xu hướng, hiểu các tác động và định hình phản ứng chống buôn người.Các tổ chức quốc tế đã tiến hành và đưa ra hầu hết các đánh giá toàn diện ban đầu về tác động của CoVID-19 đối với các nỗ lực chống buôn người và các lĩnh vực được nhấn mạnh để điều chỉnh các phương pháp tiếp cận chính sách và các nguồn lực nhắm mục tiêu.Ví dụ:

  • Sáng kiến toàn cầu chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Giatoc) đã công bố một bản tóm tắt chính sách vào tháng 5 năm 2020 nhấn mạnh xu hướng ban đầu trong buôn bán người trong đại dịch và thách thức đối với các phản ứng truyền thống.
  • Phụ nữ OSCE/Liên Hợp Quốc đã thực hiện một cuộc khảo sát mạnh mẽ chiếu ánh sáng về các vấn đề nạn nhân và nhà cung cấp dịch vụ phải đối mặt.
  • IOM đã tiến hành các đánh giá nhanh chóng ở các quốc gia khác nhau để giải quyết nhiều tác động của đại dịch đối với dân số dễ bị buôn bán, chẳng hạn như tác động kinh tế xã hội của Covid-19 đối với di cư lao động ở khu vực Thái Bình Dương.
  • UNODC’s partner NGOs that work on human trafficking reported that pandemic-related measures led their beneficiaries to lose income and access to food.

With an anticipated increase in poverty rates for the first time in two decades, further research on the economic effects of COVID-19 remains essential to understanding the ensuing large-scale unemployment, particularly in the informal job sector, and how it will drive known and new forms of trafficking.

Technological Innovations

As seen in most fields during the pandemic, technology has become a powerful means to connect people and collect information, while limiting individuals’ exposure to the virus. Despite widespread challenges adapting to a remote, digital work environment, anti-trafficking stakeholders leveraged technology to identify victims, support victims and survivors, and increase collaboration.

Although the pandemic resulted in the reduction or suspension of many support networks for victims, service providers shifted to online and virtual platforms to continue supporting victims as much as possible. A service provider in Colombia ensured that all trafficking victims they served had access to the internet and a smartphone to receive online counseling services and mobile vouchers for food and hygienic products. In addition, some service providers offered telephone and online counseling and legal aid sessions, including filing temporary protection orders by email and providing legal representation via online platforms.

Civil society organizations collaborated to promote information sharing and the availability of COVID-related service provision and anti-trafficking guidance remotely. Many organizations consolidated lists of resources and online guidance on promising practices to provide support services to victims and survivors during the pandemic.

Some examples of online collaboration between anti-trafficking stakeholders include:

  • The Human Trafficking Foundation started a Google group, and the Freedom Collaborative initiated a COVID-19 Response Facebook group.
  • In Uganda, the Human Trafficking Institute (HTI) developed a forum via WhatsApp to establish communication among police and prosecutors during the shutdown. The WhatsApp forum allowed the nearly 350 police and prosecutor participants to share tips and resources on effective methods for trafficking investigations and prosecutions. It also allowed the Office of the Director of Public Prosecutions’ Trafficking Prosecutor and HTI’s legal expert to provide mentorship and technical assistance on trafficking cases to forum participants across the country.
  • In Kosovo, Terre des Hommes, along with partners, organized and conducted webinars on case management, challenges, and sustainability of delivering services to victims of trafficking during the COVID-19 pandemic.

Some organizations leveraged technology to innovate systems for victim identification and referrals while others, even some governments, expanded access to training to national and global audiences. For example:

  • IOM adapted its existing MigApp for migrant workers in the Americas to include a new section to highlight official health recommendations to prevent the spread of the virus, capture changes across countries—such as border restrictions, COVID-19 hotlines, or migration status changes—and produce surveys to better understand the COVID-related challenges migrants faced. In Colombia, IOM also designed a geo-referencing, GPS-based mobile application for members of the counter-trafficking national taskforce to detect trafficking victims and activate immediate direct assistance.
  • UNODC’s Human Trafficking and Migrant Smuggling Section (HTMSS) began providing alternative methods to deliver technical assistance by establishing an online center of excellence that will allow for delivery of trainings, webinars, and blended and self-paced learning, as well as interaction among practitioners to foster HTMSS’ community of practice.
  • Estonia launched a nationwide e-learning initiative in schools, led by law enforcement organizations and anti-trafficking experts, to combat and raise awareness of the rise of online sex trafficking and child exploitation during the pandemic.

In some countries, prosecutors and courts utilized technology to safely continue prosecution efforts while employing a victim-centered approach. Prosecutors typically conducted interviews with victims virtually and less frequently to prevent re-traumatization. Judges admitted virtual victim testimony via livestream in a separate room to allow victims to feel safer and prevent the potential spread of COVID-19. Some governments expanded protective services, such as admitting live teleconference testimony in court or providing victims the option to testify remotely to avoid interacting with their traffickers. In June 2020, Mexico secured its first trafficking in persons conviction from a virtual court session; however, the risk of traffickers and other abusers intercepting victims’ phone calls, text messages, or other forms of communication has been heightened in a remote environment in which victims and prosecutorial investigators are unable to develop a relationship. This emphasizes the importance of prioritizing safety, privacy, and informed use of technology when facilitating virtual trafficking assessments, investigations, and coordination of services with trafficking victims.

While technology allowed the anti-trafficking community to navigate more easily the myriad challenges caused by the pandemic, its expanded use highlighted the importance of ensuring victims’ access to technology and online services, as well as their safety and privacy when using technology to receive victim assistance. Anti-trafficking approaches should continue to incorporate technological innovations responsibly to improve anti-trafficking responses. Collaboration between the technology industry and the anti-trafficking field should also be encouraged to promote the development of technologies designed to better support anti-trafficking missions and meet the needs of victims and survivors.

Survivor-led and Survivor-informed Solutions

Survivor leaders and their organizations were resilient and essential throughout the pandemic. Since traditional forms of community outreach were less accessible or no longer possible, survivor leaders leveraged their networks and expertise to engage with vulnerable populations and victims through informal channels to share information on available support in a given area. Survivors also supported broader community responses to COVID-19. In Lesotho, a group of trafficking survivors in a shelter produced masks for themselves and the local community, contributing to the fight against the pandemic. Likewise, Sewing New Futures, a nonprofit social enterprise that employs women and girls who have survived sex trafficking in northern India, expanded their product line to include cloth face masks. The organization also donated proceeds from the production of artisan goods, including the masks, towards medical care and social services for survivors.

Many anti-trafficking organizations also responded to the pandemic by emphasizing staff wellness, especially for employees with lived experience of human trafficking who are at risk of heightened responses to the stress caused by the pandemic. Acknowledging the emotional weight of bringing trafficking-related casework into one’s home, survivor-led and survivor-informed organizations were mindful of staff needs when managing cases remotely, offering resources and opportunities to support the staff’s emotional well-being. This application of trauma-informed principles during a time of collective trauma reflects the success—and the necessity—of the push from survivors in recent years for the anti-trafficking movement as a whole to become more survivor- and trauma-informed.

Increased Assistance and Protections

Governments and anti-trafficking organizations responded to the increased vulnerabilities due to the pandemic through efforts to reduce the risk of trafficking and expand protection measures for victims. Some countries automatically extended temporary and transitory visas for migrant workers, while others suspended fines for unauthorized stays or extended medical coverage to anyone awaiting a decision on their immigration status. The Government of Thailand issued a Cabinet Resolution in August 2020 that made it easier to obtain new work permits and provided extensions for migrants working in Thailand. The Government of Maldives incorporated questions on labor exploitation and unethical recruitment into health screenings and COVID-19 contact tracing for all foreign workers. In June 2020, the Government of Sri Lanka approved a National COVID-19 Response Plan for Migrant Workers that covered prevention and the protection of trafficking victims, while the UK government extended public-funded safe accommodation for current victims and survivors for an additional three months. Similarly, the Australian Border Force issued an information sheet on modern slavery and COVID-19 that provided guidance on how to reduce the risk of workers becoming more vulnerable to human traffickers as a result of the pandemic. In Zimbabwe, local anti-trafficking organizations developed isolation cabins at three shelters to continue supporting individuals waiting for their COVID-19 test results without putting existing shelter residents at risk. The tendency of this pandemic to aggravate hardship requires the responsible implementation of increased protection measures that are responsive to the needs of individuals with coexisting vulnerabilities to human trafficking and COVID-19 infection.

Building Upon Crisis Frameworks

Crises disproportionately affect the most vulnerable, exacerbating the conditions for victims of human trafficking and increasing the risk of human trafficking for others. Successful counter-measures often require anti-trafficking actors to build upon existing crisis frameworks and promising practices to include anti-trafficking responses that are trauma-informed and victim-centered. The Jordanian police counter-trafficking unit worked with UNODC to implement a coordinated COVID-19 mitigation plan to protect first responders by procuring sanitation materials, protective equipment, medical kits, and COVID-19 testing units. In response to the risks of carrying out in-person research activities in communities that are vulnerable to both COVID-19 and trafficking, Freedom Fund drew on multisectoral best practices and guidance to create criteria for determining whether in-person research during COVID-19 can be safely conducted, as well as health and safety procedures to ensuring safe interactions. The criteria and procedures were designed to minimize risks to project team members and research participants by considering the best-available national and project-level information and the latest public health recommendations for COVID-19 mitigation. Other collaborative efforts have provided anti-trafficking stakeholders, including service providers, investigators, prosecutors, and first responders, with the tools, equipment, and guidance to protect themselves against and screen for the virus, which is essential to ensuring the health and safety of victims, survivors, and vulnerable populations.

Navigating not only the continuation of but also the increased need for anti-trafficking responses during a global health crisis proved to be exceptionally challenging. Despite this, the successes, the failures, and even the unknown results of the anti-trafficking response to COVID-19 allowed for new insights and solutions to pave a better path forward.

Considerations for the Anti-Trafficking Field’s Response to COVID-19 and Beyond

The anti-trafficking community made a concerted effort to incorporate anti-trafficking efforts into broader crisis responses in the past through building capacity, developing guidance and trainings, and supporting coordination of actors in the field. This has been seen through other crisis situations, such as the Darfur Genocide in 2003, the emergence of Boko Haram in Nigeria in 2009, the Philippines Typhoon Haiyan in 2013, the Ebola outbreak in West Africa in 2014, the emergence of the migrant crisis in Europe in 2015, and the Rohingya exodus in Burma in 2017, to name a few. As the world endures its second year fighting the global pandemic, the anti-trafficking community must emphasize learning and collaboration to deliver a continued and improved response to combating trafficking in this challenging environment. Drawing on lessons learned from the pandemic response thus far, there are four main considerations that aim to mitigate impacts of crises and guide the path forward for the anti-trafficking community:

  1. The value of collaboration between anti-trafficking actors.
  2. The need to incorporate anti-trafficking efforts into existing responses in other contexts, such as in humanitarian settings.
  3. The importance of proactive response and crisis mitigation planning to anti-trafficking activities.
  4. The application of equity-based approaches.

Addressing human trafficking during a global pandemic requires the full range of actors in the anti-trafficking community to bridge the gap and establish a comprehensive coordinated response. Governments should continue working with neighbors and NGOs to address cross-border trafficking issues and support strong collaboration at the borders to identify and prevent trafficking. Service providers should continue information-sharing efforts to develop and promote promising practices for supporting identified victims and vulnerable populations during the pandemic. Many organizations have published collaborative reports, such as Road to Recovery produced by Restore NYC, a U.S.-based service provider, in partnership with eight other anti-trafficking organizations, many of which were survivor-led and from various regions of the country, to present shared experiences and findings from service provision and organizational adaptations during COVID-19, as well as forward-looking takeaways. Anti-trafficking actors in all sectors should increase collaboration with the private sector to strengthen anti-trafficking efforts that encourage and support prevention of forced labor in supply chains, especially as companies aim to make up for pandemic-related production disruptions and widespread unemployment drives vulnerability. For example, Winrock International’s How to Build Cross-Sectoral Collaboration to Protect Workers in the Age of COVID-19, seeks to initiate cross-sector collaboration and provide guidance for the private sector and anti-trafficking organizations to address increased vulnerability to human trafficking, particularly forced labor, for job seekers, migrant workers, and individuals from vulnerable communities. In the long term, private-sector collaboration should aim to improve the ability of companies to withstand shocks from crises that could leave portions of their workforce vulnerable to trafficking.

To navigate the challenges posed by stretched resources, competing priorities, and reduced capacity or political will of governments to combat trafficking, governments and NGOs should consider systemically integrating anti-trafficking efforts into existing response plans and practices in humanitarian and crisis contexts. Governments and other anti-trafficking organizations are already taking action to weave anti-trafficking measures into crisis responses. For example, IOM has developed resources for its staff to incorporate anti-trafficking into its own work in humanitarian and other emergency settings. In addition, IOM developed free, publicly available tools, such as its online course, Countering Human Trafficking in Humanitarian Settings and its publication, Counter-Trafficking in Emergencies: Information Management Guide, to encourage humanitarians, government staff, anti-trafficking experts, and others to integrate anti-trafficking into their response work routinely. When responding to the impacts of the COVID-19 virus, it is important that those working on safety and security measures are equipped with the knowledge and resources to identify and refer cases of human trafficking. For example, training on trafficking indicators should be expanded to healthcare workers, such as those supporting COVID-19 testing and vaccination efforts as they might be the few people a victim could interact with in public.

Phản ứng đối với các tác động của đại dịch đối với các nỗ lực chống buôn người cho đến nay phần lớn là phản ứng khi các bên liên quan làm việc để hiểu các tác động và điều chỉnh.Để tiếp tục đáp ứng trong thời gian dài cho dù là trong tình trạng đại dịch Covid-19 hay các cuộc khủng hoảng trong tương lai khác, các nhà ở các bên liên quan nên xem xét kế hoạch chủ động để thích ứng và linh hoạt đối với các cuộc khủng hoảng trong tương lai thông qua các công cụ quản lý và giảm thiểu rủi ro rộng rãi.Điều này bao gồm tiến hành các chiến dịch nâng cao nhận thức khi các đơn đặt hàng ở nhà vẫn còn, cung cấp dịch vụ cho các nạn nhân được xác định khi không có không gian an toàn và can thiệp vào các hệ thống tư pháp công cộng bị đình trệ để đảm bảo sự gián đoạn tối thiểu và ngăn chặn những kẻ buôn người mở rộng hoạt động của họ.Một bước quan trọng để chống lại nạn buôn người vào và ra khỏi bối cảnh đại dịch đang thành lập các ủy ban buôn bán chuyên ngành, văn phòng và/hoặc các đơn vị cam kết đảm bảo các nỗ lực chống buôn người được duy trì và các nguồn lực ít có khả năng được chuyển hướng.Các tác nhân chống buôn người từ tất cả các lĩnh vực nên phát triển các kế hoạch giảm thiểu rủi ro cụ thể để ứng phó hiệu quả với nhiều cuộc khủng hoảng, bao gồm thiên tai, kịch bản xung đột, khủng hoảng sức khỏe hoặc kết hợp các trường hợp khẩn cấp có thể làm trầm trọng thêm các lỗ hổng đối với buôn bán và kinh nghiệm của nạn nhân.Các kế hoạch giảm thiểu rủi ro và quản lý hiệu quả nên kết hợp một cách có trách nhiệm kết hợp các phương pháp tiếp cận thông minh, thông tin chấn thương và tập trung vào nạn nhân để đáp ứng nhu cầu của những người sống sót và giảm thiểu cơ hội tái chấn thương trong các cuộc khủng hoảng.

Với những tác động không cân xứng của đại dịch đối với các cộng đồng bị thiệt thòi, một cách tiếp cận dựa trên vốn chủ sở hữu là rất quan trọng để giảm các lỗ hổng.Áp dụng một ống kính dựa trên vốn chủ sở hữu liên quan đến việc đánh giá và hiểu làm thế nào các tổ chức cá nhân duy trì sự ngoài lề của dân số dễ bị tổn thương, bao gồm những người khuyết tật, người LGBTQI+, người bản địa và các thành viên của các nhóm thiểu số chủng tộc, sắc tộc và tôn giáo.Các chính phủ có thể tăng cường nỗ lực để giảm sự chênh lệch mở rộng trong đại dịch, điều này cũng góp phần vào việc buôn bán rủi ro và thúc đẩy những kẻ buôn người bằng cách xây dựng các chính sách và chương trình đáp ứng nhu cầu của các cộng đồng không được giám sát.Các nhà cung cấp dịch vụ nên kiểm tra làm thế nào họ có thể tham gia và hợp tác một cách có ý nghĩa hơn với các dân số không được bảo vệ trong lịch sử để đạt được việc cung cấp dịch vụ đáp ứng toàn diện và văn hóa.Tương tự như vậy, cơ quan thực thi pháp luật nên giải quyết các thành kiến để cải thiện các nỗ lực nhận dạng và bảo vệ cho các nạn nhân từ các cộng đồng bị thiệt thòi trong khi ngăn chặn việc tái chấn thương.Thật vậy, ở nhiều nơi, việc chuyển hướng sự chú ý của cơ quan thực thi pháp luật từ việc buôn bán người trong việc thực thi các biện pháp liên quan đến đại dịch đã dẫn đến việc các tác nhân cộng đồng khác thực hiện các nỗ lực nhận dạng, thường theo những cách có khả năng đáp ứng văn hóa hơn và ít có khả năng tái sát nạn nhân.Khi đại dịch dạy các diễn viên chống buôn người thích nghi và xem các thách thức từ các quan điểm mới, rõ ràng là một cách tiếp cận dựa trên vốn chủ sở hữu là điều cần thiết cho phần còn lại của phản ứng đại dịch, cũng như tương lai của lĩnh vực chống buôn người.

Trước cuộc khủng hoảng và khủng hoảng trong tương lai này, trách nhiệm của cộng đồng quốc tế là hợp tác với mục tiêu chung là ngăn chặn và chống lại nạn buôn người, bảo vệ nạn nhân và trao quyền cho những người sống sót.Mặc dù công việc khó khăn vẫn còn ở phía trước, năm vừa qua đã chứng minh các bên liên quan về quyết tâm không ngừng và những đổi mới đầy hứa hẹn giữa những thách thức đặc biệt.Với sự hợp tác tiếp tục, thích ứng và cam kết phục vụ nhu cầu của nạn nhân, những người sống sót và dân số dễ bị tổn thương, những nỗ lực chống buôn người sẽ xuất hiện mạnh mẽ hơn trong thời kỳ hậu đại học.

Buôn bán người được xác định

Đạo luật Bảo vệ nạn nhân buôn người năm 2000, như đã sửa đổi (TVPA), định nghĩa các hình thức buôn bán nghiêm trọng của người Hồi giáo như:

  • Buôn bán tình dục trong đó một hành vi tình dục thương mại được gây ra bởi vũ lực, gian lận hoặc ép buộc, hoặc trong đó người đó gây ra để thực hiện một hành động như vậy đã không đạt được 18 tuổi;hoặc
  • Việc tuyển dụng, nuôi dưỡng, vận chuyển, cung cấp hoặc có được một người lao động hoặc dịch vụ, thông qua việc sử dụng vũ lực, gian lận hoặc ép buộc cho mục đích khuất phục đối với sự phục vụ không tự nguyện, mẫu đơn, trói nợ hoặc nô lệ.

Một nạn nhân không cần phải được vận chuyển từ vị trí này sang địa điểm khác để tội phạm thuộc định nghĩa này.

Hiểu về buôn bán người

Buôn bán người ở người, người Hồi giáo, người Hồi giáo, người Hồi giáo, người hiện đại là những người có nghĩa là những người sử dụng cho biết, những kẻ buôn bán người lớn đang sử dụng, theo đó những kẻ buôn người khai thác và kiếm lợi nhuận cho người lớn hoặc trẻ em bằng cách thực hiện lao động hoặc tham giaTình dục thương mại.Khi một người dưới 18 tuổi được sử dụng để thực hiện một hành vi tình dục thương mại, đó là một tội ác bất kể có bất kỳ lực lượng, gian lận hay ép buộc nào.

Hoa Kỳ công nhận hai hình thức buôn bán chính ở những người: lao động cưỡng bức và buôn bán tình dục.Ý nghĩa cơ bản của các hình thức buôn bán người này và một số đặc điểm độc đáo của từng hình thức được nêu dưới đây, tiếp theo là một số nguyên tắc và khái niệm chính liên quan đến tất cả các hình thức buôn bán người.

Hơn 175 quốc gia đã phê chuẩn hoặc tham gia vào giao thức Mẹo của Liên Hợp Quốc xác định buôn bán người và có nghĩa vụ ngăn chặn và chống lại tội phạm.

Tvpa của Hoa Kỳ và giao thức Mẹo của Liên Hợp Quốc chứa các định nghĩa tương tự về buôn bán người.Các yếu tố của cả hai định nghĩa có thể được mô tả bằng cách sử dụng khung ba phần tử tập trung vào các hành vi buôn bán 1);2) có nghĩa là;và 3) mục đích.Tất cả ba yếu tố là điều cần thiết để hình thành một vi phạm buôn bán người.

Cưỡng bức lao động

Lao động cưỡng bức, còn được gọi là buôn bán lao động của người Hồi giáo, bao gồm các hoạt động liên quan khi một người sử dụng vũ lực, gian lận hoặc ép buộc để có được lao động hoặc dịch vụ của người khác.

Các hành vi của người Viking, yếu tố lao động cưỡng bức của người Viking được đáp ứng khi các nhà tuyển dụng buôn người, chứa chấp, vận chuyển, cung cấp hoặc có được một người cho lao động hoặc dịch vụ.“acts” element of forced labor is met when the trafficker recruits, harbors, transports, provides, or obtains a person for labor or services.

Yếu tố có nghĩa là yếu tố lao động cưỡng bức của người Viking bao gồm việc sử dụng vũ lực, gian lận hoặc ép buộc.Đề án cưỡng chế có thể bao gồm các mối đe dọa lực lượng, thao túng nợ, từ chối trả lương, tịch thu các tài liệu nhận dạng, ép buộc tâm lý, tác hại uy tín, thao túng việc sử dụng các chất gây nghiện, đe dọa đến người khác hoặc các hình thức cưỡng chế khác.“means” element of forced labor includes a trafficker’s use of force, fraud, or coercion. The coercive scheme can include threats of force, debt manipulation, withholding of pay, confiscation of identity documents, psychological coercion, reputational harm, manipulation of the use of addictive substances, threats to other people, or other forms of coercion.

Phần tử của mục đích của người Viking tập trung vào mục tiêu của thủ phạm để đảm bảo lao động hoặc dịch vụ.Không có giới hạn về vị trí hoặc loại công nghiệp.Những kẻ buôn người có thể phạm tội này trong bất kỳ lĩnh vực hoặc bối cảnh nào, cho dù hợp pháp hay bất hợp pháp, bao gồm nhưng không giới hạn trong các lĩnh vực nông nghiệp, nhà máy, nhà hàng, khách sạn, tiệm massage, cửa hàng bán lẻ, tàu đánh cá, mỏ, nhà riêng hoặc hoạt động buôn bán ma túy.“purpose” element focuses on the perpetrator’s goal to secure labor or services. There is no limit on the location or type of industry. Traffickers can commit this crime in any sector or setting, whether legal or illicit, including but not limited to agricultural fields, factories, restaurants, hotels, massage parlors, retail stores, fishing vessels, mines, private homes, or drug trafficking operations.

Tất cả ba yếu tố là điều cần thiết để tạo thành tội phạm lao động cưỡng bức.

Có một số loại lao động cưỡng bức nhất định thường được phân biệt để nhấn mạnh hoặc vì chúng phổ biến rộng rãi:

Dịch vụ trong nước

Dịch vụ trong nước của người Viking là một hình thức lao động cưỡng bức, trong đó kẻ buôn người yêu cầu nạn nhân thực hiện công việc trong một nơi cư trú tư nhân.Hoàn cảnh như vậy tạo ra các lỗ hổng độc đáo.Người lao động trong nước thường bị cô lập và có thể làm việc một mình trong một ngôi nhà.Chủ lao động của họ thường kiểm soát quyền truy cập vào thực phẩm, vận chuyển và nhà ở.Những gì xảy ra trong một nơi cư trú tư nhân được ẩn giấu khỏi thế giới, bao gồm cả việc thực thi pháp luật và thanh tra lao động, dẫn đến các rào cản đối với việc xác định nạn nhân.Người lao động nước ngoài đặc biệt dễ bị lạm dụng do các rào cản ngôn ngữ và văn hóa, cũng như thiếu quan hệ cộng đồng.Một số thủ phạm sử dụng các loại điều kiện này như là một phần của các chương trình cưỡng chế của họ để buộc lao động của lao động trong nước ít có nguy cơ phát hiện.

Buộc lao động trẻ em

Thuật ngữ Lao động trẻ em bắt buộc, mô tả các kế hoạch lao động cưỡng bức trong đó những kẻ buôn người buộc trẻ em phải làm việc.Những kẻ buôn người thường nhắm vào trẻ em vì chúng dễ bị tổn thương hơn.Mặc dù một số trẻ em có thể tham gia hợp pháp vào một số hình thức công việc nhất định, buộc hoặc ép buộc trẻ em làm việc vẫn là bất hợp pháp.Các hình thức của chế độ nô lệ hoặc chế độ nô lệ, bao gồm cả việc bán trẻ em, lao động trẻ em bắt buộc hoặc bắt buộc, và sự trói buộc nợ nần và nông nô của trẻ em tiếp tục tồn tại, bất chấp sự cấm đoán pháp lý và lên án rộng rãi.Một số chỉ số về lao động cưỡng bức của một đứa trẻ bao gồm các tình huống trong đó đứa trẻ dường như đang bị giam giữ một thành viên không gia đình và trẻ em làm việc tài chính cho một người nào đó bên ngoài gia đình trẻ con;hoặc từ chối thức ăn, nghỉ ngơi hoặc đi học cho một đứa trẻ đang làm việc.

Buôn bán tình dục

Buôn bán tình dục bao gồm một loạt các hoạt động liên quan khi một kẻ buôn người sử dụng vũ lực, gian lận hoặc ép buộc để buộc người khác tham gia vào một hành vi tình dục thương mại hoặc khiến trẻ tham gia vào một hành động tình dục thương mại.

Tội phạm buôn bán tình dục cũng có thể được hiểu thông qua các hành vi của người Hồi giáo, nghĩa là có nghĩa là, và mục đích của mục đích.Tất cả ba yếu tố được yêu cầu để thiết lập một tội phạm buôn bán tình dục (ngoại trừ trong trường hợp buôn bán tình dục trẻ em trong đó phương tiện không liên quan).

Các hành động của người Hồi giáo về buôn bán tình dục được đáp ứng khi một kẻ buôn người tuyển dụng, chứa chấp, vận chuyển, cung cấp, thu được, bảo trợ, hoặc mời người khác tham gia vào tình dục thương mại. “acts” element of sex trafficking is met when a trafficker recruits, harbors, transports, provides, obtains, patronizes, or solicits another person to engage in commercial sex.

Các yếu tố của người Viking có nghĩa là buôn bán tình dục xảy ra khi một kẻ buôn người sử dụng vũ lực, gian lận hoặc ép buộc.Sự ép buộc trong trường hợp buôn bán tình dục bao gồm một loạt các phương tiện bất bạo động bao gồm trong định nghĩa lao động cưỡng bức.Chúng có thể bao gồm tác hại nghiêm trọng, tổn hại tâm lý xã hội, tác hại uy tín, các mối đe dọa đối với người khác và thao túng nợ.“means” element of sex trafficking occurs when a trafficker uses force, fraud, or coercion. Coercion in the case of sex trafficking includes the broad array of nonviolent means included in the forced labor definition. These can include serious harm, psychosocial harm, reputational harm, threats to others, and debt manipulation.

Yếu tố mục đích của người Viking trong mọi trường hợp buôn bán tình dục là như nhau: tham gia vào một hành vi tình dục thương mại.Buôn bán tình dục có thể diễn ra tại nhà riêng, tiệm massage, khách sạn hoặc nhà thổ, trong số các địa điểm khác, cũng như trên internet. “purpose” element in every sex trafficking case is the same: to engage in a commercial sex act. Sex trafficking can take place in private homes, massage parlors, hotels, or brothels, among other locations, as well as on the internet.

Buôn bán tình dục trẻ em

Trong trường hợp một cá nhân tham gia vào bất kỳ hành vi nào được chỉ định bởi một đứa trẻ (dưới 18 tuổi), yếu tố phương tiện không liên quan bất kể bằng chứng về lực lượng, gian lận hay ép buộc tồn tại.Việc sử dụng trẻ em trong tình dục thương mại bị cấm bởi pháp luật ở Hoa Kỳ và hầu hết các quốc gia trên thế giới.

Nguyên tắc và khái niệm chính

Những nguyên tắc và khái niệm chính này liên quan đến tất cả các hình thức buôn bán người, bao gồm cả lao động cưỡng bức và buôn bán tình dục.

Đồng ý

Buôn bán người có thể diễn ra ngay cả khi nạn nhân ban đầu đồng ý cung cấp lao động, dịch vụ hoặc hành vi tình dục thương mại.Phân tích chủ yếu tập trung vào hành vi buôn người và không phải là nạn nhân.Một kẻ buôn người có thể nhắm mục tiêu nạn nhân sau khi một nạn nhân áp dụng cho một công việc hoặc di cư để kiếm sống.Kế hoạch cưỡng chế buôn người là những gì quan trọng, không phải là nạn nhân của sự đồng ý trước hoặc khả năng đồng ý có ý nghĩa sau đó.Tương tự như vậy, trong một vụ buôn bán tình dục, một nạn nhân trưởng thành, sự sẵn sàng ban đầu để tham gia vào các hành vi tình dục thương mại không liên quan khi một thủ phạm sau đó sử dụng sự ép buộc để khai thác nạn nhân và khiến họ tiếp tục tham gia vào các hành vi tương tự.Trong trường hợp buôn bán tình dục trẻ em, sự đồng ý của nạn nhân không bao giờ có liên quan vì một đứa trẻ không thể đồng ý hợp pháp với giới tính thương mại.

Sự chuyển động

Cả luật pháp Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế đều không yêu cầu một kẻ buôn người hoặc nạn nhân di chuyển qua biên giới vì một hành vi phạm tội buôn người.Buôn bán người là một tội ác khai thác và ép buộc, và không di chuyển.Những kẻ buôn người có thể sử dụng các kế hoạch đưa nạn nhân cách xa nhà của họ hàng trăm dặm, hoặc khai thác chúng trong cùng một khu phố nơi họ sinh ra.

Nợ Bondage

Nợ Nợ Bondage, tập trung vào các tội ác buôn người, trong đó người buôn bán phương tiện ép buộc chính là thao túng nợ.Luật pháp Hoa Kỳ cấm thủ phạm sử dụng các khoản nợ như một phần của kế hoạch, kế hoạch hoặc mô hình của họ để buộc một người làm việc hoặc tham gia vào tình dục thương mại.Những kẻ buôn người nhắm vào một số cá nhân có khoản nợ ban đầu được coi là một điều kiện của việc làm trong tương lai, trong khi ở một số quốc gia, những người buôn bán nói với các cá nhân rằng họ đã thừa hưởng khoản nợ từ người thân.Những kẻ buôn người cũng có thể thao túng các khoản nợ sau khi mối quan hệ kinh tế bắt đầu bằng cách giữ lại thu nhập hoặc buộc nạn nhân phải nhận các khoản nợ cho các chi phí như thực phẩm, nhà ở, hoặc & nbsp; vận chuyển.Họ cũng có thể thao túng các khoản nợ mà một nạn nhân nợ người khác.Khi những kẻ buôn người sử dụng các khoản nợ như một phương tiện để bắt buộc lao động hoặc tình dục thương mại, họ đã phạm tội.

Non-Penalization

Phù hợp với định nghĩa về nạn buôn người, các chính phủ không nên phạt hoặc truy tố nạn nhân buôn người trong những người vì các hành vi bất hợp pháp mà kẻ buôn người của họ buộc họ phải thực hiện.Nguyên tắc này nhằm bảo vệ các nạn nhân khỏi phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi không phải là lựa chọn của họ, mà là bị điều khiển bởi kẻ buôn người của họ.Nếu một chính phủ đã bị phạt hoặc trừng phạt một nạn nhân theo cách như vậy, chính phủ nên bỏ qua bản án và/hoặc loại bỏ hồ sơ nạn nhân.

Buôn bán người do nhà nước tài trợ

Trong khi giao thức tip TVPA và Liên Hợp Quốc kêu gọi các chính phủ chủ động giải quyết tội phạm buôn bán, một số chính phủ là một phần của vấn đề, trực tiếp đưa công dân của họ vào chế độ nô lệ tình dục hoặc các kế hoạch lao động cưỡng bức.Từ lao động cưỡng bức trong các dự án làm việc công cộng địa phương hoặc quốc gia, các hoạt động quân sự và các lĩnh vực quan trọng về kinh tế, hoặc là một phần của các dự án hoặc nhiệm vụ do chính phủ tài trợ ở nước ngoài, các quan chức sử dụng quyền lực của họ để khai thác công dân của họ.Để trích xuất công việc này, các chính phủ ép buộc bằng cách đe dọa rút lợi ích công cộng, từ chối mức lương, không tuân thủ các giới hạn về dịch vụ quốc gia, thao túng tình trạng pháp lý của các cá nhân không quốc tịch và các nhóm thiểu số khác, đe dọa trừng phạt các thành viên gia đình hoặc dịch vụ điều hòahoặc tự do di chuyển về lao động hoặc tình dục.Vào năm 2019, Quốc hội đã sửa đổi TVPA để thừa nhận rằng các chính phủ cũng có thể đóng vai trò là kẻ buôn người, đề cập cụ thể đến một chính sách của chính phủ hoặc mô hình buôn bán người, buôn bán các chương trình do chính phủ tài trợ, buộc lao động trong các dịch vụ y tế liên quan đến chính phủ hoặc các lĩnh vực khác,Chế độ nô lệ tình dục trong các trại chính phủ, hoặc việc làm hoặc tuyển dụng binh lính trẻ em.

Tuyển dụng bất hợp pháp hoặc sử dụng binh lính trẻ em

Một biểu hiện khác của nạn buôn người xảy ra khi một nhóm vũ trang chính phủ (bao gồm cảnh sát hoặc lực lượng an ninh khác), tổ chức bán quân sự, nhóm phiến quân hoặc nhóm vũ trang phi nhà nước khác tuyển dụng hoặc sử dụng trẻ em qua lực lượng, gian lận hoặc cưỡng chếtrong vai trò hỗ trợ.Vai trò hỗ trợ như vậy bao gồm trẻ em phục vụ như đầu bếp, người khuân vác, lính canh, sứ giả, y tế, người hầu hoặc gián điệp.Trẻ em cũng được sử dụng như nô lệ tình dục.Chế độ nô lệ tình dục, như được đề cập ở đây, xảy ra khi các nhóm vũ trang buộc hoặc ép buộc trẻ em kết hôn với nhau hoặc bị các chỉ huy hoặc chiến binh hãm hiếp.Cả trẻ em nam và nữ thường bị lạm dụng tình dục hoặc bị khai thác bởi các thành viên của các nhóm vũ trang và phải chịu các loại hậu quả về thể chất và tâm lý tàn khốc tương tự liên quan đến buôn bán tình dục.

Trách nhiệm trong chuỗi cung ứng

Lao động cưỡng bức được ghi nhận tốt trong nền kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong nông nghiệp, đánh bắt cá, sản xuất, xây dựng và làm việc trong nước;Nhưng không có lĩnh vực nào là miễn dịch.Buôn bán tình dục cũng xảy ra trong một số ngành.Nổi tiếng nhất là ngành khách sạn, nhưng tội phạm cũng xảy ra liên quan đến các ngành công nghiệp khai thác nơi các hoạt động thường ở xa và thiếu sự hiện diện của chính phủ có ý nghĩa.Chính phủ nên nắm giữ tất cả các thực thể, bao gồm cả các doanh nghiệp, chịu trách nhiệm cho nạn buôn người.Ở một số quốc gia, luật pháp quy định trách nhiệm của công ty trong cả hệ thống tư pháp dân sự và hình sự.TVPA cung cấp trách nhiệm như vậy cho bất kỳ người pháp lý nào, bao gồm cả một doanh nghiệp có lợi về mặt tài chính từ sự tham gia của nó vào kế hoạch buôn bán người, với điều kiện là doanh nghiệp biết hoặc nên biết về kế hoạch này.

Chủ đề quan tâm đặc biệt

Điều hướng sự phức tạp độc đáo trong buôn bán gia đình

Sau đây là sản phẩm của Mạng lưới tư vấn chuyên gia buôn người (Mạng) & NBSP;Được tài trợ bởi văn phòng Tip.Mục đích của mạng là để thu hút các chuyên gia, đặc biệt là những người có kinh nghiệm về buôn bán người, để cung cấp chuyên môn và đầu vào về các chính sách, chiến lược và sản phẩm chống buôn người của Bộ Ngoại giao.Tác giả có một loạt các chuyên môn liên quan đến buôn bán người, buôn bán gia đình, cộng đồng bên lề, chấn thương và khả năng phục hồi, giáo dục và lãnh đạo người sống sót.Ngoài ra, tác giả có bằng thạc sĩ về nghiên cứu liên văn hóa với trẻ em có nguy cơ và bằng cử nhân giáo dục.

Trong năm 2017, IOM ước tính rằng 41 phần trăm kinh nghiệm buôn bán trẻ em được tạo điều kiện bởi các thành viên trong gia đình và/hoặc người chăm sóc.Đáng chú ý, các chính phủ và các bên liên quan chống buôn người bỏ qua buôn bán gia đình, đó là khi một thành viên gia đình hoặc người giám hộ là kẻ buôn người nạn nhân hoặc là người bán đứa trẻ cho một kẻ buôn bán bên thứ ba.Lĩnh vực chống buôn người đã xác định và phân định việc tuyển dụng, chải chuốt và khai thác những kẻ buôn người sử dụng trong các kịch bản khác nhau về cả buôn bán tình dục và lao động.Dựa trên kiến thức này, lĩnh vực này đã điều chỉnh các nỗ lực chống buôn người để hỗ trợ những người sống sót theo những cách cụ thể, phù hợp và hiệu quả.Tuy nhiên, buôn bán gia đình, là duy nhất và bắt đầu được hiểu trong lĩnh vực này, rất khó xác định vì nó diễn ra trong mạng lưới gia đình và nạn nhân trẻ em, nhiều người trong số họ dưới 12 tuổi, những người có thể không nhận ra họ là nạn nhân.Bởi vì điều này, các chỉ số cho buôn bán gia đình khác với các chỉ số cho các loại buôn bán khác.

Trong những trường hợp này, kẻ buôn người có thể bắt đầu chải chuốt cho nạn nhân từ khi còn nhỏ, sử dụng sự gần gũi của họ để tận dụng giai đoạn phát triển của trẻ con và không có khả năng bày tỏ mối quan tâm hoặc các vấn đề an toàn.Một nghiên cứu ước tính rằng kẻ buôn người là một thành viên gia đình trong khoảng 31 phần trăm các trường hợp buôn bán tình dục trẻ em.Trong những trường hợp này, lòng trung thành vốn có của đứa trẻ và dựa vào cấu trúc gia đình khiến việc buôn bán gia đình khó xác định và thách thức để truy tố.Những hiểu lầm có hại về việc buôn bán gia đình ở đâu và làm thế nào, chẳng hạn như niềm tin rằng buôn bán gia đình chỉ xảy ra trong các khu phố, cộng đồng hoặc quốc gia có tình trạng kinh tế xã hội thấp, góp phần vào những thách thức đối với việc truy tố, phòng ngừa và nỗ lực bảo vệ.Giải quyết vấn đề buôn bán gia đình đòi hỏi một cách tiếp cận liên ngành để đảm bảo phục hồi sức khỏe tinh thần và thể chất, điều tra và các nỗ lực truy tố thông tin chấn thương, thực hành và can thiệp do người sống sót và người sống sót, và giáo dục và nhận thức xã hội lớn hơn.

When the family member is the trafficker, the exploitation is often normalized and accepted within the family culture, sometimes spanning generations. This normalization of exploitation may also occur when the familial trafficking is tied to economic and cultural factors, such as in some cases of forced child labor in agriculture. If another family member notices the exploitation of the child, there is a strong incentive to look the other way to protect the family, both physically and in reputation, from outside interventions. Family members entrusted with caring for the children are often the ones grooming, manipulating, abusing, and exploiting them. In many of these cases, children may simply have no other trusted adults actively engaged in their lives. They also may not have the physical and mental development to identify coercive tactics being used by an individual they have bonded with, trust, and love. Because children are dependent on their families for their basic needs, such as food, shelter, and clothing, they are often faced with having basic needs unmet or physical violence if they don’t comply with the trafficker. The traumatic impacts are severe because children have little psychological recourse for protecting themselves from the trafficker, who may also wield significant power by nature of the familial relationship alone.

When the family member or guardian is the victim’s trafficker, it may not be apparent that human trafficking is occurring, especially because the victim lives with or near the perpetrator. Whether the parent or guardian is the trafficker or sells the child who is then placed in the care of another trafficker, the trafficker is both that child’s exploiter and caregiver. In either case, a missing person’s report would not be filed, and child protective services or other welfare agencies would not be notified. Because a child in this situation is often trained not to report what is happening, interactions with adults who might otherwise notice a problem or identify the child as vulnerable, such as teachers, neighbors, doctors, and other adults in the community, instead see the child as shy or failing to thrive. Furthermore, victims of familial trafficking might not be able to comprehend or identify with the indicators featured in most public awareness and outreach campaigns that share information on how to seek help. These campaigns typically target audiences who are much older than those exploited in familial trafficking. The reality is that abuse, pain, torture, and exploitation is the only existence these survivors may have known.

The impacts of familial trafficking, both visible and not, and subsequent needs of survivors are often severe and complex, and they can be exacerbated by the onset of trauma during key childhood developmental stages. When children experience familial trafficking, they may develop educational and social delays, physical health problems, and psychological disorders, such as complex post-traumatic stress disorder and attachment disorders. Survivors may encounter a large number of health indicators and somatic complaints due to having to endure trauma for a long period of time at an early age, including head, stomach, and body aches; throat and urinary tract infections; interrupted sleep due to nightmares and flashbacks; difficulty concentrating; asthma; and more. Survivors of familial trafficking have a range of responses to the traditional educational system: some are reported to have learning challenges, including illiteracy and processing challenges. Other children excel, whether because school is where they feel safe or because they have been conditioned to please adults in their lives or developed resiliency and survival skills early in life. Furthermore, familial trafficking situations may have prevented survivors from developing key healthy social skills, including how to make and maintain friends, relate to other children and adults, ask for assistance, and recognize their own self-worth. Having a family member as the main perpetrator and trafficker may also result in many victims feeling unable to speak about the experiences they endured due to the shame it may bring upon their families, communities, and themselves. Regardless of socioeconomic background, child survivors of familial trafficking situations often have limited avenues for resources when seeking assistance.

Frequently, service providers use the same approaches and resources for familial trafficking that are used for all types of human trafficking, which can be inappropriate and even harmful. Few resources have been developed to address the particularities of familial trafficking. The ways in which a service provider would engage with an eight-year-old child exploited by a family member will need to be different than when engaging with a child who has a safe home with a trusted adult. A child who has been exploited by a family member will mostly likely need services to address complex trauma, attachment, and severe exploitation. While awareness of familial trafficking is increasing, more research is needed.

Still, the specific and long-term needs of survivors of familial trafficking can be met in a variety of ways. For example, many children would benefit from having one-on-one support to develop an individualized program with the survivor and meet with them several times a week. Most importantly, age- and culturally appropriate comprehensive programs need to be developed with consideration of each unique survivor in mind. Positive connection, the freedom to experience developmentally appropriate activities, and even fun, sometimes for the first time, are healing elements that should be emphasized in these programs. Through programs with an increased focus on familial trafficking, survivors learn they are not alone in their journey and that someone is there to walk beside them through every step.

Unifying Trauma-Informed Practices and Voices of Survivor Leadership

This narrative was written by a consultant for the Network funded by the TIP Office.  The purpose of the Network is to engage experts, particularly those with lived experience of human trafficking, to provide expertise and input on Department of State anti-trafficking policies, strategies, and products.  The author has a range of expertise related to human trafficking, marginalized communities, trauma recovery, education, mental health care, and survivor leadership.

Over the past decade, two of the most highlighted conversations in the anti-trafficking movement have centered on the need to incorporate trauma-informed practices into anti-trafficking work and to invite survivors into leadership positions within organizations. As the anti-trafficking community has grappled with how to integrate these ideals, it often conflates them. For example, organizations will prioritize hiring a survivor as a staff member or consultant and then equate that action with becoming a fully trauma-informed entity, while failing to use a trauma-informed approach to care, which often retraumatizes individuals receiving services. This limited approach to realizing both goals causes harm, especially when those organizations then claim they are “survivor-informed” but only focus on the survivor’s story or benefits to the organization and decline to implement the survivors’ recommendations or consider their feedback. Disrespecting survivor leaders and their experiences hurts and further exploits survivors, who are key stakeholders in the anti-trafficking movement, and it ultimately perpetuates a harmful and deficient understanding of what it means to be survivor-informed. These dual harms raise the need for additional trainings to teach organizations how to properly incorporate survivor feedback and adopt a comprehensive, trauma-informed approach in practice.

Organizations must incorporate the voices of multiple survivors into their trauma-informed practices. Outlined below is a description of what it means to be both trauma- and survivor-informed, as well as recommendations on integrating both approaches as one, comprehensive effort.

TRAUMA-INFORMED

Trauma-informed practices build upon understanding the impact of trauma not only on individuals seeking services but also on all staff members and consultants working within an organization. As such, vicarious trauma and the mental health needs of all consultants and staff members should also be prioritized, as opposed to singling out survivor leaders as the only individuals affected by trafficking or other sources of trauma. Because trauma-informed practices assume that every human being has experienced trauma of some kind, organizational structures should reflect the need for sensitivity and care surrounding all interactions and communications.

According to the U.S. Substance Abuse and Mental Health Services Administration (SAMHSA), a trauma-informed lens upholds each person as an active agent of their own recovery process, the ability of individuals to recognize symptoms of trauma in others, and the integration of a “do no harm” approach into the creation of policies, procedures, and practices. In addition, SAMHSA’s Six Key Principles of a Trauma-Informed Approach refers to the necessity of creating and protecting psychological and physical safety within the organization, fostering trust through transparency, providing peer support, and leveling power differences through collaboration, empowerment, and cultural humility.

SURVIVOR-INFORMED

In 2013, the United States’ Federal Strategic Action Plan on Services for Victims of Human Trafficking in the United States (Plan) identified the importance of engaging with survivors in decision-making processes as anti-trafficking leaders. Federal agencies responded by sharing plans to apply a survivor-informed approach for human trafficking. In 2015, the U.S. Advisory Council on Human Trafficking was established to advise federal agencies on their anti-trafficking policies and programs, including on the application of this approach to their efforts. Despite the attention towards and growth in understanding of a survivor-informed approach, gaps arose in how different agencies and organizations in various settings applied it. To address these gaps, the 2017 Human Trafficking Leadership Academy fellows, organized by the Department of Health and Human Services’ National Human Trafficking Training and Technical Assistance Center (NHTTAC), defined a survivor-informed practice as the “meaningful input from a diverse community of survivors at all stages of a program or project, including development, implementation and evaluation.”

Việc tích hợp lãnh đạo người sống sót và thực hành thông tin chấn thương đòi hỏi các tương tác bao gồm với những người sống sót ở tất cả các hình thức buôn người với sự đa dạng về quan điểm, như giới tính, nguồn gốc quốc gia, chủng tộc và tình dục.Điều cần thiết là phải có nhiều tiếng nói sống sót khác nhau cho vay phản hồi vào tất cả các lĩnh vực của một tổ chức.Các tổ chức phải lắng nghe những người sống sót và xác định cách tốt nhất để điều chỉnh các thực hành danh dự và kết hợp đầu vào của họ.Quá trình này bao gồm đánh giá các chương trình và chính sách với sự khiêm tốn và cam kết thay đổi bất cứ khi nào có thể, ngay cả khi những thay đổi đó sẽ khó thực hiện.Nó cũng phải bao gồm hỗ trợ nghiên cứu bổ sung về phản ứng của bộ não đối với chấn thương và về cách những kẻ buôn người thích nghi với các doanh nghiệp tội phạm của họ với những thay đổi xã hội.Các tổ chức có thể tự mình thành công theo cách thích nghi, không bị trì trệ để đáp ứng những thách thức đang phát triển của những nỗ lực chống buôn người bằng cách kết hợp một cách chánh niệm với nhau và các phương pháp tiếp cận thông tin chấn thương vì lợi ích tập thể của tất cả những người tham gia chốngkhông gian buôn bán.

Các tổ chức có thể đang trong các giai đoạn hiểu biết khác nhau và thực hiện các quá trình tập trung vào chấn thương và sống sót.Các khuyến nghị sau đây có thể được áp dụng cho các tổ chức ở nhiều giai đoạn tích hợp.

Các khuyến nghị cho sự tăng trưởng liên tục trong quá trình tích hợp

Thuê những người sống sót và đảm bảo môi trường làm việc thông minh chấn thương

  • Mời một số chuyên gia kinh nghiệm sống là một phần của nhân viên tổ chức, không chỉ vì những gì họ đã sống sót mà còn cho các kỹ năng và chuyên môn chuyên nghiệp mà họ cung cấp.Khi hỏi ý kiến và đề xuất của những tiếng nói này, hãy là một người nghe có ý thức và làm theo với việc thực hiện các thay đổi.Truyền đạt cập nhật về sự tiến triển của những thay đổi này.
  • Tạo các giao thức cho những gì tất cả nhân viên nên làm nếu họ cảm thấy bị tổ chức hoặc cá nhân trong tổ chức khai thác.
  • Nhận ra rằng chấn thương không phải là duy nhất đối với một cá nhân xác định là một nhà lãnh đạo sống sót;Nó đã ảnh hưởng đến toàn bộ đội theo những cách riêng biệt.Cách những người sống sót trong các vị trí lãnh đạo được đối xử nên phản ánh cách mà các nhân viên không có kinh nghiệm sống về buôn bán người được đối xử và ngược lại.
  • Thực hiện việc tự chăm sóc có chủ ý như là một phần của văn hóa tổ chức để xây dựng khả năng phục hồi và giúp giảm thiểu chấn thương gián tiếp, bao gồm cả việc mô hình hóa lãnh đạo điều hành thực hành tốt nhất và khuyến khích nhân viên tham gia vào các kỹ năng đối phó lành mạnh và chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần của họ.Các tổ chức cũng có thể thực hiện các ngày sức khỏe tâm thần được trả lương, kế hoạch tự chăm sóc như một phần của đánh giá nhân viên và giáo dục toàn tổ chức bao gồm sức khỏe cá nhân.

Trao quyền cho những người sống sót tại nơi làm việc

  • Không bao giờ yêu cầu những người sống sót trong lãnh đạo, hoặc trong bất kỳ vai trò nào khác, chia sẻ câu chuyện của họ và không bao giờ chia sẻ câu chuyện của họ cho họ.
  • Trao quyền cho những người sống sót để vượt xa nhãn hiệu của một người sống sót.Đối xử với họ nhiều hơn chấn thương mà họ đã trải qua và thúc đẩy điểm mạnh của họ, vì vậy, nếu họ mong muốn, họ có thể điều hành thành công tổ chức hoặc có được một công việc trong lĩnh vực mà họ lựa chọn.
  • Cơ hội thiết kế cho những người sống sót trong tổ chức để nhận giáo dục thường xuyên về lãnh đạo và phát triển chuyên nghiệp.

Thiết lập các quy trình hành chính cho một nơi làm việc thông tin chấn thương

  • Đảm bảo rằng các lợi ích bao gồm chăm sóc sức khỏe tâm thần cho tất cả các nhân viên, bao gồm bất kỳ người sống sót nào được thuê.
  • Ưu tiên và thể chế hóa sự tham gia của người sống sót bằng cách tạo ra một dòng ngân sách trong tổ chức để tham khảo ý kiến với các chuyên gia kinh nghiệm sống.
  • Bồi thường những người sống sót trong lãnh đạo tương xứng với sự lãnh đạo khác.
  • Sử dụng một người đánh giá bên thứ ba để đánh giá tổ chức tích hợp lãnh đạo người sống sót và các phương pháp tiếp cận thông tin chấn thương.

Để biết các mẹo về cách xây dựng một tổ chức thông tin sống sót, vui lòng xem bộ công cụ NHTTAC về chủ đề này. & NBSP;Nếu tìm kiếm thêm thông tin về các thực tiễn tốt nhất có thông tin của người sống sót, vui lòng xem thực tiễn thông tin của NHTTAC, người sống sót: Định nghĩa, thực tiễn tốt nhất và khuyến nghị.

Những tác động tiêu cực của thông tin sai lệch về nạn buôn người

Đối với nhiều người, nạn buôn người gợi lên hình ảnh của phụ nữ và trẻ em bị người lạ bắt buộc bị bắt và bán vào chế độ nô lệ tình dục, hoặc của những người bị nhốt trong phòng hoặc phương tiện ở xa nhà.Tuy nhiên, những hình ảnh này không nắm bắt được thực tế của hầu hết các trường hợp tình dục và buôn bán lao động.Buôn bán người thường không đơn giản hoặc mặn mà.Hầu hết các nạn nhân không bị bắt cóc bởi người lạ hoặc các tập đoàn bí mật.Thay vào đó, nó thường là hàng xóm, người thân, đối tác lãng mạn hoặc những người quen khác khai thác họ.Những kẻ buôn người thường sử dụng các phương pháp tuyển dụng gian lận, thao túng tâm lý hoặc cưỡng chế để họ không cần bắt cóc hoặc thậm chí kiềm chế thể chất nạn nhân của họ.

Thật không may, những quan niệm sai lầm lâu dài về buôn bán người đã giúp thông tin sai lệch và tin đồn về tội phạm lan nhanh trên khắp các cộng đồng và thông qua phương tiện truyền thông xã hội, đặc biệt là ở Hoa Kỳ.Trong những năm gần đây, những người tham gia diễn đàn trực tuyến đã lan truyền một số tuyên bố sai lầm và sai lệch về buôn bán tình dục trẻ em, đôi khi cố tình lừa dối công chúng thông qua các nỗ lực thông tin liên quan đến các lý thuyết âm mưu không liên quan đến nạn buôn người.Nội dung này thường trở thành virus trên các nền tảng truyền thông xã hội chính thống, tận dụng lợi thế của các thành viên có ý định tốt của công chúng, bao gồm cả những người muốn hành động để tạo ra sự khác biệt.Tin đồn và lý thuyết rằng một nhóm chính trị gia toàn cầu và những người nổi tiếng đang khai thác trẻ em, rằng các công ty bán đồ nội thất hoặc các mặt hàng giá cao khác trực tuyến cũng đang bán trẻ em mất tích, hoặc các văn bản lừa đảo đang lừa mọi người vào các kế hoạch buôn người là không có cơ sở và duy trì những câu chuyện sai lầmvề thực tế của nạn buôn người.

Liên quan nhiều hơn, sự lây lan của thông tin sai lệch này có tác động thực sự và bất lợi đến khả năng của cộng đồng chống buôn người để bảo vệ những người đã hoặc hiện đang trải qua nạn buôn người và đưa những kẻ buôn người ra công lý.Điều bắt buộc là công chúng phải hiểu đầy đủ các tác động tiêu cực mà truyền bá và hành động đối với những tin đồn và thông tin sai lệch này có thể có đối với các nhà cung cấp dịch vụ, nạn nhân và người sống sót, và lĩnh vực chống buôn người rộng hơn.

Khi những tin đồn sai lệch hoặc gây hiểu lầm về buôn bán người nhanh chóng lan truyền trực tuyến và thông qua phương tiện truyền thông xã hội, các cá nhân liên quan có thể muốn hành động vì họ thực sự tin vào thông tin.Mặc dù sự giúp đỡ của công chúng là một phần quan trọng trong các nỗ lực chống buôn người, công chúng có thể vô tình can thiệp khi hành động của nó dựa trên thông tin sai lệch hoặc các mẹo từ các cá nhân không có kiến thức trực tiếp về tình huống buôn người.Sự can thiệp như vậy có thể có tác dụng gây tổn hại đến khả năng thực thi pháp luật, các tổ chức phi chính phủ và các nhà cung cấp dịch vụ nạn nhân khác để ứng phó với các trường hợp thực tế.Ví dụ, thực thi pháp luật có thể bị ngập trong thông tin sai lệch mà họ được yêu cầu theo dõi hoặc điều tra, đặc biệt là khi các báo cáo liên quan đến trẻ em, kéo dài thời gian và nguồn lực hạn chế.

Ngoài ra, một loạt các cuộc gọi và lời khuyên liên quan đến thông tin sai lệch về buôn bán người trực tuyến có thể áp đảo các hệ thống can thiệp và chăm sóc đã được thiết lập để đáp ứng với các trường hợp bị buôn bán người.Theo một sự khác biệt như vậy, một người có thông tin về một vụ án hoặc người có thể là nạn nhân trong cuộc khủng hoảng thực sự sẽ phải đối mặt với thời gian chờ đợi dịch vụ lâu hơn và có thể bỏ lỡ cơ hội nhất thời của họ để kết nối với nhà cung cấp dịch vụ.Những người ủng hộ và nhà cung cấp dịch vụ phải coi trọng tất cả các báo cáo về nạn buôn người, điều đó có nghĩa là các báo cáo tăng lên dựa trên thông tin sai lệch khiến người trả lời khó khăn hơn trong việc hỗ trợ nạn nhân của nạn buôn người.

Sự lan truyền của thông tin sai lệch về buôn bán người cũng có nghĩa là các chuyên gia và tổ chức chống buôn người cần phân bổ thời gian và nguồn lực để giáo dục lại công chúng.Phân bổ các nguồn lực để gỡ lỗi các huyền thoại và thông tin sai lệch về buôn bán người mất thời gian tránh xa các dịch vụ quan trọng bao gồm phản ứng với những người sống sót tìm kiếm sự giúp đỡ.Các nguồn lực cho các tổ chức này thường đã bị căng thẳng và nên được hướng tới các giải pháp dựa trên bằng chứng để chống lại nạn buôn người.

Các tổ chức phi chính phủ cũng đã báo cáo trải nghiệm các cuộc tấn công mạng và các mối đe dọa trên phương tiện truyền thông xã hội khi họ đăng các tuyên bố gỡ lỗi thông tin sai lệch.Một số nhân viên của các tổ chức phi chính phủ giúp xác định và cung cấp dịch vụ cho những người sống sót sau nạn buôn người thậm chí đã phải đối mặt với các mối đe dọa bạo lực của những người theo dõi các lý thuyết này.Các cuộc tấn công và mối đe dọa này có thể yêu cầu các tổ chức chuyển hướng nhiều nguồn lực hơn khỏi các dịch vụ nạn nhân để cải thiện an ninh mạng và an ninh cá nhân cho nhân viên NGO.Một mối quan tâm nghiêm trọng khác là sự căng thẳng về tình cảm và chấn thương của các nhân viên tại các tổ chức phi chính phủ này.Các cá nhân làm việc để hỗ trợ những người sống sót sau khi buôn bán người, bao gồm cả những người đã dành cả cuộc đời của họ cho công việc này, có thể trở nên nản lòng khi sự lan truyền của các thông tin sai lệch mất tập trung vào việc cung cấp dịch vụ.

Những người sống sót báo cáo đã nhìn thấy những câu chuyện dựa trên thông tin sai lệch và cảm thấy được khai thác lại vì chấn thương mà họ phải đối mặt hiện đang bị nghi ngờ hoặc sử dụng cho các mục đích chính trị, và đôi khi chính trị.Sự xâm nhập quyền riêng tư cũng là một mối quan tâm và xảy ra khi thông tin hoặc hình ảnh về những người được cho là nạn nhân bị buôn bán, hoặc của các nạn nhân thực tế, được chia sẻ liên quan đến thông tin sai lệch hoặc thông tin sai lệch âm mưu.

Of further concern, experts have identified the strategic production and dissemination of false narratives about sex trafficking by white supremacists and other extremists, including violent extremists, in the United States as a means of recruiting new members. These groups have found success in exploiting the public’s concerns about child sex trafficking, using false information as a gateway to radicalize members. Thus, it is imperative to stop the spread of misinformation, including conspiracy theories, both to combat sex and labor trafficking and to prevent violent extremism and counter threats to U.S. national security.

It is easy to understand why individuals would see something online about human trafficking, especially when it involves children, and feel the need to share or act on the information. At first, it may not be apparent that acting on this information could have any harmful consequences. The recent scale of misinformation about human trafficking, however, distracts from the real crime, and may have long-lasting negative effects on efforts to combat it and to aid actual victims of human trafficking.

Individuals who wish to learn more about what human trafficking looks like in their own communities should seek out resources from established organizations and government agencies that use evidence-based solutions to address the crime. Many reputable sources publish information online to help the public understand when information being shared about human trafficking is misleading or false. Often the people in the best position to identify a potential case of human trafficking are neighbors, family members, friends, or others close to victims or traffickers. An important component of any successful anti-trafficking strategy is a well-informed public that understands the real indicators of the crime and can identify it when it happens in their own communities.

The Role of the Financial Sector: Promising Practices in the Eradication of Trafficking in Persons

Human trafficking is a widespread and highly profitable crime that generates an estimated $150 billion worldwide per year with a significant portion of those profits passing through legitimate financial services businesses. The illicit financial activity that human trafficking generates includes, but is not limited to: payments associated with the transport of victims and other logistics such as hotels or plane tickets; collection of proceeds generated by the exploitation of trafficking victims and by the sale of goods produced through their exploitation; movement of proceeds; and bribery and corrupt dealings to facilitate human trafficking.

One of the most effective ways to identify broader criminal networks and take the profit out of this crime is to follow the financial trail human traffickers leave behind. With proper training and guidance, financial institutions and designated non-financial businesses are able to identify illicit finance related to human trafficking and report potential cases. In addition, legal experts state that taking a “financial crimes approach” to human trafficking is highly effective in generating financial evidence that allows law enforcement to differentiate the traffickers from their victims, document the traffickers’ motives and knowledge, corroborate victim testimony, and assist in identifying affiliates. Proactive partnerships between governments, financial institutions, law enforcement, civil society, and survivor experts are critical to identifying illicit financial activity associated with human trafficking. Removing the ability to profit from the crime disincentivizes traffickers and serves as a crucial deterrent to prevent the crime altogether.

THE ROLE OF GOVERNMENTS AND THE FINANCIAL SECTOR

The UN TIP Protocol, which is widely ratified, mandates the criminalization of money laundering when proceeds are derived from human trafficking and encourages signatories to promote international cooperation between their respective national authorities addressing money laundering. The Financial Action Task Force (FATF) is the global standard-setting body for anti-money laundering (AML), countering the financing of terrorism, and countering proliferation financing. More than 200 countries have agreed to implement the FATF Recommendations, which require member countries to identify, assess, and understand money laundering and illicit finance risks and to mitigate those risks. The FATF Recommendations provide a useful framework for jurisdictions to address illicit finance related to human trafficking by strengthening their national AML laws and policies and by improving coordination and information sharing domestically and internationally. The FATF Recommendations also encourage jurisdictions to undertake proactive parallel financial investigations, including by collaborating with public and private financial institutions, as a standard practice when investigating and prosecuting human trafficking crimes, with a view to tracing, freezing, and confiscating proceeds acquired through this crime.

Tại Hoa Kỳ, Đạo luật Bảo mật Ngân hàng (BSA) bắt buộc các tổ chức tài chính giám sát và báo cáo nghi ngờ hoạt động bất hợp pháp, như buôn bán người, cũng như một số giao dịch tiền mặt cao nhất định.BSA cho phép các tổ chức tài chính chia sẻ thông tin liên quan đến việc rửa tiền và tài trợ khủng bố theo bến cảng an toàn pháp lý được cung cấp bởi Đạo luật Hoa Kỳ Patriot Phần 314 (b).Báo cáo và chia sẻ thông tin này có thể rất hữu ích trong việc theo dõi và truy tìm số tiền thu được liên quan đến buôn bán người.

Điều cần thiết là các tổ chức tài chính đào tạo nhân viên về các kỹ thuật buôn người sử dụng để rửa tiền và các chỉ số cờ đỏ hành vi và tài chính của buôn bán người.Nhân viên hướng tới khách hàng được đào tạo có thể nhận ra, tài liệu và báo cáo các chỉ số hành vi về buôn bán người.Các tổ chức tài chính được yêu cầu tuân thủ các quy trình thực thi pháp luật đang tìm cách xác định tài sản của người buôn bán, có thể bị tịch thu, bị tịch thu và được sử dụng để bồi thường cho nạn nhân.Hơn nữa, các tổ chức tài chính có thể tham gia vào những người sống sót sau khi buôn bán người để thông báo những nỗ lực của họ, bao gồm cả việc phát triển các chương trình đào tạo để tăng cường khả năng của nhân viên tiền tuyến và các chuyên gia trong ngành khác để phát hiện các giao dịch liên quan đến buôn bán người, cách thức và thời điểm can thiệp và làm thế nàoĐể xác định khi nào một bên thứ ba được hưởng lợi từ việc khai thác người khác.Tư vấn với những người sống sót để xem xét các giao thức và hệ thống AML hiện có có thể giúp xác định các lỗ hổng và cải tiến có thể.

Năm 2020, Chính phủ Canada đã đưa ra dự án bảo vệ để tăng cường nhận thức về buôn bán tình dục, cũng như số lượng và chất lượng báo cáo giao dịch đáng ngờ.Các tổ chức tài chính Canada, Fintrac (đơn vị tình báo tài chính Canada), cơ quan quản lý tài chính, thực thi pháp luật, các tổ chức phi lợi nhuận và các công ty công nghệ đã hợp tác để phát triển các giao dịch rửa tiền đáng ngờ từ buôn bán tình dục.Do đó, có một sự gia tăng đáng kể trong các báo cáo giao dịch đáng ngờ được nộp bởi các tổ chức tài chính liên quan đến hoạt động này.FINTRAC tiết lộ thông tin này cho cơ quan thực thi pháp luật để giúp mở rộng hoặc tinh chỉnh phạm vi các vụ án của họ, khám phá các mục tiêu mới, có được lệnh khám xét và xác định tài sản để thu giữ hoặc tịch thu.Chính quyền Canada đã cung cấp các tiết lộ cho các đối tác ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Jamaica và Brazil, chứng minh bản chất xuyên quốc gia của buôn bán người và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế để chấm dứt nó.

Vai trò của công nghệ

Thủ phạm sử dụng công nghệ trong các chương trình buôn bán người.Vòng buôn người thường sử dụng các cơ chế giao tiếp tức thời và an toàn để tạo điều kiện cho các hoạt động giữa các thành viên và sử dụng các ứng dụng vị trí GPS như một cách để kiểm soát các nạn nhân từ xa.Công nghệ cũng có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc chống lại các tội ác này, tăng khả năng thực thi pháp luật để xác định nạn nhân và thủ phạm, và giúp cung cấp hỗ trợ tài chính và các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân khác cho nạn nhân khi họ làm việc để xây dựng lại cuộc sống của họ.

Trong khi các tác nhân và tổ chức buôn người thường tạo ra tiền thu được bằng tiền mặt hoặc thông qua hệ thống tài chính truyền thống, đôi khi họ sử dụng tiền điện tử.Các giao dịch tiền điện tử, bao gồm cả những giao dịch liên quan đến buôn bán người, được ghi lại trên các blockchains công cộng.Tùy thuộc vào việc áp dụng và các giao dịch blockchain có thể được phân tích đến mức độ nào để xác định các mô hình biểu thị hoạt động tội phạm.Ví dụ, các chuyên gia đã phát triển các kỹ thuật để liên kết một số hồ sơ giao dịch tiền điện tử với quảng cáo tình dục thương mại trực tuyến, có thể cung cấp thêm thông tin về mạng lưới buôn người.Các giải pháp tuân thủ AML sáng tạo sử dụng dữ liệu lớn, phân tích nâng cao, phân tích mạng và ngày càng trí tuệ nhân tạo để giám sát các giao dịch và xác định và báo cáo các giao dịch đáng ngờ có thể hỗ trợ chính phủ và khu vực tư nhân xác định và chống lại mạng lưới buôn người.

Những kẻ buôn người cũng khai thác các đổi mới của ngành tài chính, chẳng hạn như thẻ trả trước và ứng dụng thanh toán di động, để chấp nhận thanh toán hoặc chuyển tiền thông qua hệ thống tài chính.Các nhà chức trách đã phát hiện ra việc sử dụng bộ xử lý thanh toán bên thứ ba (TPPP) của những kẻ buôn người và người hỗ trợ của họ đối với các quỹ dây, điều này cho thấy TPPP là người khởi tạo hoặc người thụ hưởng chuyển giao dây và che giấu người khởi tạo hoặc người thụ hưởng thực sự.Việc sử dụng các đổi mới này để lại dấu chân kỹ thuật số, có thể được phát hiện khi các giao dịch này đi qua hệ thống tài chính.

Hỗ trợ những người sống sót sau nạn buôn người

Những người sống sót sau nạn buôn người thường phát hiện ra rằng những kẻ buôn người đã kiểm soát bản sắc tài chính hoặc sản phẩm ngân hàng của họ và hạn chế hoặc ngăn chặn quyền truy cập của họ vào hệ thống tài chính, làm hỏng hồ sơ tín dụng của họ và cản trở việc tái hòa nhập tài chính của họ.Các tổ chức tài chính và xã hội dân sự có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ những người sống sót trong quá trình phục hồi bằng cách cung cấp cho họ quyền truy cập vào các dịch vụ tài chính kỹ thuật số, chẳng hạn như vi tài liệu trực tuyến, mà không yêu cầu tài liệu nhận dạng truyền thống.Chính phủ cũng có thể đóng một vai trò bằng cách hỗ trợ việc sử dụng các dịch vụ tài chính kỹ thuật số và các công cụ sáng tạo để hỗ trợ nạn nhân bị tổn hại về tài chính.Các giải pháp nhận dạng kỹ thuật số và quyền truy cập vào các dịch vụ tài chính kỹ thuật số có thể giúp nạn nhân nhận được hỗ trợ tài chính một cách an toàn từ chính phủ hoặc tổ chức phi chính phủ, truy cập các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân, sửa chữa tín dụng của họ và nhận thanh toán bồi thường khi thích hợp và có sẵn.

Cho phép những người sống sót sau nạn buôn người tham gia vào lĩnh vực tài chính được quy định là rất quan trọng.Sáng kiến Liechtenstein về Tài chính chống lại chế độ nô lệ và buôn bán là một quan hệ đối tác công tư được ra mắt vào tháng 9 năm 2018 để trả lời các cuộc gọi từ G7, G20, Đại hộibuôn người.Sáng kiến bao gồm người sống sót của nó hoạt động để tạo điều kiện cho người sống sót tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng cơ bản, chẳng hạn như kiểm tra và tài khoản tiết kiệm bằng cách kết nối những người sống sót với các tổ chức tài chính.Để hỗ trợ những người sống sót trong việc xây dựng lại cuộc sống của họ và ngăn chặn việc khai thác hơn nữa, lĩnh vực tài chính có thể cung cấp các chương trình ngoại lệ về trình độ tài khoản và các tài khoản cơ hội thứ hai từ thấp đến không.Chính phủ, nhà đầu tư, nhà nghiên cứu và các tác nhân xã hội dân sự nên khám phá cách tài chính vi mô và các hình thức tài chính xã hội khác có thể hỗ trợ những người sống sót.

Thừa nhận tác hại lịch sử và liên tục: Các kết nối giữa phân biệt chủng tộc có hệ thống và buôn bán người

Theo nhiều cách, Hoa Kỳ và các chính phủ khác phải đối mặt với những thách thức và xu hướng buôn người ngày nay phản ánh di sản sống của phân biệt chủng tộc và thực dân hóa toàn cầu hóa trong quá trình buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương thông qua chế độ nô lệ và thực hành khu vực của sự tự tước bản địa.Dữ liệu của Hoa Kỳ và toàn cầu cho thấy những kẻ buôn người không tương xứng nhắm đến những người ở các vị trí dễ bị tổn thương kinh tế xã hội hoặc chính trị do các chính sách phân biệt đối xử, những người thường là người da màu hoặc một phần của thiểu số chủng tộc.Trong khi những nỗ lực của Hoa Kỳ để chống lại nạn buôn người đã tăng lên và sự tinh tế trong những năm qua, Hoa Kỳ vẫn đấu tranh với cách giải quyết các tác động khác nhau của buôn bán người đối với các cộng đồng thiểu số chủng tộc.Để thực sự hiệu quả, một cách tiếp cận toàn diện để truy tố, bảo vệ và hầu hết các phòng thủ của nhóm phải đưa ra công lý và công bằng chủng tộc trong các chính sách và chương trình của nó.Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ tham gia toàn cầu để chống lại nạn buôn người và chủ trì Lực lượng đặc nhiệm chống buôn người liên bang.Là một phần của công việc này, nó cam kết tham gia vào các đối tác lãnh đạo liên ngành, dân sự, khu vực tư nhân, đa phương và người sống sót để hiểu rõ hơn về hiệu ứng phân biệt chủng tộc của hệ thống đối với lĩnh vực buôn bán người và tích hợp công bằng chủng tộc có chủ ý hơn vào việc chống buôn người Hoa Kỳphản ứng.

Nhiều năm nghiên cứu, dữ liệu và kiến thức trực tiếp của những người có kinh nghiệm về nạn buôn người chứng minh rằng phân biệt chủng tộc có hệ thống cắt giảm các mục tiêu dự định của việc truy tố những kẻ buôn người, bảo vệ những người có nạn nhân và ngăn chặn nạn buôn người theo những cách quan trọng.Cơ thể thông tin này cung cấp một nền tảng mạnh mẽ để học hỏi.Ví dụ, những người ủng hộ, những người sống sót và các chuyên gia khác đã phát hiện ra rằng những thành kiến và định kiến về chủng tộc đã ăn sâuCác giả định về ai là kẻ buôn người và ai nên có quyền truy cập vào các dịch vụ và bảo vệ nạn nhân.Các khuôn mẫu này có thể ảnh hưởng, ví dụ, mục tiêu thực thi pháp luật của cộng đồng cho các hoạt động chống buôn người, mà nạn nhân chứng kiến hệ thống tư pháp hình sự coi là đáng tin cậy và cá nhân nào xử lý kinh nghiệm của họ là khai thác và tìm kiếm sự giúp đỡ.Đến lượt, những kẻ buôn người, yếu tố những thành kiến về chủng tộc và định kiến thành các kế hoạch và chiến lược nhằm giảm nguy cơ bị bắt trong khi tăng nguy cơ thực thi pháp luật không đúng cách xử phạt nạn nhân.

Another powerful way systemic racism has perpetuated human trafficking and hindered anti-trafficking efforts is through discriminatory government policies and private practices that create disparities in access to economic means or opportunities, which traffickers exploit to compel victims in sex trafficking or forced labor. Predatory and exclusionary practices that keep certain racial communities from attaining financial stability and building generational wealth provide traffickers ample opportunity to offer tempting alternatives. These harmful practices include redlining, lending discrimination, unequal distribution of government subsidies and services, restricted entry into white collar or higher paying jobs, and intentional exclusions of certain professions from worker protections.

The inequities created by systemic racism have survived in part because of the intentional destruction of certain racial groups’ social support networks. Traffickers often seek out individuals with weaker community or family connections, knowing they have fewer safeguards. The chattel slavery system relied on the separation of family units during auctions and trading of enslaved people. It restricted where and how enslaved people could gather or socialize to weaken communal bonds to avoid a unified rebellion for freedom. This pattern of fracturing families and communities has led to an unjust overrepresentation of Black individuals in other systems, like prisons, runaway and homeless youth services, and foster or institutional care, that exacerbate the social isolation and vulnerability on which traffickers prey. Similar family separation policies were used to weaken or destroy indigenous families and communities, including forcibly removing Native children from their families and tribes to send them to “boarding schools” with the intention of forcing them to assimilate and no longer identify with their culture. Such policies have resulted in an ongoing disproportionate number of Native children in the child welfare system, increasing their vulnerability to human trafficking.

These are only a few of the many manifestations of systemic racism that inhibit an effective anti-trafficking response. The following excerpts highlight the reflections of some who have directly experienced the ways in which systemic racism intersects with human trafficking in the United States and provide insight and guidance on how best to move forward.

“It was only when I decided to escape my trafficker that I realized how pronounced racial injustice was in my community, particularly against human trafficking survivors with previous arrest records…. Human trafficking continues to be a critical threat to Black communities. We need better support that doesn’t criminalize survivors but protects our rights instead. Standing in solidarity with Black lives also means speaking up for the injustices plaguing Black communities that are overwhelmed with trafficking victims. First, we must understand the disparities that disproportionately affect Black trafficking survivors. Then, we must do a better job supporting survivors when they escape. Many victims struggle with a long list of criminal offenses that follow them for the rest of their lives.”

– Lyresh Magee,
Entrepreneur, Cosmotologist, Graduate from the Coalition to Abolish Slavery and Trafficking (Cast), Los Angeles

“Racism has made Black trafficking survivors and other survivors of color feel invisible. It has exacerbated our isolation, increased our stress, and undermined our efforts to recover from trauma…. Survivors have known that the justice system is flawed: just ask the victims arrested and prosecuted for their traffickers’ crimes.”

– Fainess Lipenga,
Training Advisor to The Human Trafficking Legal Center

“We were sold for a certain amount of money for 30 minutes or an hour. Allow me to repeat myself: we were SOLD. In my case, being a person of color sold by a white person to other white people was painful on multiple levels. It wasn’t until my adult years that I was able to process how closely this aligned with racial oppression. I can’t compare one victim’s experience to another’s, but I will say that race can add an additional layer of oppression.”

– A survivor’s account,
as featured by Yvette Young, Bree’Ana Johnson, Christopher Bidorini, and Erin Williamson

“There are many jurisdictions that are predominantly White yet the most being exploited, arrested and children taken into custody are women of color. There is a big problem of Black and Brown bodies being treated differently from White bodies. It’s not that people of color do more drugs, are more engaged in criminal behavior, it’s that they are more vulnerable, more targeted by the police for prostitution and other crimes. There is a connection and a disparity from police profiling, arrest, incarceration rates, sentencing, and recidivism. When a White person goes missing, you hear about it every five minutes. In contrast, when Black and Brown bodies go missing you don’t hear about their disappearance anywhere near as often, if at all.”

– Autumn Burris,
Founding CEO, Survivors for Solutions, featured in ECPAT-USA’s “Survivor Perspective” blog series

Building a just world, where traffickers can no longer capitalize on and abuse systemic inequities, requires addressing the underlying causes of those inequities by first acknowledging the structures of power and historical context behind unequal distribution of privilege and protection, including the government’s role. While the racial dimensions of human trafficking manifest in different ways in each country, human trafficking still mirrors—and thrives because of—widespread inequities between racial groups. This is seen, for example, in the overrepresentation of human trafficking victims among Black populations in some parts of South America, the lack of protections afforded to migrant workers in the Gulf that creates a dependence on others that traffickers can exploit, and the intentional targeting of Roma communities through law enforcement anti-trafficking operations in Eastern Europe. For the United States, this means confronting its history of chattel slavery, indigenous dispossession, and the centuries-long racial campaigns of violence, fear, and trauma that followed. As the United States strives to grapple with its past and increasingly root its anti-trafficking work in racial equity, it must also draw from the courage, expertise, and leadership of communities harmed by the interlocking cruelties of systemic racism and human trafficking. We invite other governments and global partners to join in this effort and hold each other accountable.

Child-Friendly Spaces for Survivors of Human Trafficking

The needs of child trafficking victims and the related legal reporting requirements differ significantly from those of adult victims. Government authorities and service providers should take special measures to ensure appropriate and tailored support and care are available to them. Children should receive immediate support and assistance in a safe and comfortable setting that is not intimidating or retraumatizing. Child-friendly spaces are an essential component to holistic victim-centered and trauma-informed care for child survivors of human trafficking.

Child-friendly spaces have traditionally been used in refugee camps or after natural disasters, but increasingly those in the anti-trafficking field are using them to provide comprehensive assistance and support to child trafficking victims in other settings. These spaces, which can be a separate room or even just a corner of a regular interview room, are typically located in existing structures such as police stations or hospitals and are administered by the government or an NGO. The use of child-friendly spaces reflects a multidisciplinary approach, providing a place for children to feel safe in the wake of trauma and for social workers, medical professionals, law enforcement, and others to conduct victim interviews, psychosocial counseling, and medical care all in the same location. In addition to putting a child trafficking victim at ease by providing a safe and structured environment for play and learning, such spaces also can help facilitate the prosecution of human traffickers by offering critical support to children as they provide information to law enforcement to help hold perpetrators accountable.

While they may look slightly different depending on their particular function, the country in which they operate, or the level of resources available, effective child-friendly spaces often share common features that can be replicated as promising practices.

First, child-friendly spaces provide a calm and reassuring physical environment. This is accomplished by providing age-appropriate furniture and decorations, painting the walls in calming colors, and displaying children’s artwork or murals. Toys, art supplies, and age-appropriate books are also provided. A comforting environment and informal play can assist survivors in expressing their feelings of fear and distress while also supporting their resiliency.

Second, ensuring that a child feels safe is crucial, which means that the physical space must be easily accessible, ideally through its own entrance and exit, and separates the survivor from the perpetrator to prevent further trauma. A safe space affords children privacy so they can talk about their experiences more freely. Staff and relevant stakeholders should be able to observe the child from a separate room, where appropriate.

Third, a multidisciplinary child-friendly space provides survivors with an array of comprehensive services and referral networks in one place. In addition to addressing immediate needs by providing food, water, and sanitary facilities, a child-friendly space should address longer-term needs through the provision of medical screening and services, psychosocial counseling, referrals, and information about legal proceedings. Receiving various services in one place and during the same timeframe shields the survivor from having to repeat the story of what happened to them multiple times.

Cuối cùng, tất cả các dịch vụ được cung cấp trong không gian phải là chấn thương, phù hợp với lứa tuổi và nhạy cảm về mặt văn hóa và ngôn ngữ.Điều này có nghĩa là các nhà cung cấp dịch vụ có thể nhận ra các dấu hiệu chấn thương ở các cá nhân và đáp ứng bằng cách tích hợp kiến thức về chấn thương vào các chính sách, thủ tục, thực tiễn và cài đặt.Cách tiếp cận này xem xét các lỗ hổng và kinh nghiệm của những người sống sót sau chấn thương và ưu tiên cho việc khôi phục cảm giác an toàn, lựa chọn và kiểm soát của người sống sót.Các nhà cung cấp dịch vụ nên đảm bảo trẻ em hiểu quyền của mình và được trao quyền để đưa ra quyết định về sự chăm sóc của chính mình, khi thích hợp.Một cách tiếp cận thông tin chấn thương cuối cùng nên xây dựng niềm tin và sự minh bạch giữa những người sống sót và nhà cung cấp dịch vụ, và nó cũng phải đáp ứng với sự khác biệt về giới, tuổi, dân tộc và văn hóa.Thành phần cuối cùng này là rất quan trọng, vì việc phỏng vấn và cung cấp dịch vụ không có chấn thương hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ có thể được hồi phục và ức chế sự phục hồi thành công.

Đưa ra những hạn chế xung quanh không gian vật lý và nguồn tài chính, các nhà cung cấp dịch vụ và tổ chức phi chính phủ có thể cần phát triển các cách sáng tạo để thiết lập một không gian thân thiện với trẻ em.Nếu một phòng riêng không có sẵn, một góc thân thiện với trẻ em của một phòng phỏng vấn lớn hơn cũng có thể đóng vai trò là một phần được chỉ định chào đón trẻ em.Khi đánh giá nhu cầu, một phòng chờ thân thiện với trẻ em có thể được ưu tiên.

Đại dịch COVID-19 làm tăng tính dễ bị tổn thương của trẻ em đối với việc buôn bán vì một số lý do xuyên suốt.Các gia đình có thể yêu cầu trẻ em tìm việc làm do thu nhập bị mất, các dịch vụ bảo vệ chính phủ và tổ chức phi chính phủ có thể bị giảm và trẻ em có thể không đi học nơi chúng có quyền truy cập vào người lớn đáng tin cậy.Vì sự tổn thương gia tăng này, việc thiết lập và duy trì không gian thân thiện với trẻ em là rất quan trọng để ưu tiên trong đại dịch;Họ thậm chí có thể là một nơi an toàn, nơi trẻ em tìm hiểu về các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng như cách xa xã hội, đeo mặt nạ và vệ sinh thích hợp.

Hệ thống Kafala

Mỗi năm người lớn và, ở một mức độ thấp hơn, trẻ em di cư tự nguyện đến các quốc gia ở Trung Đông để làm việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau, như nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong nước.Nhiều người trong số những người lao động nhập cư này phải tuân theo hệ thống Kafala, có hiệu lực chủ yếu ở các quốc gia vùng Vịnh (Bahrain, Iraq, Oman, Qatar, Ả Rập Saudi và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất), Jordan và Lebanon.

Hệ thống KAFALA là một danh mục Visa dựa trên tài trợ giúp người sử dụng lao động kiểm soát hoàn toàn đối với người lao động nhập cư Giấy phép cư trú, chuyển động trong và ngoài nước và khả năng thay đổi người sử dụng lao động.Theo hệ thống tài trợ này, những người lao động nhập cư rời khỏi nơi làm việc mà không được phép từ chủ lao động của họ bị mất tình trạng pháp lý và do đó làm tăng nguy cơ bị bắt giữ và trục xuất.

Các quy tắc và giới hạn của hệ thống Kafala cho phép các nhà tuyển dụng lạm dụng sử dụng các hoạt động việc làm vô đạo đức có thể cấu thành lao động cưỡng bức;bao gồm cả giờ làm việc quá mức;giữ hộ chiếu và tài liệu du lịch của người sử dụng lao động;không thanh toán tiền lương;và lạm dụng thể chất, tâm lý và tình dục hoặc các mối đe dọa lạm dụng.Những nạn nhân buôn người này có ít hoặc không có sự truy đòi;Họ bị ép buộc phải ở trong một vị trí bóc lột hoặc rời khỏi nhà tài trợ và bắt giữ khuôn mặt, giam giữ hoặc trục xuất vì tội nhập cư, hoặc thậm chí trừng phạt các hành vi bất hợp pháp của họ, những kẻ buôn người buộc họ phải phạm phải.

Cải cách hệ thống Kafala

Cho phép người lao động nhập cư có quyền tự do di chuyển đầy đủ và chuyển đổi người sử dụng lao động mà không bị phạt sẽ giúp ngăn chặn nạn buôn người.Ngoài ra, việc cung cấp cho người lao động nhập cư thông tin về quyền và nghĩa vụ của họ, về các cơ chế khiếu nại trong trường hợp lạm dụng và về cách tiếp cận hỗ trợ và biện pháp khắc phục, sẽ trao quyền cho họ xác định và để lại các tình huống khai thác.Những nỗ lực cải cách hệ thống Kafala và phát triển các chính sách không khai thác sẽ được hưởng lợi từ đầu vào và các khuyến nghị từ những người sống sót có kinh nghiệm lao động cưỡng bức theo hệ thống này.

Ngoài việc cải cách hệ thống Kafala, các chính phủ cũng nên xem xét phê chuẩn Công ước Công nhân nội địa ILO, 2011 (số 189) và dựa trên khuyến nghị (R201), cung cấp các hành động cụ thể để giúp ngăn chặn sự phục vụ trong nước.Các quốc gia có thể thực hiện các biện pháp bổ sung để giải quyết các lỗ hổng đối với buôn bán người được tạo ra bởi hệ thống Kafala, chẳng hạn như các lỗ hổng được mô tả dưới đây.

Các quốc gia chống lao động và các biện pháp trước khi khởi hành:

  • Tiếp cận cộng đồng: Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, như trang web, liên kết kỹ thuật số và ứng dụng, để cung cấp thông tin cho người lao động tiềm năng bằng ngôn ngữ mà họ hiểu về luật lao động và nhập cư ở quốc gia đích, có sẵn, quyền và trách nhiệm của người lao động và người sử dụng lao động, mô hình hoặc các hợp đồng được chính phủ phê duyệt, các chỉ số về buôn bán người, thông tin liên lạc cho các đường dây nóng hoặc nhiệm vụ có liên quan ở nước ngoài và các cơ quan tuyển dụng có uy tín.
  • Phòng ngừa thông qua tuyển dụng có trách nhiệm: Cung cấp cho chính phủ giám sát đầy đủ các cơ quan tuyển dụng và cung cấp cho các ứng viên tương lai thông tin về phương tiện để xác minh các cơ quan tuyển dụng hợp pháp và cấp phép.Công nhân nhập cư nên được cung cấp bản sao hợp đồng làm việc riêng, rõ ràng phác thảo các điều khoản và điều kiện làm việc và cư trú, bao gồm tiền lương, giờ làm việc và nghỉ ngơi và chế độ thanh toán.Để tránh thao túng nợ, người lao động không nên phải tuân theo việc tuyển dụng hoặc phí thị thực làm việc bởi người tuyển dụng hoặc người sử dụng lao động của họ, tất cả các chi phí liên quan đến việc nhận công việc nên được trả bởi người sử dụng lao động nên chi phí cho chỗ ở và liên quan đến công việc của họCác mặt hàng, chẳng hạn như đồng phục hoặc công cụ, được khấu trừ từ thù lao của họ.
  • Ứng dụng Visa: Khuyến khích các ứng dụng visa trực tiếp ở một phần của các quốc gia đích, bao gồm cả cho người lao động trong nước.Trong quá trình xử lý visa, cung cấp cho người nộp đơn các cuốn sách nhỏ thông tin về quyền và nghĩa vụ của họ, và của các nhà tuyển dụng, cũng như các quyền lợi của họ để giữ lại một bản sao hợp đồng và tài liệu xác định và du lịch ban đầu của họ.Thông báo cho người nộp đơn xin visa về các biện pháp bảo vệ pháp lý có sẵn chống lại các tội phạm như bạo lực, buôn bán người và tước quyền tự do, bao gồm các cơ chế khiếu nại và số lượng đường dây nóng.

Các biện pháp ở các quốc gia tiếp nhận lao động:

  • Tài trợ visa: Cải cách Hệ thống Kafala cho phép tất cả người lao động có hoàn toàn tự do di chuyển và thay đổi nhà tài trợ hoặc sử dụng lao động của họ một cách tự nguyện và không có sự cho phép của nhà tài trợ trước, lệ phí, hình phạt hoặc mất tình trạng cư trú.Cung cấp cho người lao động nhập cư thông tin về các quyền và nghĩa vụ của họ, cũng như tiếp cận với các cơ chế khiếu nại và các biện pháp khắc phục phù hợp và hiệu quả, chẳng hạn như bồi thường.Cung cấp sự bảo vệ cho các nạn nhân, bao gồm tình trạng cư trú tạm thời hoặc thường trú cho các nạn nhân nước ngoài cùng với việc tiếp cận các dịch vụ như thực phẩm, nơi trú ẩn và hỗ trợ y tế và tâm lý xã hộiNước quê nhà, hoặc một quốc gia thứ ba cho những người không thể trở về nhà.: Reform the kafala system to allow all workers to have full freedom of movement and to change their sponsor or employer voluntarily and without prior sponsor permission, fees, penalties, or loss of residency status. Provide migrant workers with information on their rights and obligations, as well as on access to grievance mechanisms and to appropriate and effective remedies, such as compensation. Provide protection to victims, including temporary or permanent residency status to foreign victims along with access to services such as food, shelter, and medical and psycho-social assistance, while giving them the option to remain in the country and switch employers or return to their home country, or a third country for those who cannot return home.
  • HOTLINES: Cung cấp thông tin của người lao động về các quyền và nghĩa vụ của họ, bao gồm quyền truy cập vào trợ giúp và thông tin về quyền lao động, cơ chế khiếu nại và các kênh báo cáo thích hợp.Thông báo cho người lao động về sự sẵn có của các đường dây nóng hoạt động 24 giờ mỗi ngày, có nhân viên phiên dịch tiếng Ả Rập và tiếng Anh, và với các nhà thầu gọi điện cho các ngôn ngữ được nói bởi các công nhân nước ngoài.
  • Xác định và truy tố: Xác định chủ động và hiệu quả các nạn nhân của lao động cưỡng bức và điều tra, truy tố và kết án những người thực hiện hoặc tạo điều kiện cho lao động cưỡng bức theo luật chống buôn người, thay vì coi các trường hợp lao động cưỡng bức là vi phạm hành chính.Thủ phạm và người hỗ trợ trừng phạt các điều khoản nhà tù đáng kể theo luật chống buôn người và từ chối hoặc hạn chế các nhà tuyển dụng và nhà tài trợ vô đạo đức từ việc thuê lao động nhập cư, bao gồm cả lao động trong nước.Đảm bảo người lao động trong nước được đưa vào bảo vệ chống buôn người và luật lao động.
  • Phòng ngừa thông qua tuyển dụng có trách nhiệm: Cung cấp đầy đủ sự giám sát của chính phủ cho các cơ quan tuyển dụng, bao gồm thông qua đăng ký, cấp phép và giám sát.Chính phủ nên xuất bản tên và chi tiết liên lạc của tất cả các nhà tuyển dụng được cấp phép và đăng ký, cũng như những người đang được điều tra về việc không tuân thủ hoặc giấy phép đã bị thu hồi.Các cơ quan tuyển dụng phải chịu trách nhiệm theo cách ngăn cản việc tham gia vào các hoạt động làm trầm trọng thêm tính dễ bị tổn thương của người lao động đối với nạn buôn người như giao dịch thị thực, tính phí cho công nhân cho chi phí tuyển dụng và chuyển đổi hợp đồng.
  • Các đơn vị chuyên ngành: Thiết lập các đơn vị chuyên ngành tại các bộ và cơ quan liên quan tập trung vào buôn bán người, bao gồm lao động cưỡng bức, và đào tạo cho các cơ quan thực thi pháp luật, lao động và các quan chức tư pháp về các chỉ số buôn bán và các phương pháp tiếp cận tập trung vào nạn nhân.Trao quyền cho các đơn vị với các nhiệm vụ để chủ động điều tra các trường hợp khai thác lao động và tiến hành các cuộc điều tra tài chính song song nhằm xác định buôn bán người và rửa tiền liên quan.Khuyến khích sự hợp tác giữa các ban giám đốc và các bộ, bao gồm lao động, cũng như các tổ chức tài chính công và tư nhân, để tạo điều kiện cho việc truy tố hình sự các vụ án lao động cưỡng bức.
  • Sàng lọc và hỗ trợ: Thực hiện các thủ tục nhận dạng, giới thiệu và hỗ trợ chính thức, bao gồm trong các trung tâm giam giữ và trong số các dân số dễ bị tổn thương, sử dụng cách tiếp cận tập trung vào nạn nhân cũng được thông báo bởi các đầu vào và khuyến nghị của những người sống sót.Tạo điều kiện tiếp cận với các cơ chế khiếu nại và giải quyết tranh chấp, trọng tài và đại diện ủng hộ Bono để giúp nạn nhân theo đuổi các biện pháp khắc phục dân sự và tội phạm hợp pháp.Cho phép nạn nhân gửi lời khai dưới dạng bằng văn bản hoặc thông qua ghi âm để bảo vệ họ.Tư vấn cho họ về cách đảm bảo bồi thường và thanh toán tiền lương trở lại.

HỢP TÁC QUỐC TẾ

  • Bản ghi nhớ với các chính phủ: Tăng cường và thực thi các thỏa thuận lao động song phương với các quốc gia gửi lao động để bao gồm các điều khoản về mức lương tối thiểu, giám sát tuyển dụng và các quyền lợi như giờ làm việc, thời gian nghỉ bắt buộc và điều kiện sống và làm việc tại nhà.Các thỏa thuận cũng có thể bao gồm các phương pháp phối hợp và hợp tác đối với các trường hợp buôn người xuyên biên giới tích cực liên quan đến nạn nhân và thủ phạm từ cả hai quốc gia.Chính phủ nên tích cực thực hiện các thỏa thuận này và đảm bảo các biện pháp bảo vệ được cung cấp của họ được thực hiện trong thực tế.
  • Các hộ gia đình ngoại giao: Tăng nỗ lực thông báo và đào tạo nhân viên ngoại giao về tội buôn người và luật chống buôn người hiện hành ở nước này.Viện một hệ thống đăng ký và phỏng vấn trực tiếp cho người lao động trong nước của nhân viên ngoại giao, để thường xuyên hóa giao tiếp, theo dõi việc đối xử của họ và có khả năng xác định các trường hợp lạm dụng hoặc buôn bán người.
  • Hợp tác xuyên quốc gia: Điều tra các cáo buộc về lao động cưỡng bức được báo cáo bởi các nạn nhân hồi hương, cung cấp hỗ trợ tư pháp như cung cấp các tuyên bố từ xa từ các nạn nhân được sử dụng trong thủ tục tố tụng của tòa án và dẫn độ buôn bán.Tạo điều kiện công nhận và giám sát các cơ quan tuyển dụng giữa các quốc gia xuất xứ và điểm đến.Hợp tác với lĩnh vực kinh doanh doanh nghiệp để khuyến khích và tạo điều kiện tìm nguồn cung ứng đạo đức trong chuỗi cung ứng.Thiết lập một trung tâm nghiên cứu và đào tạo khu vực để đào tạo các bên liên quan về tiền tuyến về nhận dạng và quản lý trường hợp buôn người.

Thư về LGBTQI+ Tính dễ bị tổn thương đối với nạn buôn người

Bộ Ngoại giao đã nhận được thư sau để trả lời thông báo đăng ký liên bang hàng năm của họ, yêu cầu thông tin liên quan đến các quốc gia tiến bộ trong việc giải quyết nạn buôn người. & NBSP;Bằng cách xuất bản nó, với sự đồng ý của tác giả, bộ phận tìm cách chiếu sáng dân số đặc biệt dễ bị buôn bán người thường bị hiểu lầm và bỏ qua. & NBSP;Bộ đã nhấn mạnh tính dễ bị tổn thương của các cá nhân LGBTQI+, rủi ro buôn bán mà họ gặp phải và những thách thức liên quan đến nhận dạng và bảo vệ nạn nhân trên toàn thế giới. & NBSP;Hoàn cảnh của các cá nhân LGBTQI+, bao gồm các mối đe dọa tiết lộ công khai về xu hướng tình dục hoặc bản sắc giới tính của họ, không bị cô lập với nước ngoài.

Độc giả thân mến,

Đó là mùa đông sau năm thứ 19 của tôi;Mẹ tôi được thông báo rằng tôi đang nhìn thấy một cậu bé.Cuộc trò chuyện bắt đầu, tôi chưa bao giờ bị sỉ nhục;Làm thế nào tôi phải duy trì sự điềm tĩnh của mình? ”Sau một vài khoảnh khắc hỏi, tôi đã được thông báo về những gì quá nhục nhã với cô ấy, tôi.Tôi biết gia đình tôi ghê tởm những người đồng tính nam.Tôi đã lớn lên ở Hoa Kỳ trong đại dịch AIDS, nghe thấy một [expletive] duy nhất là một người chết, hay hay đó là hình phạt của họ vì họ là như thế nào, họ xứng đáng với điều đó.Gia đình tôi đã công khai ca ngợi sự co lại của chú tôi về HIV và chờ đợi cái chết của anh ấy.Khi các bàn quay lại với tôi, tôi đã biết ý kiến của họ.Khi tôi nói, bạn sẽ là một đứa trẻ của tôi hoặc đồng tính, tôi chỉ đơn giản nói tốt và bước ra khỏi cửa với một vài món đồ tôi có thể mang theo.Đó là năm Matthew Shepard bị đánh và bị bỏ lại để chết trên hàng rào.

Tháng đầu tiên tôi đã học được các điểm an toàn để đỗ xe để ngủ.Tôi đang dọn dẹp trong phòng tắm và đi học đại học và làm việc.Sau đó, nhà thờ bắt đầu quá trình truyền thông cũ để thu hồi học bổng đại học của tôi vì họ tin rằng tôi sẵn sàng sống cuộc sống của mình trong tội lỗi.Tôi đã hoàn thành học kỳ và quyết định tôi sẽ đợi một chút để hoàn thành đại học.Sau bốn năm và ba chương trình khuyến mãi tại nơi làm việc, tôi đã nói, Bạn là người quá đồng tính;Nếu bạn muốn tiếp tục làm việc ở đây, bạn sẽ quay lại tủ quần áo.Tôi đã hình dung trong vòng hai tháng trước tôi đã mất nhà, gia đình và học bổng đại học của tôi, tại thời điểm đó, công việc của tôi là gì?Tôi đã đến thành phố phía bắc quê hương của tôi và bắt đầu lướt sóng với những người từ các câu lạc bộ tôi đã đến.

Sau đó, tôi bắt đầu làm việc trong các dịch vụ hộ tống thông qua một quán bar nơi tôi không biết mức phí được tính, không xử lý tiền và không có quyền kiểm soát nào đối với việc từ chối các khách hàng bạo lực hoặc sẽ sử dụng bao cao su.Một số người trong chúng tôi đã ở đó để trả hết các khoản nợ cho chủ quán bar.Chúng tôi đã được cho các loại thuốc khiến chúng tôi tê liệt.Các khoản nợ của chúng tôi quá cao.Chúng tôi đã trả tiền hàng ngày cho một chiếc giường, cho không gian tại quán bar, vì sự giúp đỡ mà các chủ quán bar đã cho chúng tôi.Khi chúng tôi không thể trả tiền, chúng tôi đã ngủ trên tàu điện ngầm, trong các nhà kho trống, trong xe hơi hoặc trên ghế dài.Chúng tôi đi du lịch rất nhiều;Chúng tôi luôn ở trên con đường giữa các thành phố, giữa các quốc gia và bất cứ nơi nào chúng tôi được yêu cầu đi.Rất may, một người bạn chủ quán bar sẽ khâu chúng tôi lên mà không cần đến bệnh viện khi chúng tôi bị tổn thương, vì vậy chúng tôi đã có một hóa đơn khác.Luôn luôn có những lời nói dối, và nó không bao giờ quyến rũ như chúng tôi đã hứa.Bạn có thể chọn bị lạm dụng trong một xã hội nơi cái chết là sự thay thế?

Sống ở những nơi bị bỏ hoang có nghĩa là những chiếc xe của chúng tôi đã bị bắt, chúng tôi đã bị lừa, chúng tôi đã có những căn hộ khiêm tốn của chúng tôi đột nhập vào cuộc sống của chúng tôi rất khó khăn.Trong ba năm, tôi đã ngủ với hơn 500 người.Khi có một lỗi tại phòng khám sức khỏe địa phương và máu của tôi bị lẫn lộn với một người khác, tôi đã thử nghiệm dương tính giả cho AIDS.Tôi luôn mong đợi kiểm tra tích cực, vì vậy khi tôi kiểm tra lại, tôi đã bị sốc khi nó trở lại âm tính.Tôi rời khỏi dịch vụ hộ tống vào thời điểm đó.Tôi biết tôi đang chơi với lửa.

Nhiều người trong chúng ta ghê tởm các nhà thờ cho phép chúng ta bị lạm dụng với sự căm ghét chúng ta từ bục giảng.Nhiều người trong chúng ta bị tấn công tình dục bởi gia đình, đồng nghiệp trong trường học, bộ trưởng hoặc huấn luyện viên của chúng tôi.Hơn một nửa chúng tôi trên đường phố ở đó vì chúng tôi bị ném ra ngoài vì chính mình.Bốn mươi phần trăm trong số những người trên đường phố là LGBTQI+.Chúng tôi là những người không mong muốn, những đứa trẻ bị lãng quên, những đứa trẻ bị mất trên đường phố mà không ai bỏ lỡ hay tìm kiếm.Chúng tôi là nạn nhân của chúng tôi vì chúng tôi đã chọn cuộc sống này.Chúng tôi bị buôn bán để tồn tại;Chúng ta bị lạm dụng vì chúng ta không mong muốn, và chúng ta phải chiến đấu để được lắng nghe trong xã hội chúng ta đang sống. Cơ thể chúng ta đang nằm trong các hẻm và nhà kho không được chú ý;Chúng tôi là những con tốt trong một hệ thống không quan tâm đến chúng tôi.Chúng ta cần vượt qua nhiều năm thiên vị thể chế và phân biệt đối xử của các chính trị gia cố gắng hình sự hóa việc sử dụng phòng tắm hoặc hôn nhân của chúng ta.Chúng ta cần được coi là người.Chúng ta cần được coi là những người trải qua nạn nhân.Chúng ta cần phải nói điều này là bình thường và chúng ta đang trải qua nạn nhân.

Chuyên gia về chủ đề của Paul với kinh nghiệm sống về nạn buôn người
Subject Matter Expert with Lived Experience of Human Trafficking

Khi chính phủ là kẻ buôn người: buôn bán người do nhà nước tài trợ

Trong khi TVPA và giao thức Tip của Liên Hợp Quốc kêu gọi các chính phủ chủ động giải quyết tội phạm buôn bán, một số chính phủ là một phần của vấn đề, trực tiếp đưa công dân của họ vào buôn bán tình dục hoặc lao động cưỡng bức. & NBSP;Từ lao động cưỡng bức trong các dự án làm việc công cộng địa phương hoặc quốc gia, các hoạt động quân sự, các lĩnh vực quan trọng về kinh tế hoặc là một phần của các dự án hoặc nhiệm vụ do chính phủ tài trợ ở nước ngoài đến chế độ nô lệ tình dục đối với các hợp chất của chính phủ, các quan chức sử dụng quyền lực của họ để khai thác công dân của họ. & NBSP;Để trích xuất công việc hoặc dịch vụ này, các chính phủ ép buộc bằng cách đe dọa rút tiền trợ cấp công cộng, từ chối tiền lương, không tuân thủ các giới hạn về dịch vụ quốc gia, thao túng việc thiếu tình trạng pháp lý của các cá nhân không quốc tịch và các nhóm thiểu số khác, đe dọa trừng phạt các thành viên gia đình hoặcDịch vụ điều hòa, thực phẩm hoặc tự do di chuyển về lao động hoặc tình dục.

Vào năm 2019, Quốc hội đã sửa đổi TVPA để thừa nhận rằng các chính phủ cũng có thể đóng vai trò là kẻ buôn người, đề cập cụ thể đến một chính sách của chính phủ hoặc mô hình buôn bán người, buôn bán người trong các chương trình do chính phủ tài trợ, buộc phải lao động trong các dịch vụ y tế liên quan đến chính phủ hoặc các lĩnh vực khác, nô lệ tình dục trong các trại chính phủ, hoặc việc làm hoặc tuyển dụng các binh sĩ trẻ em. & NBSP;Mặc dù TVPA đã chỉ đạo thư ký xem xét mức độ mà các quan chức tham gia, được tạo điều kiện, bỏ qua hoặc khác thường xuyên trong việc buôn bán khi xác định bảng xếp hạng cấp, phần mới này liên kết trực tiếp hơn với chính phủ trong việc buôn bán tội phạm với xếp hạng cấp 3.

Báo cáo buôn bán người năm 2020 đã đánh dấu lần đầu tiên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ áp dụng điều khoản mới này, tìm kiếm 12 chính phủ có chính sách hoặc mô hình buôn bán của người Hồi giáo, bao gồm: & NBSP;Afghanistan, Belarus, Miến Điện, Trung Quốc, Cuba, Eritrea, Iran, Bắc Triều Tiên, Nga, Nam Sudan, Syria và Turkmenistan.

Báo cáo buôn bán người 2021 bao gồm 11 chính phủ sau đây với chính sách hoặc mô hình buôn bán người, buôn bán các chương trình do chính phủ tài trợ, lao động buộc phải có các dịch vụ y tế liên quan đến chính phủ hoặc các lĩnh vực khác, chế độ nô lệ tình dục trong các trại chính phủ hoặc các trại chính phủ, hoặcviệc làm hoặc tuyển dụng binh lính trẻ em:

Afghanistan Miến Điện Trung Quốc Cuba Eritrea Hàn Quốc, Bắc Iran Nga Nam Sudan Syria Turkmenistan
Burma
China
Cuba
Eritrea
Korea, North
Iran
Russia
South Sudan
Syria
Turkmenistan

2021 tường thuật đã cung cấp các ví dụ chi tiết để biện minh cho đánh giá này, chẳng hạn như:

  • Chính phủ Miến Điện có chính sách hoặc mô hình sử dụng trẻ em để lao động cưỡng bức của quân đội. & NBSP;Việc sử dụng trẻ em theo dõi quốc tế trong các vai trò lao động và hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn quân sự tăng lên trong các khu vực xung đột, chủ yếu ở các quốc gia Rakhine và Kachin. & NBSP;Ngoài ra, quân đội tiếp tục dựa vào các cộng đồng địa phương để tìm kiếm lao động và vật tư, do đó duy trì các điều kiện cho phép lao động cưỡng bức của người lớn và trẻ em.
  • Chính phủ Trung Quốc đã có chính sách hoặc mô hình lao động cưỡng bức rộng rãi, bao gồm thông qua việc tiếp tục giam giữ hàng loạt hơn một triệu người Uyghurs, dân tộc Kazakh, dân tộc Kyrgyz và những người Hồi giáo khác ở khu vực tự trị Tân Cương (Tân Cương).Các nhà chức trách tiếp tục thực hiện các chính sách này ở các tỉnh khác, nhắm vào các nhóm thiểu số tôn giáo khác dưới sự bảo trợ của họ, và tìm kiếm sự hồi hương và thực tập của các dân tộc thiểu số và các dân tộc sống ở nước ngoài thông qua việc sử dụng giám sát, quấy rối và đe dọa đối với họ và các thành viên gia đình của họyêu cầu. & nbsp;Chính phủ cũng đã đưa người dân Tây Tạng vào đào tạo nghề và sản xuất công việc sản xuất như một phần của chương trình chuyển nhượng lao động và loại bỏ nghèo đói của chương trình chuyển nhượng lao động, có sự tham gia của các yếu tố cưỡng chế.
  • Chính phủ Nga có chính sách hoặc mô hình buôn bán của chính phủ. & NBSP;Chính phủ đã tích cực đồng lõa trong lao động cưỡng bức của công nhân Bắc Triều Tiên. & NBSP;Chính phủ đã không sàng lọc các công nhân Bắc Triều Tiên về các chỉ số buôn bán hoặc xác định bất kỳ nạn nhân buôn người Bắc Triều Tiên nào, mặc dù các báo cáo đáng tin cậy trong những năm trước rằng Cộng hòa Nhân dân Dân chủ Hàn Quốc (DPRK) đã điều hành các trại làm việc ở Nga và khai thác hàng ngàn công nhân Bắc Triều Tiên trong lao động cưỡng bức. & nbsp;Mặc dù chính phủ đã thực hiện các bước để hồi hương công nhân Bắc Triều Tiên theo Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (UNSCR), công dân từ DPRK vẫn tiếp tục đến trong suốt cả năm, nhiều người trong số họ có khả năng tham gia lao động không chính thức. & NBSP;Trong khi chính phủ Nga báo cáo số lượng công nhân Bắc Triều Tiên ở Nga đã giảm vào năm 2020, chính phủ đã cấp gần 3.000 thị thực du lịch và sinh viên mới cho người Bắc Triều Tiên vào năm 2020 trong một nỗ lực rõ ràng nhằm phá vỡ các UNSCR.

Lao động cưỡng bức ở khu vực Trung Quốc Tân Cương

Trong bốn năm qua, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC) đã thực hiện một chiến dịch giam giữ hàng loạt và truyền bá chính trị chống lại Uyghurs, những người chủ yếu là người Hồi giáo, và các thành viên của các nhóm dân tộc thiểu số và tôn giáo khác ở khu vực tự trị Tân Cương (Tân Cương), một khu vực rộng lớn ở phía tây Trung Quốc. & NBSP;Tiếng nói can đảm của những người sống sót, các thành viên gia đình của họ ở nước ngoài, các nhà nghiên cứu và các nhóm vận động quốc tế đã ghi lại kỹ lưỡng việc sử dụng phân biệt đối xử của PRC và các cáo buộc hành chính và hành chính để bắt cóc hơn một triệu người Hồi giáo, dân tộc Kazakh, dân tộc Kyrgyz, Tajiks dân tộc và người dân tộc Uzbeks, trong 1.200 trại thực tập nhà nước trên khắp Tân Cương. & NBSP;Việc giam giữ trong các trại này nhằm xóa bỏ các bản sắc dân tộc và tôn giáo với lý do đào tạo dạy nghề của người Hồi giáo.Lao động cưỡng bức là một chiến thuật trung tâm được sử dụng cho sự đàn áp này.

Trong Tân Cương, chính phủ là kẻ buôn người. & NBSP;Các nhà chức trách sử dụng các mối đe dọa của bạo lực thể xác, uống thuốc cưỡng bức, lạm dụng thể chất và tình dục, và tra tấn để buộc những người bị giam giữ làm việc trong các nhà máy liền kề hoặc ngoài công trường sản xuất hàng may mặc, giày dép, thảm, sợi, sản phẩm thực phẩm, trang trí kỳ nghỉ, vật liệu xây dựng, vật liệu xây dựng, vật liệu xây dựng, vật liệu xây dựng,Chất chiết xuất, vật liệu cho thiết bị năng lượng mặt trời và các thành phần năng lượng tái tạo khác, điện tử tiêu dùng, giường ngủ, sản phẩm tóc, vật tư làm sạch, thiết bị bảo vệ cá nhân, mặt nạvòng quanh thế giới.

Sự phản đối quốc tế đã phát triển kể từ khi những hành vi lạm dụng này lần đầu tiên được công khai. & NBSP;PRC ban đầu phủ nhận tất cả các cáo buộc, bác bỏ chúng là sự can thiệp của quốc tế, trong các vấn đề trong nước. & NBSP;Tuy nhiên, đối mặt với lời khai của nhân chứng và nghiên cứu kỹ lưỡng báo cáo từ nhiều nguồn, PRC cuối cùng đã thừa nhận sự tồn tại của các trại. & NBSP;Các quan chức PRC sau đó đã bảo vệ các cơ sở là các biện pháp cần thiết để chống lại khủng bố, trong khi cũng tuyên bố rằng nhiều người trong số họ đã bị đóng cửa. & NBSP;Trong thực tế, họ đã tăng trưởng về số lượng và quy mô, với hàng trăm ngàn nạn nhân tốt nghiệp và được gửi đến các nhà tù lớn hơn và công nghệ hơn dưới các cáo buộc liên quan đến khủng bố sai. & NBSP;Chính phủ cũng bắt đầu chuyển hàng ngàn tù nhân trại ở nơi khác ở Tân Cương và các tỉnh khác trên khắp đất nước dưới vỏ bọc của một chương trình xóa đói giảm nghèo, trong đó các công ty và chính quyền địa phương nhận được trợ cấp vì buộc họ phải lao động trong sản xuất.

Với rất nhiều người đã biến mất và bị lạm dụng trong hệ thống này, toàn bộ cộng đồng ở Tân Cương, cộng đồng với lịch sử phong phú và ý nghĩa văn hóa vô lý, đã trở thành thị trấn ma. & NBSP;Những người đã cố gắng tránh bị giam giữ vẫn có nguy cơ lao động cưỡng bức do nhà nước tài trợ và các hành vi lạm dụng khác. & NBSP;Quân đoàn sản xuất và xây dựng Tân Cương của chính phủ PRC (Bingtuan), một tổ chức kinh tế và bán quân sự có kiểm soát hành chính đối với một số khu vực trong khu vực bao gồm gần ba triệu nhân viên, buộc các thành viên của dân số nhà tù và cộng đồng địa phương cũng làm việc trong việc khai thác, xây dựng, sản xuất nguy hiểm, xây dựng, sản xuất, chế biến thực phẩm, và cho hàng ngàn người trưởng thành và trẻ em Uyghur thu hoạch. & NBSP;Những sản phẩm và nguyên liệu thô này được đưa vào chuỗi cung ứng quốc tế, lan truyền sự đồng lõa lao động cưỡng bức PRC trên toàn cầu.

Cộng đồng quốc tế đã có hành động khó khăn để thúc đẩy trách nhiệm đối với các hành động của PRC và tăng cường phòng thủ thị trường chống lại việc nhập khẩu các hàng hóa này. & NBSP;Ví dụ, tại Hoa Kỳ, các Bộ Ngoại giao, Kho bạc, Thương mại và An ninh Nội địa đã phát hành tư vấn kinh doanh chuỗi cung ứng Tân Cương để cảnh báo các doanh nghiệp và các thực thể khác về các rủi ro có uy tín, kinh tế và pháp lý về các thực thể trong hoặc liên kếtđến Tân Cương. & nbsp;Ngoài ra, kể từ năm 2019, Bộ Hải quan và Bảo vệ Biên giới của Bộ An ninh Nội địa đã ban hành 10 đơn đặt hàng miễn phí đối với hàng hóa và các công ty kết nối với lao động cưỡng bức ở Tân Cương để chặn việc họ vào Hoa Kỳ. & NBSP;Tương tự như vậy, nhiều công ty đã có lập trường chống lại việc sử dụng lao động cưỡng bức ở Trung Quốc bằng cách cắt đứt quan hệ với các nhà cung cấp ở Tân Cương hoặc những người kết nối với chiến dịch đàn áp của PRC, trong thời gian có thể kiếm được cho họ những người tiêu dùng nặng và phản ứng truyền thông nhà nước trong thị trường nội địa Trung Quốc.

Các chính phủ nên bảo vệ và phục vụ công dân của họ, không phải là khủng bố và khuất phục họ vì lợi nhuận. & NBSP;Trên khắp thế giới, các chính phủ, công ty và người tiêu dùng cam kết loại bỏ nạn buôn người khỏi chuỗi cung ứng toàn cầu đều có thể đóng một vai trò trong việc đòi chấm dứt việc sử dụng lao động cưỡng bức ở Tân Cương và hơn thế nữa.

Danh sách Đạo luật phòng chống lính trẻ em

Mục 402 của Đạo luật Phòng chống Nhân viên Trẻ em, như được sửa đổi (CSPA) yêu cầu công bố trong báo cáo Tip hàng năm về danh sách các chính phủ nước ngoài được xác định trong năm trước là có lực lượng vũ trang chính phủ, cảnh sát hoặc lực lượng an ninh khác, hoặc vũ trang hỗ trợ của chính phủCác nhóm tuyển dụng hoặc sử dụng binh lính trẻ em, như được định nghĩa trong CSPA.Những quyết định này bao gồm thời gian báo cáo bắt đầu từ ngày 1 tháng 4 năm 2020 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2021.

Với mục đích của CSPA, và nói chung phù hợp với các quy định của giao thức tùy chọn cho Công ước về quyền của trẻ về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang, thuật ngữ người lính trẻ con có nghĩa là:

tôi.Bất kỳ người nào dưới 18 tuổi tham gia trực tiếp vào chiến sự với tư cách là thành viên của Lực lượng Vũ trang Chính phủ, Cảnh sát hoặc Lực lượng An ninh khác;

ii.Bất kỳ người nào dưới 18 tuổi đã được tuyển dụng một cách bắt buộc vào các lực lượng vũ trang chính phủ, cảnh sát hoặc lực lượng an ninh khác;

iii.Bất kỳ người nào dưới 15 tuổi đã tự nguyện tuyển dụng vào các lực lượng vũ trang chính phủ, cảnh sát hoặc lực lượng an ninh khác;hoặc

iv.Bất kỳ người nào dưới 18 tuổi đã được tuyển dụng hoặc sử dụng trong sự thù địch bởi các lực lượng vũ trang khác biệt với các lực lượng vũ trang của một quốc gia.

Thuật ngữ người lính trẻ con của người Viking bao gồm bất kỳ người nào được mô tả trong các điều khoản (ii), (iii) hoặc (iv) đang phục vụ trong bất kỳ khả năng nào, bao gồm cả vai trò hỗ trợ, chẳng hạn như Cook Cook, Porter, Messenger, Medic, Guard, hoặc nô lệ tình dục.

Các chính phủ được xác định trong danh sách có thể bị hạn chế, trong năm tài chính sau đây, về một số hỗ trợ an ninh và cấp phép thương mại của thiết bị quân sự.CSPA cấm hỗ trợ cho các chính phủ được xác định trong danh sách theo các cơ quan sau: Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế, tài chính quân sự nước ngoài, các điều khoản quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình, ngoại trừ một số chương trình được thực hiện theo Cơ quan Hoạt động gìn giữ hòa bình.CSPA cũng cấm cấp giấy phép bán hàng trực tiếp thiết bị quân sự cho các chính phủ đó.Bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2021 và hiệu quả trong suốt năm tài chính 2022, những hạn chế này sẽ áp dụng cho các quốc gia được liệt kê, không có sự từ bỏ của tổng thống, ngoại lệ hiện hành hoặc phục hồi hỗ trợ theo các điều khoản của CSPA.Quyết tâm bao gồm một chính phủ trong danh sách CSPA được thông báo bởi một loạt các nguồnCửa hàng.

Danh sách CSPA 2021 bao gồm các chính phủ của các quốc gia sau: & NBSP; 

Afghanistan Miến Điện Congo, Cộng hòa Dân chủ Iran Iraq Libya Mali Nigeria Pakistan Somalia Nam Sudan Syria Thổ Nhĩ Kỳ Venezuela Yemen
Burma
Congo, Democratic Republic of the
Iran
Iraq
Libya
Mali
Nigeria
Pakistan
Somalia
South Sudan
Syria
Turkey
Venezuela
Yemen

Phương pháp

Bộ Ngoại giao đã chuẩn bị báo cáo này bằng cách sử dụng thông tin từ các đại sứ quán của Hoa Kỳ, các quan chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ và quốc tế, báo cáo được công bố, bài báo, nghiên cứu học thuật, tham vấn với các cơ quan và tổ chức ở mọi khu vực trên thế giới và thông tin được gửi tới. & NBSP;Địa chỉ email này cung cấp một phương tiện mà các tổ chức và cá nhân có thể chia sẻ thông tin với Bộ Ngoại giao trong suốt cả năm về sự tiến bộ của chính phủ trong việc giải quyết nạn buôn người.

Các chức vụ ngoại giao của Hoa Kỳ và các cơ quan trong nước đã báo cáo về tình hình buôn người và hành động của chính phủ để chống buôn bán dựa trên nghiên cứu kỹ lưỡng bao gồm các cuộc họp với nhiều quan chức chính phủ, đại diện NGO địa phương và quốc tế, các quan chức của các tổ chức quốc tế, nhà báo, học giả và người sống sót. & nbsp;Các nhiệm vụ của Hoa Kỳ ở nước ngoài được dành riêng để bao gồm các vấn đề buôn người quanh năm. & NBSP;Báo cáo buôn bán người 2021 bao gồm các nỗ lực của chính phủ được thực hiện từ ngày 1 tháng 4 năm 2020 đến ngày 31 tháng 3 năm 2021.

Vị trí cấp

Bộ đặt mỗi quốc gia trong báo cáo này lên một trong bốn tầng, theo ủy quyền của TVPA. & NBSP;Vị trí này không dựa trên quy mô của một vấn đề của một quốc gia mà ở mức độ nỗ lực của chính phủ để đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA để loại bỏ nạn buôn người (xem trang 56-58), thường phù hợp với giao thức Palermo.

Mặc dù Cấp 1 là thứ hạng cao nhất, nhưng điều đó không có nghĩa là một quốc gia không có vấn đề buôn người hoặc nó làm đủ để giải quyết tội ác. & NBSP;Thay vào đó, bảng xếp hạng cấp 1 chỉ ra rằng một chính phủ đã nỗ lực giải quyết vấn đề đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA. & NBSP;Để duy trì bảng xếp hạng cấp 1, các chính phủ cần chứng minh những tiến bộ đáng kể mỗi năm trong việc chống buôn bán. & NBSP;Cấp 1 đại diện cho một trách nhiệm chứ không phải là một sự từ chối.

Bảng xếp hạng và tường thuật cấp trong Báo cáo buôn bán người năm 2021 phản ánh một đánh giá sau đây:

  • ban hành luật cấm các hình thức buôn người nghiêm trọng ở người, theo định nghĩa của TVPA và cung cấp các hình phạt hình sự đối với tội phạm buôn bán;
  • Các hình phạt hình sự được quy định cho tội phạm buôn người với tối đa ít nhất bốn năm thiếu tự do, hoặc một hình phạt nghiêm trọng hơn;
  • thực hiện luật buôn người thông qua việc truy tố mạnh mẽ các hình thức buôn bán phổ biến ở nước này và kết án những kẻ buôn người;
  • Các biện pháp nhận dạng nạn nhân chủ động với các thủ tục có hệ thống để hướng dẫn thực thi pháp luật và những người phản ứng tiền tuyến được chính phủ hỗ trợ khác trong quá trình xác định nạn nhân;
  • Tài trợ của chính phủ và quan hệ đối tác với các tổ chức phi chính phủ để cung cấp cho nạn nhân quyền truy cập vào chăm sóc sức khỏe chính, tư vấn và nơi trú ẩn, cho phép họ kể lại kinh nghiệm buôn bán của họ cho các cố vấn được đào tạo và thực thi pháp luật trong một môi trường có áp lực tối thiểu;
  • Các nỗ lực bảo vệ nạn nhân bao gồm tiếp cận các dịch vụ và nơi trú ẩn mà không bị giam giữ và với các lựa chọn thay thế pháp lý để loại bỏ các quốc gia nơi nạn nhân sẽ phải đối mặt với sự trừng phạt hoặc khó khăn;
  • Mức độ mà một chính phủ đảm bảo nạn nhân được cung cấp các hỗ trợ pháp lý và khác và điều đó, phù hợp với luật pháp trong nước, các thủ tục tố tụng không ảnh hưởng đến quyền của nạn nhân, nhân phẩm hoặc sức khỏe tâm lý;
  • Mức độ mà một chính phủ đảm bảo an toàn, nhân đạo và đến mức có thể, hồi hương tự nguyện và tái hòa nhập nạn nhân;
  • Các biện pháp của chính phủ để ngăn chặn nạn buôn người, bao gồm các nỗ lực kiềm chế các hoạt động được xác định là các yếu tố góp phần vào buôn bán người, chẳng hạn như người sử dụng lao động, việc tịch thu người lao động nước ngoài hộ chiếu và cho phép các nhà tuyển dụng lao động tính phí cho người di cư tiềm năng;và
  • Những nỗ lực của chính phủ để giảm nhu cầu về hành vi tình dục thương mại và du lịch tình dục quốc tế.

Bảng xếp hạng và tường thuật cấp không bị ảnh hưởng bởi:NOT affected by the following:

  • Những nỗ lực, tuy nhiên đáng khen ngợi, được thực hiện độc quyền bởi các diễn viên phi chính phủ trong nước;
  • Các sự kiện nhận thức cộng đồng nói chung do chính phủ tài trợ hoặc cách khác, việc ngăn chặn mối quan hệ cụ thể với việc truy tố những kẻ buôn người, bảo vệ nạn nhân hoặc phòng chống buôn bán;và
  • thực thi pháp luật rộng rãi hoặc các sáng kiến phát triển.

Hướng dẫn về các tầng

Cấp 1

Các quốc gia có chính phủ đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA để loại bỏ buôn bán.

Phần 2

Các quốc gia có chính phủ không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA nhưng đang nỗ lực quan trọng để tự tuân thủ các tiêu chuẩn đó.

Danh sách đồng hồ cấp 2

Các quốc gia có chính phủ không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA nhưng đang nỗ lực quan trọng để tự tuân thủ các tiêu chuẩn đó và trong đó:

  • Số lượng nạn nhân ước tính của các hình thức buôn bán nghiêm trọng là rất đáng kể hoặc đang tăng đáng kể và đất nước không thực hiện các hành động cụ thể theo tỷ lệ;hoặc
  • Không có bằng chứng cung cấp bằng chứng về việc tăng nỗ lực chống lại các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở những người từ năm trước, bao gồm các cuộc điều tra gia tăng, truy tố và kết án về tội phạm buôn bánbởi các quan chức chính phủ.

Cấp 3

Các quốc gia có chính phủ không đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA và không nỗ lực đáng kể để làm điều đó.

TVPA, như đã sửa đổi, liệt kê các yếu tố bổ sung để xác định xem một quốc gia có nên nằm trong danh sách đồng hồ cấp 2 (hoặc cấp 2) so với cấp 3:

  • Mức độ mà quốc gia là một quốc gia có nguồn gốc, quá cảnh hoặc điểm đến cho các hình thức buôn bán nghiêm trọng;
  • Mức độ mà chính phủ của đất nước không đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA và đặc biệt, mức độ mà các quan chức hoặc nhân viên chính phủ đã đồng lõa dưới các hình thức buôn bán nghiêm trọng;
  • Các biện pháp hợp lý mà chính phủ sẽ cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn tối thiểu theo các nguồn lực và khả năng của chính phủ để giải quyết và loại bỏ các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người;
  • mức độ mà chính phủ đang dành đủ nguồn lực ngân sách để điều tra và truy tố buôn người, kết án và buôn bán bản án;và có được sự bồi thường cho các nạn nhân của nạn buôn người;và
  • Mức độ mà chính phủ đang dành đủ nguồn lực ngân sách để bảo vệ nạn nhân và ngăn chặn tội phạm xảy ra.

Ngoài ra, TVPA chỉ đạo Bộ trưởng Ngoại giao xem xét, như là bằng chứng về việc một quốc gia thất bại trong việc nỗ lực quan trọng để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA, một chính sách hoặc mô hình buôn bán của chính phủ;buôn bán trong các chương trình do chính phủ tài trợ;Lao động cưỡng bức (trong các dịch vụ y tế liên kết với chính phủ, nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác, xây dựng hoặc các lĩnh vực khác);Chế độ nô lệ tình dục trong các trại chính phủ, các hợp chất hoặc tiền đồn;hoặc sử dụng hoặc tuyển dụng binh lính trẻ em.

TVPA cũng quy định rằng bất kỳ quốc gia nào đã được xếp hạng Danh sách theo dõi Cấp 2 trong hai năm liên tiếp và nếu không sẽ được xếp hạng Danh sách theo dõi Cấp 2 cho năm tới thay vào đó sẽ được xếp hạng 3 trong năm thứ ba đó. & NBSP;Bộ trưởng Ngoại giao được ủy quyền từ bỏ việc hạ cấp tự động này chỉ một lần, trong năm thứ ba đó, dựa trên bằng chứng đáng tin cậy rằng việc từ bỏ là hợp lý vì chính phủ có một kế hoạch bằng văn bản, nếu được thực hiện, sẽ tạo nên những nỗ lực đáng kể để đáp ứng tối thiểu của TVPACác tiêu chuẩn để loại bỏ buôn bán và dành đủ nguồn lực để thực hiện kế hoạch. & NBSP;Năm sau, một quốc gia phải đi lên Cấp 2 hoặc xuống Cấp 3. & NBSP;Cuối cùng, TVPA giới hạn một quốc gia trong một năm trong danh sách theo dõi Cấp 2 sau khi quốc gia đó nhận được sự từ bỏ để ở trong danh sách theo dõi và sau đó đã bị hạ cấp xuống Cấp 3.

Hạn chế tài trợ cho các quốc gia cấp 3

Theo TVPA, các chính phủ của các quốc gia trên Cấp 3 có thể phải chịu một số hạn chế nhất định đối với hỗ trợ nước ngoài, theo đó Tổng thống có thể xác định không cung cấp cho chính phủ Hoa Kỳ, không phải là người không liên quan đến sự hỗ trợ nước ngoài như được định nghĩa trong TVPA. & NBSP;Ngoài ra, Tổng thống có thể xác định từ chối tài trợ cho quan chức chính phủ hoặc nhân viên tham gia các chương trình trao đổi giáo dục và văn hóa trong trường hợp một số quốc gia cấp 3 nhất định. & NBSP;Phù hợp với TVPA, Tổng thống cũng có thể xác định hướng dẫn Giám đốc điều hành Hoa Kỳ của mỗi Ngân hàng Phát triển Đa phương và Quỹ Tiền tệ Quốc tế để bỏ phiếu và sử dụng những nỗ lực tốt nhất của họ để từ chối bất kỳ khoản vay hoặc sử dụng khác của các tổ chức3 quốc gia cho hầu hết các mục đích (ngoại trừ hỗ trợ nhân đạo, liên quan đến thương mại và liên quan đến phát triển nhất định). & NBSP;Ngoài ra, Tổng thống có thể từ bỏ việc áp dụng các hạn chế đã nói ở trên đối với việc xác định rằng việc cung cấp cho một quốc gia cấp 3 về sự hỗ trợ đó sẽ thúc đẩy các mục đích của TVPA hoặc khác là vì lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ. & NBSP;TVPA cũng cho phép tổng thống từ bỏ những hạn chế này nếu cần thiết để tránh các tác động bất lợi đáng kể đối với các quần thể dễ bị tổn thương, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em và trẻ em.

Hạn chế hỗ trợ áp dụng áp dụng cho năm tài chính tiếp theo, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 năm 2021.

Không có thứ hạng cấp là vĩnh viễn. & NBSP;Mỗi quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, có thể làm nhiều hơn. & NBSP;Tất cả các quốc gia phải liên tục tăng nỗ lực chống buôn bán.

Tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA để loại bỏ buôn bán người

Đạo luật bảo vệ nạn nhân buôn bán năm 2000, Div.A của quán rượu.L. Số 106-386, § 108, được sửa đổi.

1. Chính phủ của đất nước nên cấm các hình thức buôn bán nghiêm trọng trong người và trừng phạt các hành vi buôn bán như vậy.

2. Đối với việc hiểu rõ bất kỳ hành động buôn bán tình dục nào liên quan đến vũ lực, gian lận, ép buộc hoặc trong đó nạn nhân của buôn bán tình dục là một đứa trẻ không có khả năng đồng ý, hoặc buôn bán bao gồm hiếp dâm hoặc bắt cóc hoặc gây tử vong,Chính phủ của đất nước nên kê đơn hình phạt tương xứng với những tội ác nghiêm trọng, chẳng hạn như tấn công tình dục cưỡng bức.

3. Đối với việc hiểu rõ bất kỳ hành động buôn bán nghiêm trọng nào đối với người, chính phủ của đất nước nên quy định hình phạt đủ nghiêm ngặt để ngăn chặn và điều đó phản ánh đầy đủ bản chất ghê tởm của hành vi phạm tội.

4. Chính phủ của đất nước nên nỗ lực nghiêm túc và bền vững để loại bỏ các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người.

Chỉ ra những nỗ lực nghiêm túc và bền vững

1. Cho dù chính phủ của đất nước đã điều tra mạnh mẽ và truy tố các hành vi buôn bán nghiêm trọng trong người, và kết án và bản án người chịu trách nhiệm về các hành vi đó, diễn ra toàn bộ hoặc một phần trong lãnh thổ của đất nước, bao gồm cảViệc giam giữ các cá nhân bị kết án về các hành vi đó.Đối với các mục đích của bản án trước đó, bị đình chỉ hoặc giảm đáng kể các bản án vì kết án của các chủ thể chính trong các trường hợp bị buôn bán nghiêm trọng trong cơ sở từng trường hợp, có nên được coi là một chỉ số của những nỗ lực nghiêm trọng và bền vữngđể loại bỏ các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người.Sau khi các yêu cầu hợp lý từ Bộ Dữ liệu về các cuộc điều tra, truy tố, kết án và bản án, một chính phủ không cung cấp dữ liệu đó, phù hợp với khả năng tăng mạnh của chính phủ đó để có đượcđã điều tra, truy tố, kết án hoặc kết án những hành vi đó.

2. Liệu chính phủ của đất nước có bảo vệ các nạn nhân của các hình thức buôn người nghiêm trọng ở người và khuyến khích sự giúp đỡ của họ trong việc điều tra và truy tố các vụ buôn bán đó, bao gồm các điều khoản thay thế pháp lý để loại bỏ các quốc gia mà họ sẽ phải đối mặt với sự trừng phạt hoặc khó khăn, vàđảm bảo rằng các nạn nhân không bị giam giữ không phù hợp, bị phạt hoặc chỉ bị phạt vì các hành vi bất hợp pháp là kết quả trực tiếp của việc bị buôn báncủa các nạn nhân.

3. Liệu chính phủ của đất nước có áp dụng các biện pháp để ngăn chặn các hình thức buôn người nghiêm trọng ở người hay không, chẳng hạn như các biện pháp thông báo và giáo dục công chúng, bao gồm cả nạn nhân tiềm năng, về nguyên nhân và hậu quả của các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người, các biện pháp để thiết lậpDanh tính của dân số địa phương, bao gồm đăng ký sinh, quyền công dân và quốc tịch, để đảm bảo rằng những người được triển khai ở nước ngoài như một phần của ngoại giao, gìn giữ hòa bình hoặc nhiệm vụ tương tự khác không tham gia hoặc tạo điều kiện cho các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở những người hoặcKhai thác các nạn nhân của việc buôn bán như vậy, một hệ thống minh bạch để khắc phục hoặc trừng phạt các quan chức công cộng như một biện pháp ngăn chặn, các biện pháp để ngăn chặn việc sử dụng lao động cưỡng bức hoặc lao động trẻ em vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế,các quốc gia khác, và các chính sách hoặc luật pháp hiệu quả điều chỉnh các nhà tuyển dụng lao động nước ngoài vàGiữ họ dân sự và chịu trách nhiệm hình sự cho việc tuyển dụng gian lận.

4. Cho dù chính phủ của đất nước hợp tác với các chính phủ khác trong cuộc điều tra và truy tố các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người và đã tham gia vào các hợp tác thực thi pháp luật song phương, đa phương hoặc khu vực với các quốc gia khác.

5. Liệu chính phủ của đất nước đã dẫn độ những người bị buộc tội gây ra các hình thức buôn bán nghiêm trọng trong những người theo cùng một điều khoản và về cơ bản là cùng mức độ với những người bị buộc tội các tội phạm nghiêm trọng khác (hoặc, trong phạm vi dẫn độ như vậy sẽ không nhất quán vớiLuật pháp của quốc gia đó hoặc với các thỏa thuận quốc tế mà nước này là một bên, cho dù chính phủ có thực hiện tất cả các biện pháp phù hợp để sửa đổi hoặc thay thế các luật và hiệp ước đó để cho phép dẫn độ đó).

6. Liệu chính phủ của đất nước giám sát các mô hình nhập cư và di cư để có bằng chứng về các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở người và liệu các cơ quan thực thi pháp luật của đất nước có phản ứng với bất kỳ bằng chứng nào theo cách phù hợp với cuộc điều tra và truy tố mạnh mẽbuôn bán như vậy, cũng như với việc bảo vệ quyền con người của nạn nhân và quyền được quốc tế công nhận rời khỏi bất kỳ quốc gia nào, bao gồm cả một người và trở về quốc gia của một người.

7. Cho dù chính phủ của đất nước đã điều tra mạnh mẽ, truy tố, kết án và bản án các quan chức công chúng, bao gồm các nhà ngoại giao và binh sĩ, những người tham gia hoặc tạo điều kiện cho các hình thức buôn bán nghiêm trọngNgoại giao, gìn giữ hòa bình hoặc nhiệm vụ tương tự khác tham gia hoặc tạo điều kiện cho các hình thức buôn bán nghiêm trọng trong người hoặc khai thác nạn nhân của việc buôn bán như vậy, và thực hiện tất cả các biện pháp thích hợp chống lại các quan chức tha thứ hoặc cho phép buôn bán như vậy.Một chính phủ không thể giải quyết các cáo buộc công khai một cách thích hợp đối với các quan chức công cộng đó, đặc biệt là một khi các quan chức đó đã trở về nước của họ, sẽ được xem xét không hành động theo các tiêu chí này.Sau khi các yêu cầu hợp lý từ Bộ Dữ liệu về các cuộc điều tra, truy tố, kết án và bản án đó, một chính phủ không cung cấp dữ liệu đó, phù hợp với khả năng tăng mạnh của chính phủ đó để có đượcđiều tra mạnh mẽ, bị truy tố, kết án hoặc kết án những hành vi đó.

8. Việc tỷ lệ nạn nhân của các hình thức buôn bán nghiêm trọng ở nước này không phải là công dân của các quốc gia đó là không đáng kể.

9. Liệu chính phủ có tham gia vào các quan hệ đối tác hiệu quả, minh bạch, thỏa thuận hợp tác hoặc thỏa thuận dẫn đến kết quả cụ thể và có thể đo lường được với -

một.Các tổ chức xã hội dân sự trong nước, các tổ chức khu vực tư nhân hoặc các tổ chức phi chính phủ quốc tế, hoặc các thỏa thuận hoặc thỏa thuận đa phương hoặc khu vực, để hỗ trợ các nỗ lực của chính phủ để ngăn chặn buôn bán, bảo vệ nạn nhân và trừng phạt những kẻ buôn người;hoặc

b.Hoa Kỳ hướng tới các mục tiêu và mục tiêu đã thỏa thuận trong cuộc chiến tập thể chống buôn bán.

10. Cho dù chính phủ của đất nước, phù hợp với năng lực của chính phủ đó, theo dõi một cách có hệ thống những nỗ lực của mình để đáp ứng các tiêu chí được mô tả trong các đoạn (1) đến (8) và đưa ra công khai đánh giá định kỳ về những nỗ lực đó.

11. Liệu chính phủ của đất nước có đạt được tiến bộ đáng kể trong việc loại bỏ các hình thức buôn bán nghiêm trọng khi so sánh với đánh giá trong năm trước hay không.

12. Liệu chính phủ của đất nước có thực hiện các nỗ lực nghiêm túc và duy trì để giảm nhu cầu -

một.hành vi tình dục thương mại;và

b.tham gia vào du lịch tình dục quốc tế của các quốc gia của đất nước.

Các quốc gia trong báo cáo Tip năm 2021 không phải là thành viên của Nghị định thư để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

Bhutan Congo, Cộng hòa Iran Hàn Quốc, Quần đảo Bắc Marshall Pakistan Papua New Guinea Solomon Quần đảo Somalia Nam Sudan Tonga Uganda Vanuatu Yemen
Congo, Republic of the
Iran
Korea, North
Marshall Islands
Pakistan
Papua New Guinea
Solomon Islands
Somalia
South Sudan
Tonga
Uganda
Vanuatu
Yemen

Từ tháng 4 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021, Comoros và Nepal trở thành các bên tham gia giao thức.

Dữ liệu thực thi pháp luật toàn cầu

Việc tái ủy quyền năm 2003 của TVPA đã thêm vào luật ban đầu, một yêu cầu mới rằng chính phủ nước ngoài cung cấp cho Bộ Ngoại giao dữ liệu về các cuộc điều tra buôn bán, truy tố, kết án và bản án để đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu của TVPA để loại bỏ buôn bán (cấp độ1).Báo cáo mẹo năm 2004 đã thu thập dữ liệu này lần đầu tiên.Báo cáo mẹo năm 2007 cho thấy lần đầu tiên đột phá số lượng tổng số vụ truy tố và kết án liên quan đến buôn bán lao động, được đặt vào dấu ngoặc đơn.

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
LEGISLATION
2014 10.051 (418)4.443 (216)44.462 (11.438)20
2015 19.127 (857)6.615 (456)77.823 (14.262)30
2016 14.939 (1.038)9.072 (717)68.453 (17.465)25
2017 17.471 (869)7.135 (332)96.960 (23.906)5
2018 11.096 (457)7.481 (259)85.613 (11.009)5
2019 11.841 (1.024)9,548 (498)118.932 (13.875)7
2020 9,876 (1.115)5.271 (337)109.216 (14.448)16

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.

2021 Tip Báo cáo anh hùng

Mỗi năm, Bộ Ngoại giao tôn vinh các cá nhân trên khắp thế giới, những người đã cống hiến cả cuộc đời cho cuộc chiến chống buôn người.Những cá nhân này bao gồm các công nhân NGO, các nhà lập pháp, quan chức chính phủ, những người sống sót sau nạn buôn người và công dân có liên quan.Họ được công nhận vì những nỗ lực không mệt mỏi của họ - mặc dù một số làm việc trong các môi trường đầy thách thức, nơi những lo ngại về nạn buôn người vẫn còn lan tỏa và đối mặt với sự kháng cự, sự phản đối hoặc các mối đe dọa đối với cuộc sống của họ - để bảo vệ nạn nhân, trừng phạt những người phạm tội và giảm thiểu các yếu tố cơ bản gây ra những kẻ buôn người thường xuyên nhắm mục tiêu.

Để biết thêm thông tin về các anh hùng báo cáo mẹo hiện tại và quá khứ, vui lòng truy cập Mạng Mẹo Báo cáo Toàn cầu HEROES tại www.tipheroes.org.www.tipheroes.org.

Imelda Poole |Albania

Chị Imelda Poole, lãnh đạo trong cuộc chiến chống buôn người vượt xa công việc của chính mình để truyền cảm hứng cho những người khác. & NBSP;Một lực lượng của tự nhiên, cô đã ưu tiên đạt được sự thay đổi hệ thống thông qua hành động cơ sở và kết nối mạng hiệu quả.& nbsp; ở cấp địa phương và khu vực, & nbsp; cô ấy kiên trì trong việc thúc đẩy các dịch vụ vận động, tiếp cận và phục hồi chức năng để chống buôn người.

Poole là thành viên của Hội đồng Đức Trinh Nữ Maria (Mary Ward) và làm Chủ tịch Tôn giáo ở Châu Âu Mạng lưới chống buôn bán và bóc lột (Renate), mạng lưới phụ nữ châu Âu từ 21 quốc gia chống buôn người. & NBSP;Cô & NBSP; đã đi du lịch khắp châu Âu, cố vấn và đào tạo những người khác và trở thành người phát ngôn hàng đầu cho các sáng kiến chống buôn người ở châu Âu.

Luôn luôn làm sáng tỏ các nhu cầu của thời điểm này, & nbsp; Poole & nbsp; thích nghi để đáp ứng những thách thức mới. & Nbsp;Khi chức vụ của cô chuyển đến Albania vào năm 2005, cô nhanh chóng & nbsp; thành lập & nbsp; tổ chức phi chính phủ chống buôn người & nbsp; Mary Ward Loreto (MWL) ở Albania.& nbsp; Under & nbsp; Poole, định hướng chiến lược, mwl & nbsp; địa chỉ & nbsp; nguyên nhân gốc của nạn buôn người, tập trung vào & nbsp; cộng đồng & nbsp; nơi & nbsp; roma, người di cư, phụ nữ và trẻ em & nbsp; là dễ bị tổn thương nhất.& nbsp; Poole và nhân viên của cô đã làm việc với hơn 3.000 phụ nữ. & NBSP;Họ đã thành lập 16 doanh nghiệp trao quyền kinh tế trên khắp Albania, nhằm mục đích làm giảm nguy cơ khai thác của phụ nữ bằng cách cung cấp cơ hội tham gia vào các dự án kinh doanh trong du lịch, thiết kế và giáo dục, trong số những người khác. & NBSP;; Team & NBSP; đã làm việc nhiệt tình để giảm sự dễ bị tổn thương của các cá nhân và gia đình ở Albania bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19 đối với buôn bán người.

Vì niềm đam mê của cô ấy & nbsp; cho & nbsp; nguyên nhân mà cô ấy đã thực hiện cuộc sống của mình, & nbsp; Poole làm việc xuyên biên giới để nuôi dưỡng sự hỗ trợ để chống lại nạn buôn người và bảo vệ các cộng đồng dễ bị tổn thương.

Josiane Lina Bemaka-Soui | & nbsp; Cộng hòa Trung Phi

Josiane Lina Bemaka-Soui đã phát triển phản ứng chống buôn người Trung Phi của Cộng hòa Trung Phi từ đầu. & NBSP;Trong vai trò là cố vấn tổng thống và việc giải giáp quốc gia, xuất ngũ và tiêu điểm chiến lược của chương trình hồi hương cho trẻ em, Bemaka-soui vận hành Ủy ban liên ngành chống buôn người non trẻ của chính phủ và lãnh đạo việc phát triển và thực hiện kế hoạch hành động quốc gia đầu tiên của đất nước đối với nạn buôn người quốc gia về tội buôn bán người về con người về. & nbsp;Lãnh đạo không mệt mỏi của Bemaka-Soui, và những nỗ lực của cô nhằm tạo ra các khung thể chế này đã dẫn đến nền tảng quan trọng để chính phủ cải thiện đều đặn những nỗ lực chống buôn người.

Trong khi phải đối mặt với các cuộc khủng hoảng trước bầu cử và một căng thẳng liên tục đối với các nguồn lực, Bemaka-soui đã kiên định đảm bảo Ủy ban liên ngành vẫn luôn tham gia vào vấn đề này, và cô đã đóng một vai trò quan trọng trong việc sắp xếp hỗ trợ từ các đối tác chính và phát triển đào tạo chínhvà các chương trình tiếp cận cộng đồng. & nbsp;Vào tháng 2 năm 2021, Bemaka-Soui đã dẫn đầu và giám sát việc ra mắt & NBSP;Chiến dịch phát thanh đầu tiên của chính phủ để nâng cao nhận thức về buôn bán người bằng ngôn ngữ địa phương của Sango, do đó cho phép chính phủ tiếp cận các cộng đồng quan trọng.

Bemaka-Soui cũng nhạy cảm với những ảnh hưởng của nạn buôn người đối với các cá nhân và cộng đồng của họ.Cô đã đi ra ngoài để gặp gỡ các cá nhân trong các cơ sở cho những người di dời nội bộ, những người có thể đã bị khai thác, và đảm bảo rằng họ nhận thức được các quyền của họ theo luật pháp của đất nước. & NBSP;Đáng chú ý không kém, cô đã đích thân hỗ trợ các cựu binh trẻ em ra tù và sử dụng tiền của mình để giúp trang trải chi phí cho các nhu yếu phẩm.

Chantal Sagbo Sasse EP.Guedet Mandzela | & nbsp; Gabon

Chantal Sagbo Sasse đã đi đầu trong phong trào chống buôn người của Gabon, trong hơn hai thập kỷ. & NBSP;Cô đã ra mắt một trong những tổ chức phi chính phủ ưu việt của đất nước chuyên chống buôn bán trẻ em, Dịch vụ Quốc tế de la Formation des Enfants de la Rue (SIFOS), vào năm 2000 và đã lãnh đạo tổ chức này kể từ khi thành lập.

Dưới sự lãnh đạo và tầm nhìn can đảm của Sass Sasse, SIFOS cung cấp giáo dục quan trọng cho trẻ em đã trải qua buôn bán người, vô gia cư hoặc thể chế hóa dân cư. & NBSP;Cô đã siêng năng làm việc với các thành viên cộng đồng, thực thi pháp luật và các quan chức chính phủ, và các tổ chức phi chính phủ khác để đảm bảo đất nước chủ động xác định nạn nhân và giới thiệu họ để chăm sóc. & NBSP;Thông qua công việc ban đầu của mình, Sagbo Sasse thường xuyên tương tác và thiết lập một mối liên hệ sâu sắc với những đứa trẻ sống sót sau nạn buôn người, nhiều người đến từ Bénin, đất nước gốc của cô. & NBSP;Cô và nhóm của mình đã phát triển các tế bào giám sát chống buôn người trên khắp đất nước, thủ đô gồm các thành viên cộng đồng, người mà SIFOS đã đào tạo và trao quyền để xác định buôn bán người trong các nhóm dân cư dễ bị tổn thương và báo cáo các trường hợp nghi ngờ an toàn cho chính quyền. & NBSP;Từ năm 2000 đến 2020, SIFO đã giúp xác định 578 nạn nhân buôn bán trẻ em và tái hòa nhập 9.039 trẻ em vào xã hội địa phương.

Sagbo Sasse cũng là một thành viên quan trọng của ủy ban liên bộ chống buôn người của Gabon, và vẫn là nhà lãnh đạo hàng đầu của đất nước về vấn đề này. & NBSP;Trong ủy ban này, cô đã đóng một vai trò chính trong việc thúc đẩy nhận dạng và bảo vệ nạn nhân cho nạn nhân buôn bán trẻ em. & NBSP;Trong khi chính phủ đã giải tán ủy ban vào năm 2019 do thiếu kinh phí, Sagbo Sasse tiếp tục dành thời gian để trở thành cố vấn quan trọng cho các quan chức chính phủ, điều phối chặt chẽ với các bộ liên quan về việc xác định nạn nhân và các nỗ lực giới thiệu.

Shoichi Ibusuki | & nbsp; Nhật Bản

Shoichi Ibusuki là một nhà vô địch không ngừng trong việc bảo vệ quyền của người lao động nước ngoài, và anh ta đã làm việc không mệt mỏi trong nhiều năm thay mặt cho các thực tập sinh kỹ thuật nước ngoài hỗ trợ nạn nhân lao động cưỡng bức và ngăn chặn lạm dụng trong chương trình đào tạo thực tập kỹ thuật Nhật Bản. & NBSP;Ông là đồng chủ tịch của Mạng lưới Luật sư về Thực tập sinh kỹ thuật, Chủ tịch Mạng lưới Luật sư dành cho Công nhân nước ngoài và là một chuyên gia pháp lý nổi tiếng về các vấn đề lao động nước ngoài. & NBSP;Sự vận động của Ibusuki, cùng với sự cống hiến không ngừng và đáng ngưỡng mộ của anh ấy để giúp những người nước ngoài lâu dài lâu dài khai thác lao động và bảo vệ quyền con người của họ, đã đưa những vấn đề này lên hàng đầu và đưa hồ sơ của họ trong Nhật Bản và trên toàn thế giới.

Ibusuki đã tìm kiếm công lý thay mặt cho vô số lao động nước ngoài bằng cách cung cấp đại diện pháp lý cho những người đang hành động chống lại các nhân viên cũ vì vi phạm luật lao động. & NBSP;Ibusuki không chỉ đại diện cho các nạn nhân buôn bán, nhiều người trong số họ tham gia chương trình đào tạo thực tập kỹ thuật Nhật Bản, mà còn là một người ủng hộ thẳng thắn về sự hiện diện của lao động cưỡng bức trong chương trình. & NBSP;Những nỗ lực can đảm này đã thúc đẩy chính phủ bắt đầu xác định những cá nhân này là nạn nhân buôn người. & NBSP;Ibusuki đã đi xa hơn bằng cách ủng hộ chính phủ cấm người sử dụng lao động giữ hộ chiếu lao động nước ngoài và cho Nhật Bản áp đặt quyền kiểm soát chặt chẽ hơn đối với việc khai thác và vi phạm nhân quyền của các nhà môi giới lao động và trung gian ở các nước gửi.Những biện pháp này sẽ đi một chặng đường dài để ngăn chặn lạm dụng và bóc lột lao động, đặc biệt là lao động cưỡng bức.

Shakhnoza Khassanova | & nbsp; Kazakhstan

Shakhnoza Khassanova là giám đốc của Trung tâm Pháp lý cho các sáng kiến Phụ nữ, Hồi Sana Sezim.Cô có hơn một thập kỷ trải nghiệm ấn tượng nâng cao nhận thức về buôn bán người, ủng hộ các biện pháp bảo vệ nạn nhân lớn hơn, và hỗ trợ người di cư và nạn nhân của nạn buôn người từ khắp Trung Á.Được thành lập vào năm 2001, Sana Sezim là một tổ chức chống buôn người hàng đầu ở Kazakhstan và có những nỗ lực tiên tiến trong nước để chấm dứt buôn bán người và giúp người di cư lao động.

Được dẫn dắt bởi Khassanova, Sana Sezim đã làm việc không mệt mỏi trong suốt đại dịch Covid-19 để giữ cho nơi trú ẩn của nó để buôn bán nạn nhân và nâng cao nhận thức về di cư an toàn và buôn bán người.Khassanova và Sana Sezim đã dũng cảm ở trên tiền tuyến để tiếp tục hỗ trợ người di cư bị mắc kẹt tại biên giới Kazakhstan-Uzbekistan do đóng cửa đại dịch, và do đó phải đối mặt với nguy cơ buôn bán người. & NBSP;Sana Sezim cũng đã đàm phán và hợp tác với các cơ quan chính phủ ở Kazakhstan, Uzbekistan và Tajikistan để mở các kênh hồi hương cho hơn 100.000 người di cư bị mắc kẹt trong bối cảnh khóa bị khóa của chính phủ và các trường hợp khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng.

Dưới sự lãnh đạo vô song và sự chỉ đạo của Khassanova, Sana Sezim tiếp tục cung cấp quyền truy cập vào công lý cho các nạn nhân buôn bán bằng cách xây dựng năng lực tổ chức của các tổ chức xã hội dân sự và hệ thống tư pháp để chống buôn người ở người. & NBSP;Khassanova cũng làm việc chặt chẽ với cảnh sát địa phương để hỗ trợ nạn nhân buôn người chọn tham gia tố tụng hình sự.

Khassanova được các quan chức chính phủ và đối tác từ các tổ chức quốc tế tôn trọng.Cô thường xuyên đào tạo các quan chức chính phủ, chia sẻ những kinh nghiệm quan trọng khi làm việc với các nạn nhân tại nơi trú ẩn buôn người ở Sana Sezim.

Guillermina Cabrera Figueroa | & NBSP; Mexico

Guillermina Cabrera Figueroa là công tố viên chuyên biệt về buôn bán người cho Bang Mexico. & NBSP;Ngoài những thành tựu chống buôn người ở vị trí hiện tại của mình, cô có một hồ sơ theo dõi về việc bảo vệ các quyền của nạn nhân buôn bán và cung cấp cho họ các dịch vụ.

Với quyết tâm, công việc vô tận và lãnh đạo khi làm việc trong văn phòng điều tra chuyên ngành của chính phủ liên bang về tội phạm có tổ chức, Mexico đã nhận được bản án hình sự đầu tiên về các tội phạm liên quan đến buôn bán người và tội phạm có tổ chức vào tháng 6 năm 2011. & NBSP;Vào tháng 3 năm 2013, Cabrera đã chấp nhận vị trí công tố viên chuyên về buôn người tại Văn phòng Tổng chưởng lý bang Mexico. & NBSP;Ở vị trí này, Cabrera đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng điều tra và truy tố các vụ buôn người. & NBSP;Kể từ khi gia nhập Văn phòng Tổng chưởng lý, nhóm của cô đã nhận được 73 người bị kết án buôn người, đã đưa ra 152 cáo trạng về buôn bán người và khởi xướng 941 cuộc điều tra buôn người. & NBSP;Cô tiếp tục là một lực lượng hướng dẫn, đưa ra những điều tốt nhất trong đội của mình.

Trong suốt sự nghiệp lâu dài và ấn tượng của mình trong thực thi pháp luật, cô đã lãnh đạo nhiều khóa đào tạo cho nhân viên chính phủ. & NBSP;Trong một môi trường có quyền truy cập cực kỳ hạn chế vào các dịch vụ bảo vệ quan trọng, Cabrera và văn phòng của cô đã dẫn đầu các nỗ lực để đảm bảo tài trợ cho việc tạo ra ba nơi trú ẩn nạn nhân ở Toluca, Huixquilucan và Texcoco, hiện có thể chứa tới 210 nạn nhân của buôn bán. & NBSP;Văn phòng của cô giám sát ba nơi trú ẩn và đối tác với Ủy ban buôn người liên ngành, các tổ chức xã hội dân sự, trong số những người khác để giữ cho họ chạy và cung cấp dịch vụ cho cư dân.

Mohammed al-oaidly | & nbsp; Qatar

Mohammed al-oaidly là một trong những nhân vật quan trọng nhất của Qatari ủng hộ cải cách lao động và buôn người ở Qatar. & NBSP;Là một trợ lý phụ trách trong Bộ Phát triển hành chính, lao động và các vấn đề xã hội, ông đã khởi xướng hoặc thực hiện nhiều chính sách và chương trình có tác động đáng kể đối với nạn nhân buôn bán. & NBSP;Chúng bao gồm việc thành lập các ủy ban giải quyết tranh chấp lao động, việc mở nơi trú ẩn đầu tiên và duy nhất trong nước đối với nạn nhân buôn người, loại bỏ các yêu cầu về giấy phép thoát hiểm cho người lao động nhập cư, thực hiện mức lương tối thiểu và bãi bỏ giấy chứng nhận không phản đối (Công nhân nhập cư trước đây được yêu cầu để có được các chứng chỉ này từ chủ nhân của họ để chuyển sang chủ nhân khác).

Qatar vẫn là một nơi khó khăn đối với nhiều người lao động nhập cư, và lao động cưỡng bức vẫn là một mối quan tâm nghiêm trọng ở nước này. & NBSP;Al-oaidly đã không giải quyết được các vấn đề về buôn bán người hoặc quyền lao động của Qatar, và anh ta sẽ thừa nhận điều đó. & NBSP;Tuy nhiên, ông và nhóm của mình tại Bộ đã tiếp tục phấn đấu hướng tới mục tiêu tăng tính minh bạch và bảo vệ chống lại lao động cưỡng bức cho người lao động nhập cư.

Al-oaidly và nhóm của anh ấy đã chiến lược và kiên trì trong nỗ lực thấm nhuần sự thay đổi thực sự, ngay cả khi nhiệm vụ trong tay dường như không thể. & NBSP;Mặc dù phải đối mặt với sự kháng cự và đôi khi, những lời chỉ trích, ông và nhóm của mình vẫn tiếp tục làm việc để thực hiện cải cách lao động và cải thiện cuộc sống của người lao động. & NBSP;Đáng chú ý nhất, al-odly trao quyền cho nhóm của anh ấy và tận dụng mọi cơ hội để họ tham gia và chia sẻ thông tin với công chúng, bao gồm các cộng đồng dễ bị tổn thương, dần dần xây dựng niềm đam mê cải cách lao động trong Bộ.

Rocío Mora-Nieto | & nbsp; Tây Ban Nha

Trong 26 năm, Rocío Mora-Nieto đã dành những nỗ lực của mình để chống lại việc khai thác tình dục phụ nữ và, kể từ những năm 1990, buôn bán tình dục ở Tây Ban Nha thông qua công việc của mình với tư cách là giám đốc của Hiệp hội phòng chống, tái hòa nhập và hỗ trợ phụ nữ mại dâm (APRAMP).Một nhà hoạt động xuất sắc và đam mê, cô đã dẫn Apramp trở thành người tiên phong trong việc thực hiện các chiến lược nhằm cải thiện sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp, lực lượng an ninh nhà nước và chính phủ quốc gia, dẫn đến một cú đánh hiệu quả chống lại các tổ chức tội phạm chịu trách nhiệm về buôn bán tình dụcở Tây Ban Nha.

Là giám đốc của APRAMP, Mora đã thực hiện một cách tiếp cận tập trung vào nạn nhân toàn diện, được phản ánh trong đơn vị di động của Apramp.Những người có kinh nghiệm sống giúp điều hành các đơn vị di động và họ có thể xác định và tiếp cận hiệu quả các nạn nhân buôn bán tiềm năng.Ngoài ra, APRAMP có đường dây nóng 24 giờ, nơi trú ẩn ngắn hạn, trung tâm chăm sóc đa ngành, tài nguyên bảo vệ nhân chứng, tư vấn pháp lý, hỗ trợ tâm lý, trung tâm giáo dục công việc và hội thảo tự làm chủ.

Trong ba tháng của Tây Ban Nha khóa do đại dịch Covid-19, dưới sự lãnh đạo của Mora, Apramp đã nhanh chóng chuyển hướng những nỗ lực của mình để phát hiện không gian mới nơi tình dục thương mại đang diễn ra.Làm như vậy cho phép tổ chức tiếp tục kết nối với các nạn nhân buôn bán tiềm năng, hiện được giấu trong các căn hộ tư nhân và khu vực bí mật thay vì các câu lạc bộ và nhà thổ, đã được lệnh đóng cửa do khóa chặt cùng với tất cả các không gian công cộng khác.Do đó, Apramp đã có thể duy trì hoạt động trong việc báo cáo về xu hướng buôn bán tình dục, do đó cung cấp thông tin chiến lược cho các bên liên quan khác.Trong đại dịch, Apramp cũng tạo ra các hướng dẫn can thiệp đặt ra tiêu chuẩn cho các hướng dẫn gần đây của chính phủ để phục vụ nạn nhân của buôn bán.

Câu chuyện nạn nhân & hình ảnh

Các câu chuyện và hình ảnh nạn nhân có trong báo cáo này có nghĩa là minh họa [xem phiên bản PDF cho ảnh]. & NBSP;Họ đặc trưng cho nhiều người khác mặc dù không phải tất cả các dạng buôn người của người và nhiều tình huống và địa điểm khác nhau mà chúng xảy ra. & NBSP;Mỗi câu chuyện nạn nhân dựa trên những trải nghiệm thực sự và kết quả là các nạn nhân đã được thay đổi. & NBSP;Trong nhiều trường hợp, các bức ảnh của các cá nhân được sử dụng trong báo cáo này không phải là hình ảnh của các nạn nhân buôn người được xác nhận. & NBSP;Khi nạn nhân hoặc những người sống sót đang ở trong một bức ảnh, việc xác định các tính năng đã được gỡ bỏ hoặc nhiếp ảnh gia đã chụp ảnh với sự hợp tác của từng trong hình.

Châu Âu

Liam và Jakob đã trải qua tình trạng vô gia cư ở Bắc Âu khi một người mà họ nghĩ là một chủ nhân tương lai đã cung cấp cho họ một công việc trong xây dựng, cùng với phòng và hội đồng quản trị, ở một quốc gia láng giềng. & NBSP;Họ rời khỏi đất nước của họ bằng hộ chiếu giả và làm việc chăm chỉ đặt nhựa đường và đá trong các khu dân cư. & NBSP;Chủ nhân của họ đã buộc những người đàn ông phải làm việc nhiều giờ, liên tục giảm tiền lương và lạm dụng thể xác họ. & NBSP;Họ thường xuyên di chuyển xung quanh và thường không chắc chắn về nơi chúng được đặt. & NBSP;Khi chủ nhân của họ đột ngột rời đi, những người đàn ông đã có thể tìm kiếm sự giúp đỡ tại Đại sứ quán Quốc gia của họ. & NBSP;Cuối cùng, chủ nhân của họ đã bị bắt và bị kết án về nạn buôn người.

Ấn Độ

Đối mặt với sự nghèo đói cùng cực ở Ấn Độ do Covid-19, cha mẹ Aarav, đã bán anh ta với giá 21 đô la Mỹ cho chủ sở hữu của một nhà máy bangle.Chủ sở hữu đã nhốt cô bé 12 tuổi trong một căn phòng bẩn thỉu với một vài đứa trẻ khác và buộc chúng phải làm vòng đeo trong 15 giờ mỗi ngày, sử dụng sơn mài tan chảy vì than đốt nguy hiểm và chỉ kiếm được 0,70 đô la Mỹ một tuần.Chủ sở hữu giữ Aarav không liên lạc với gia đình và đe dọa lạm dụng thể xác nếu anh ta cố gắng rời đi.Sau khi nhận được một lời khuyên từ các nhà hoạt động vì quyền trẻ em, cảnh sát đã tiến hành một cuộc đột kích để loại bỏ trẻ em khỏi nhà máy và bắt giữ kẻ buôn người.Chính phủ đã cung cấp cho Aarav và các nạn nhân khác hỗ trợ sau hậu quả của cuộc đột kích.

Venezuela - Guyana

Katherin đã trả 1.500 đô la Mỹ để thoát khỏi Venezuela và tìm an ninh và cơ hội ở Guyana.Trong vòng một tháng, một người đàn ông đã thuê cô làm tiếp viên song ngữ tại cửa hàng của anh ta ở thủ đô Georgetown.& nbsp; Khi cô ấy đến, cô ấy đã học được ông chủ của mình sở hữu một quầy hàng bên đường thay vì một cửa hàng. & nbsp;Cô cũng biết rằng cô sẽ không có căn hộ miễn phí mà anh đã hứa. & NBSP;Thay vào đó, ông chủ của Katherin, buộc cô phải ở trong nhà của anh ta. & NBSP;Sau ba tuần làm việc, cô chỉ được trả 23 đô la Mỹ, thấp hơn nhiều so với mức lương đã hứa.

Yemen

Ở tuổi 10, Salih và các bạn học của anh ấy đã ra ngoài chơi bóng đá sau ngày học kết thúc. & NBSP;Trong khi đá một quả bóng vào một cánh đồng bỏ hoang bên ngoài Marib, Yemen, phiến quân Houthi đã sạc cho các chàng trai. & NBSP;Các phiến quân đã bắt cóc và đưa Salih và các đồng nghiệp của anh ta đến căn cứ của Houthi.

Các phiến quân Houthi đã cho các chàng trai vũ khí và buộc họ phải chiến đấu và bảo vệ các trạm kiểm soát. & NBSP;Trong một cuộc đột kích, Salih đã chạy trốn đến một trại người di dời. & NBSP;Salih vẫn bị mất thính lực do vụ nổ và không kích. & NBSP;Nhiều cựu lính trẻ em bị tấn công hoảng loạn do chấn thương.

Kazakhstan - Trung Quốc

Khi Mei trở về khu vực Tân Cương ở Trung Quốc để thăm người cha bị bệnh của mình, các quan chức Trung Quốc đã ngăn cô ở biên giới với Kazakhstan và thu giữ hộ chiếu của cô.Họ nói với cô rằng cô không thể đi gặp cha mình, và cô phải tham gia vào 15 ngày giáo dục giáo dục vì cô là người Hồi giáo và một người dân tộc Kazakh.Thay vào đó, Mei đã dành hơn một năm trong các cơ sở giam giữ Trung Quốc, nơi chính quyền đã khiến cô phải truyền bá chính trị và buộc cô phải làm việc trong một nhà máy sản xuất găng tay với giá 0,02 đô la Mỹ một cặp.Chính quyền Trung Quốc cũng làm cho MEI ở trong các tế bào được trang bị máy ảnh và loa.Cuối cùng, họ thả Mei và cho phép cô quay trở lại Kazakhstan.

Philippines

Benilda 12 tuổi khi người hàng xóm của cô, Joriz, đề nghị cung cấp cho cô một nền giáo dục và một công việc để trả phí trường anh chị em của cô nếu cô chuyển cùng anh ta đến Manila. & NBSP;Cha mẹ của Benilda, đã tin tưởng Joriz, vì vậy họ cho phép cô đi cùng anh ta. & NBSP;Lúc đầu khi cô đến Manila, dường như không có gì sai;Benilda tận hưởng một cuộc sống thoải mái và đi đến một ngôi trường tốt. & NBSP;Tất cả đã thay đổi khi, sau một vài tháng, Joriz đã chụp một bức ảnh khỏa thân của Benilda và sau đó buộc cô phải khỏa thân trước một webcam. & NBSP;Joriz bắt đầu lạm dụng tình dục Benilda trên máy ảnh, phát trực tiếp nó lên internet để kiếm tiền. & Nbsp;Từ đó, Joriz đã khai thác Benilda trong một hình thức buôn bán tình dục khác bằng cách buộc cô tham gia vào các hành vi tình dục thương mại tại các khách sạn địa phương. & NBSP;Các nhân viên thực thi pháp luật cuối cùng đã xác định Benilda và các nhân viên xã hội đã hỗ trợ cô nhận được sự giúp đỡ mà cô cần.

Chile - Hoa Kỳ

Vicente đã rất vui mừng khi anh được tuyển dụng và cung cấp một thị thực giáo dục để theo học trường cao đẳng cộng đồng ở Hoa Kỳ. & NBSP;Chương trình đại học hứa hẹn học phí miễn phí cho chương trình cấp bằng hai năm về nghệ thuật ẩm thực, phòng miễn phí và bảng, và thực tập. & NBSP;Sau khi đến Hoa Kỳ, Vicente và một số sinh viên người Chile khác đã biết chương trình của họ đã được thay đổi từ chương trình hai năm thành chương trình một năm về dịch vụ thực phẩm. & NBSP;Thay vì thực tập, trường yêu cầu sinh viên Chile làm việc 40 giờ mỗi tuần trong một nhà máy chế biến thịt để trả một khoản nợ cho chương trình học thuật mà họ đã nói sẽ không có học phí và trả tiền cho thực phẩm và nhà ởtiền lương của họ. & nbsp;Các quản trị viên của trường đã buộc Vicente và các sinh viên khác phải tuân thủ một công việc mệt mỏi và lịch trình học tập và đe dọa trục xuất và hành động pháp lý nếu họ không tuân thủ hoặc bỏ qua một ca làm việc. & NBSP;Khi trường đóng cửa chương trình Visa giáo dục sau khi khiếu nại được nộp, nó khuyến khích sinh viên tự suy tàn.

Vị trí cấp và bản đồ khu vực

Vị trí cấp

Cấp 1

Argentina Australia Áo Bahamas, Bahrain Bỉ Canada Chile Colombia Cộng hòa Séc Estonia Phần Lan Pháp Georgia Guyana Hàn Quốc, Nam Litva Luxembourg Namibia Hà Lan
Australia
Austria
Bahamas, The
Bahrain
Belgium
Canada
Chile
Colombia
Czech Republic
Estonia
Finland
France
Georgia
Guyana
Korea, South
Lithuania
Luxembourg
Namibia
Netherlands
Philippines
Singapore
Slovenia
Spain
Sweden
Taiwan
United Kingdom
United States of America

Phần 2

Agigua và Barbuda Armenia Bangladesh Bénin Bôlivia Bosnia và Herzegovina Botswana Brazil Bragaria cabo Verde Trung Phi Cộng hòa Congo, Cộng hòa Costa Rica COTE DàẤn Độ Indonesia Iraq Israel Italy Nhật Bản Jamaica Jordan Kazakhstan Kyrgyz Cộng hòa Kenya Kosovo Kuwait Latvia Lebanon Madagascar MALDIVESvà Grenadines Saudi Arabia Serbia Seychelles Sierra Leone Slovak Cộng hòa Solomon Quần đảo Sudan Suriname Thụy Sĩ Tajikistan Togo Tunisia Thổ Nh
Angola
Antigua and Barbuda
Armenia
Bangladesh
Benin
Bolivia
Bosnia and Herzegovina
Botswana
Brazil
Bulgaria
Cabo Verde
Central African Republic
Congo, Republic of the
Costa Rica
Cote D’Ivoire
Croatia
Cyprus
Denmark
Dominican Republic
Ecuador
Egypt
El Salvador
Eswatini
Fiji
Gabon
Germany
Ghana
Greece
Guatemala
Honduras
Hungary
Iceland
India
Indonesia
Iraq
Israel
Italy
Japan
Jamaica
Jordan
Kazakhstan
Kyrgyz Republic
Kenya
Kosovo
Kuwait
Laos
Latvia
Lebanon
Madagascar
Malawi
Maldives
Malta
Mauritius
Mexico
Micronesia
Moldova
Mongolia
Montenegro
Morocco
Mozambique
New Zealand
Niger
Nigeria
Nepal
North Macedonia
Norway
Oman
Panama
Paraguay
Peru
Poland
Portugal
Qatar
Rwanda
Saint Lucia
St. Vincent and the Grenadines
Saudi Arabia
Serbia
Seychelles
Sierra Leone
Slovak Republic
Solomon Islands
Sudan
Suriname
Switzerland
Tajikistan
Togo
Tunisia
Turkey
Ukraine
United Arab Emirates
Uruguay
Uzbekistan
Vanuatu

Danh sách đồng hồ cấp 2

Bhutan bhutan brunei burkina faso burundi Campucia Cameroon Chad Congo, Cộng hòa Dân chủ Curaçao Djibouti Traita Guinea ethiopia Gambia, Guinea HaitiSri Lanka Tanzania Thái Lan Timor-Leste Tonga Trinidad và Tobago Uganda Việt Nam Zambabwe
Azerbaijan
Barbados
Belarus
Belize
Bhutan
Brunei
Burkina Faso
Burundi
Cambodia
Cameroon
Chad
Congo, Democratic Republic of the
Curaçao
Djibouti
Equatorial Guinea
Ethiopia
Gambia, The
Guinea
Haiti
Hong Kong
Ireland
Lesotho
Liberia
Macau
Mali
Marshall Islands
Mauritania
Pakistan
Palau
Papua New Guinea
Romania
Senegal
Sint Maarten
South Africa
Sri Lanka
Tanzania
Thailand
Timor-Leste
Tonga
Trinidad and Tobago
Uganda
Vietnam
Zambia
Zimbabwe

Cấp 3

Afghanistan Algeria Burma Trung Quốc Comoros Cuba Eritrea Guinea-Bissau Iran Hàn Quốc, Bắc Malaysia Nicaragua Nga Nam Sudan Syria Turkmenistan Venezuela
Algeria
Burma
China
Comoros
Cuba
Eritrea
Guinea-Bissau
Iran
Korea, North
Malaysia
Nicaragua
Russia
South Sudan
Syria
Turkmenistan
Venezuela

Trương hợp đặc biệt

Libya Somalia Yemen
Somalia
Yemen

Bản đồ khu vực

Châu phi

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 811 (49)317 (33)9,523 (1.308)4
2015 1.517 (53)719 (8)12.125 (3,531)6
2016 1.293 (54)1.120 (21)18.296 & nbsp; (13.205)4
2017 1.325 (98)515 (34)26,517 (5,902)2
2018 1.253 (37)1.190 (29)24.407 (3.749)2
2019 955 (71)2.122 (32)42,517 (1.284)2
2020 1.493 (251)382 (107)28,538 (6,947)8

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.


Đông Á & Thái Bình Dương

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 811 (49)317 (33)9,523 (1.308)3
2015 1.517 (53)719 (8)12.125 (3,531)10
2016 1.293 (54)1.120 (21)18.296 & nbsp; (13.205)7
2017 1.325 (98)515 (34)26,517 (5,902)0
2018 1.253 (37)1.190 (29)24.407 (3.749)1
2019 955 (71)2.122 (32)42,517 (1.284)2
2020 1.493 (251)382 (107)28,538 (6,947)1

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.


Đông Á & Thái Bình Dương

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 811 (49)317 (33)9,523 (1.308)5
2015 1.517 (53)719 (8)12.125 (3,531)8
2016 1.293 (54)1.120 (21)18.296 & nbsp; (13.205)3
2017 1.325 (98)515 (34)26,517 (5,902)0
2018 1.253 (37)1.190 (29)24.407 (3.749)1
2019 955 (71)2.122 (32)42,517 (1.284)2
2020 1.493 (251)382 (107)28,538 (6,947)2

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.

Đông Á & Thái Bình Dương


1.938 (88)

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 969 (16)6.349 (1.084)3,414 (193)0
2015 1.730 (130)13,990 (3,533)2.137 (51)0
2016 1.953 (31)9,989 (310)2.949 (77)4
2017 3,227 (72)4.915 (669)2.351 (63)0
2018 1.275 (16)5,466 (291)3.276 (86)0
2019 3.662 (20)14.132 (7.687)1.838 (70)0
2020 1,502 (12)2.884 (691)Châu Âu0

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.


Đông Á & Thái Bình Dương

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 1.938 (88)969 (16)6.349 (1.084)3
2015 3,414 (193)1.730 (130)13,990 (3,533)0
2016 2.137 (51)1.953 (31)9,989 (310)5
2017 2.949 (77)3,227 (72)4.915 (669)2
2018 2.351 (63)1.275 (16)5,466 (291)1
2019 3.276 (86)3.662 (20)14.132 (7.687)1
2020 1.838 (70)1,502 (12)2.884 (691)3

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.


Đông Á & Thái Bình Dương

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

NĂMTruy tốNiềm tinNạn nhân được xác địnhLuật mới hoặc sửa đổi
2014 944 (67)470 (63)8.414 (2.014)5
2015 1.796 (83)663 (26)9,661 (2.118)6
2016 1.513 (69)946 (24)8.821 (109)2
2017 1.571 (139)969 (114)10.011 (2.139)1
2018 1.252 (72)1.017 (177)11.683 (2.370)0
2019 1.324 (101)843 (34)12.352 (273)0
2020 910 (55)588 (27)11.100 (626)2

Các số liệu thống kê trên là các ước tính được lấy từ dữ liệu được cung cấp bởi chính phủ nước ngoài và các nguồn khác và được Bộ Ngoại giao xem xét.Dữ liệu tổng hợp dao động từ năm này sang năm khác do tính chất ẩn giấu của tội phạm buôn bán, các sự kiện toàn cầu năng động, thay đổi các nỗ lực của chính phủ và thiếu tính đồng nhất trong các cấu trúc báo cáo quốc gia.Những con số trong ngoặc đơn là những vụ truy tố, kết án và nạn nhân bị nạn buôn người được xác định.

Cách đọc một câu chuyện quốc gia

Trang này cho thấy một tường thuật của quốc gia mẫu.Sự biện minh xếp hạng cấp xuất hiện trong đoạn đầu tiên của mỗi câu chuyện kể của quốc gia và bao gồm ngôn ngữ làm nổi bật rõ ràng các yếu tố hỗ trợ xếp hạng cấp nhất định.Các bộ phận truy tố, bảo vệ và phòng ngừa của mỗi câu chuyện kể của mỗi quốc gia mô tả cách một chính phủ đã hoặc chưa giải quyết các tiêu chuẩn tối thiểu TVPA có liên quan (xem trang 56-58), trong giai đoạn báo cáo.Tường thuật cắt ngắn này đưa ra một vài ví dụ.[Xem phiên bản PDF.]

10 thành phố buôn người hàng đầu 2022 năm 2022

Công ước quốc tế có liên quan

Biểu đồ dưới đây cho thấy việc phê chuẩn, gia nhập (a) hoặc chấp nhận (a) của các công ước quốc tế có liên quan cho những quốc gia đã được phê chuẩn, tích lũy hoặc chấp nhận bất kỳ công ước nào như vậy trong tháng 4 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Một danh sách đầy đủ bao gồm tất cảCác quốc gia được bảo vệ bởi Báo cáo buôn bán người 2021 có sẵn tại: https://www.state.gov/i quốc tế-Convented-Relevant-to-combating-giao dịch-in-person/.

[Thanh cuộn có sẵn ở dưới cùng của bảng.Xem phiên bản PDF.]

Quốc gia Giao thức Liên Hợp Quốc để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người (2000) Giao thức tùy chọn cho Công ước về quyền của trẻ về việc bán trẻ em, mại dâm trẻ em và nội dung khiêu dâm trẻ em (2000) Giao thức tùy chọn cho Công ước về quyền của trẻ về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang (2000) Công ước ILO 29 Lao động cưỡng bức (1930) Giao thức ILO năm 2014 cho Công ước Lao động cưỡng bức Công ước ILO 105, bãi bỏ lao động cưỡng bức (1957) Công ước ILO 182, Loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, (1999) Hội nghị ILO 189, Công nhân trong nước (2011)
Chile2004 2003 2003 1933 2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 2021)1999 2000 2015
Comoros2020 (23 tháng 6)2007 -1978 -1978 2004 -
Costa Rica2003 2002 2003 1960 2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 2021)1959 2001 2014
Comoros2003 2003 2003 1992 2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 2021)1999 2004 -
Costa Rica2003 2002 2002 1934 -1959 2000 Costa Rica
Kyrgyzstan2002 2002 2002 2000 2017 2000 2000 Mexico
2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 3 tháng 7 năm 2021)Namibia2006 2007 2002 -2007 2002 -
Costa Rica2004 2003 2003 1956 Kyrgyzstan1959 2000 2015
Mexico2014 2004 2005 1957 2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 3 tháng 7 năm 2021)1970 2003 -
Costa Rica------Costa Rica-
Costa Rica2012 2001 2001 2007 -Costa Rica2000 -

Costa Rica

Kyrgyzstan

[Thanh cuộn có sẵn ở dưới cùng của bảng.Xem phiên bản PDF.]

Quốc gia Giao thức Liên Hợp Quốc để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người (2000) Giao thức tùy chọn cho Công ước về quyền của trẻ về việc bán trẻ em, mại dâm trẻ em và nội dung khiêu dâm trẻ em (2000)
Giao thức tùy chọn cho Công ước về quyền của trẻ về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang (2000)Công ước ILO 29 Lao động cưỡng bức (1930)3,795 15,621
Giao thức ILO năm 2014 cho Công ước Lao động cưỡng bức13 16 3
Công ước ILO 105, bãi bỏ lao động cưỡng bức (1957)Công ước ILO 182, Loại bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất, (1999)Hội nghị ILO 189, Công nhân trong nước (2011)Chile

2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 16 tháng 11 năm 2021)

Comoros2020 (23 tháng 6)-Costa Rica
KyrgyzstanMexico2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 3 tháng 7 năm 2021)Namibia

2020 (sẽ có hiệu lực vào ngày 9 tháng 12 năm 2021)

Số lượng cáo buộc vào năm 202065 cáo buộc đã được đưa ra chống lại quân đội, cảnh sát và nhân viên dân sự.Phần lớn các cáo buộc là ở Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan.

13 trong số các cáo buộc ảnh hưởng đến trẻ em.

Không có cáo buộc báo cáoKhông có báo cáo cáo buộc.NATO dựa vào các quốc gia đóng góp để báo cáo các cáo buộc sớm nhất là quý 3 năm 2021
Các sáng kiến mớiTổng thư ký có các cơ chế được thể chế hóa để tiếp tục tham gia và gắn kết trên toàn bộ hệ thống Liên Hợp Quốc, và ưu tiên trách nhiệm lãnh đạo liên quan đến khai thác và lạm dụng tình dục thông qua các kế hoạch hành động bắt buộc và chứng nhận cá nhân.

Để duy trì động lực và sự phối hợp trong việc thực hiện, Tổng thư ký đã mở rộng nhiệm vụ của điều phối viên đặc biệt về việc cải thiện phản ứng của Liên Hợp Quốc đối với việc khai thác và lạm dụng tình dục cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2021.

Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) và Chương trình ẩm thực thế giới (WFP) đã tiến hành tham vấn với nhân viên tại các trạm làm nhiệm vụ có nguy cơ cao về việc phòng ngừa khai thác và lạm dụng tình dục trong Covid-19.

Việc tích hợp một cách tiếp cận tập trung vào nạn nhân vào các nỗ lực toàn hệ thống về khai thác và lạm dụng tình dục, bao gồm rủi ro cho những người thụ hưởng và những người khác liên quan đến đại dịch CoVID-19, đã được củng cố vào năm 2020.

OSCE cung cấp các hội thảo và đào tạo cho các quốc gia tham gia để ngăn chặn buôn bán trong các chuỗi cung ứng của tổ chức, và xác định và bảo vệ nạn nhân buôn người.

Trong nội bộ, Văn phòng Đại diện đặc biệt và điều phối viên để chống buôn bán con người (OSR/CTHB) đã giúp phát triển và áp dụng các điều khoản hợp đồng và đấu thầu để mua sắm OSCE;đã tiến hành đánh giá thí điểm về rủi ro Tip trong việc mua sắm hoạt động thực địa OSCE ở Serbia, kết quả được công bố trong một báo cáo phân tích;đã phát triển hướng dẫn mua sắm OSCE để ngăn chặn tiền boa, và phát triển đào tạo cho nhân viên mua sắm và chương trình OSCE và triển khai triển khai.

Dẫn đầu bằng ví dụ, sự hợp tác của OSR/CTHB, với đơn vị mua sắm và hợp đồng của Ban thư ký đã cung cấp cho việc phát triển các biện pháp và năng lực nội bộ để ngăn chặn tiền boa trong việc mua sắm OSCE.Như được giao nhiệm vụ của MC quyết định 6/17, OSR/CTHB đã đóng góp vào việc phát triển hướng dẫn mua sắm OSCE trong việc chống buôn bán người và khai thác lao động trong chuỗi cung ứng cũng như hội thảo mua sắm và ký kết hợp đồng OSCE và đào tạo thí điểm.Nó cũng tổ chức một hội thảo về quản lý và giảm thiểu rủi ro tiền đề trong việc mua sắm cho ODIHR.

Theo quyết định của MC 6/17, vào năm 2020 OSR/CTHB, hợp tác với các tiêu điểm chống buôn người và DHR, đã hoàn thiện việc phát triển một mô-đun học tập trên đầu để chống lại các cấu trúc điều hành OSCE như một phần của tất cảChương trình trên tàu.Năm 2021, việc tung ra mô -đun trong các hoạt động hiện trường đã bắt đầu.

Cuối cùng, là đồng chủ tịch của Lực lượng đặc nhiệm do Ủy ban cấp cao về quản lý cấp cao của Liên Hợp Quốc bắt buộc phải phát triển một cách tiếp cận chung để chống lại tiền boThiếu tá iOS.

Kế hoạch hành động khai thác và lạm dụng tình dục của NATO sẽ được thông qua vào tháng 10 năm 2020.

Chính sách buôn người của NATO (2004) sẽ được cập nhật vào năm 2021.

Liên kết để biết thêm thông tinhttps://conduct.unmissions.org/ http://www.osce.org/what/traffickickinghttp://www.nato.int/cps/en/natolive/topics_50315.htm 

Các tổ chức quốc tế, khu vực và tiểu vùng chống buôn người

[Thanh cuộn có sẵn ở dưới cùng của bảng.Xem phiên bản PDF.]

Các tổ chức và các liên kết quan tâm được chọn Tài liệu khung liên quan đến mẹo Tiêu điểm đầu
Liên Hợp Quốc (UN)

www.un.org

Văn phòng Liên Hợp Quốc về ma túy và tội phạm (UNODC) - buôn bán người

https://www.unodc.org/unodc/en/human-trafficking/index.html

Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền

www.ohchr.org

Diễn đàn chính trị cấp cao về SDGS

https://sustainabledevelopment.un.org/hlpf

Nhóm điều phối liên cơ quan chống lại nạn buôn người (ICAT)

www.icat.un.org

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)

www.ilo.org

Công ước và Giao thức Liên Hợp Quốc:

Nghị định thư để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước Liên Hợp Quốc chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (A/RES/55/25) (2000)

Kế hoạch hành động toàn cầu của Liên Hợp Quốc để chống buôn bán người (A/RES/64/293) (2010)

Tuyên bố chính trị về việc thực hiện Kế hoạch hành động toàn cầu để chống buôn bán người (2017) (A/RES/72/1)

Nghị quyết UNSC:

Các nghị quyết của UNSC về buôn bán người trong các tình huống xung đột 2331 (2016), 2388 (2017) và 2493 (2019 S/RES/2493)

Báo cáo toàn cầu của UNODC về buôn bán người (2020)

Hướng dẫn lập pháp để thực hiện giao thức để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2020)

Mô hình các điều khoản lập pháp chống lại nạn buôn người (2020)

Nạn nhân của nạn buôn người vì khai thác tình dục với tư cách là bị cáo (2021)

Bộ công cụ UNODC để lồng ghép nhân quyền và bình đẳng giới vào can thiệp tư pháp hình sự để giải quyết buôn bán người và buôn lậu người di cư (2021)

Mục tiêu mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc mục tiêu 5.2, 8.7 và 16.2 (SDG)

Công ước ILO:

http://www.ilo.org/sapfl/Informationresources/ILOPublications/Byregion/Global/lang–en/index.htm

http://www.ilo.org/dyn/normlex/en/f?p=NORMLEXPUB:1:0

-C29 Công ước Lao động cưỡng bức (1930)

-P029 Giao thức năm 2014 và Khuyến nghị R203, bổ sung Công ước Lao động cưỡng bức (1930)

-C105 bãi bỏ Công ước Lao động cưỡng bức (1957)

-C182 Các hình thức tồi tệ nhất của Công ước Lao động Trẻ em (1999)

-C189 Hội nghị công nhân trong nước và khuyến nghị R201 (2011)

Gói đào tạo ILO về kiểm tra điều kiện lao động trên tàu đánh cá (2020)

Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em

Liên hợp lệ đặc biệt của Liên Hợp Quốc về các hình thức nô lệ đương đại

Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc về việc bán trẻ em, mại dâm trẻ em và nội dung khiêu dâm trẻ em

Liên minh châu Phi (AU)

www.africa-union.org/

Kế hoạch hành động Ouagadougou để chống buôn người ở con người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2006)

Sáng kiến Ủy ban AU chống lại chiến dịch buôn bán (AU.Commit)

Ngày 1 tháng 10 năm 2020, Sự kiện ảo, Cuộc họp kỹ thuật ảo lần thứ 2 về thu thập dữ liệu về di cư bất thường và rủi ro bảo vệ liên quan đối với việc sản xuất một báo cáo thống kê về buôn bán người và buôn lậu người di cư ở Sừng châu Phi và khu vực xung quanh

Ngày 23-24 tháng 1 năm 2020, Bishoftu, Ethiopia, Hội thảo các bên liên quan quốc gia về Sáng kiến lồng ghép của Châu Phi để chống lại nạn buôn người và buôn lậu người di cư

N/a
Quá trình Khartoum

(Sáng kiến tuyến di cư EU/Horn of Africa)

Khartoum quy trình tờ thông tin

Khartoum Tuyên bố về Sáng kiến Au-Horn của Châu Phi về buôn bán người và buôn lậu người di cư (2014)

Kế hoạch hành động Hội nghị thượng đỉnh Valletta (2015)

Tuyên bố chính trị của Hội nghị thượng đỉnh Valletta (2015)

Kế hoạch hành động của EU-Africa về di cư và di động (2014-2017)

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)

www.asean.org

Tuyên bố ASEAN chống lại nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2004)

Công ước ASEAN chống lại nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2015)

Kế hoạch hành động ASEAN chống lại nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2015)

Các quan chức cấp cao của ASEAN về tội phạm xuyên quốc gia
Hội nghị bộ trưởng khu vực Bali về những người buôn lậu, buôn bán người và tội phạm xuyên quốc gia liên quan (Quy trình Bali)

www.baliprocess.net

Tuyên bố của CO Chủ tịch của lần thứ nhất (2002), thứ hai (2003), thứ ba (2009), thứ tư (2011), lần thứ năm (2013), thứ sáu (2016) và thứ bảy (2018)Về những người buôn lậu, buôn bán người và Hướng dẫn chính sách & Sổ tay tội phạm xuyên quốc gia (2018):

Hướng dẫn quy trình Bali để chia sẻ thông tin để giải quyết những người buôn lậu, buôn bán người và tội phạm xuyên quốc gia có liên quan

Cẩm nang quy trình Bali về việc giải quyết việc di chuyển bất thường thông qua các chiến dịch thông tin hiệu quả

Hướng dẫn chính sách của quá trình Bali về hình sự hóa buôn lậu và buôn bán người di cư

Hướng dẫn chính sách của Bali về nhận dạng và bảo vệ nạn nhân của nạn buôn người

Hướng dẫn chính sách của Bali về việc tuân theo tiền trong việc buôn bán các trường hợp của người

Hướng dẫn chính sách của Bali về lợi nhuận và tái hòa nhập

Bảo vệ người di cư trên biển: Hướng dẫn thực tế để hoàn thành nghĩa vụ quốc tế

Tham nhũng với tư cách là người hỗ trợ buôn lậu người di cư và buôn bán người (2021)

Nhóm làm việc của Bali về buôn bán người
Khối thịnh vượng chung của các quốc gia độc lập (CIS)

www.cis.minsk.by/ (chỉ bằng tiếng Nga)

Thỏa thuận về sự hợp tác của các quốc gia thành viên CIS trong việc chống buôn người ở người, nội tạng và mô (2005)

Chương trình hợp tác giữa các quốc gia thành viên CIS chống buôn người trong năm 2014 20142018

N/a
Quá trình Khartoum

http://un-act.org/

(Sáng kiến tuyến di cư EU/Horn of Africa)

Cam kết Kế hoạch hành động tiểu khu vực thứ 4 (Cam kết SPA IV 2015-2018) Cơ chế nhận dạng và giới thiệu nạn nhân

Hỗ trợ tái hòa nhập những người bị buôn bán: Một cuốn sách hướng dẫn cho tiểu vùng Mê Kông lớn hơn:

Hành động hợp tác của Liên Hợp Quốc chống lại nạn buôn người

Lực lượng đặc nhiệm cam kết khu vực (TF)

Hội đồng các quốc gia biển Baltic (CBSS)

https://cbss.org/our-work/safe-secure-region/anti-trafficking/

Tầm nhìn cho Vùng Biển Baltic vào năm 2020, Hội nghị thượng đỉnh CBSS 2010

Lực lượng đặc nhiệm chống buôn người trong Kế hoạch chiến lược của con người 2020-2025

Buôn bán người năm 2020-Báo cáo tròn trịa Biển Baltic

Hướng dẫn cho các nhà báo báo cáo về các trường hợp buôn bán người: Truyền thông và buôn bán con người (2019)

Lực lượng đặc nhiệm chống buôn bán con người (TF-thb)

Nhóm chuyên gia về trẻ em có nguy cơ

Lực lượng đặc nhiệm chống lại nạn buôn người

Hội đồng Châu Âu (CoE)

www.coe.int

http://www.coe.int/t/dghl/monitoring/trafficking/

https://hudoc.greta.coe.int/eng

Công ước Coe về hành động chống buôn bán con người (2005)

Báo cáo: https://www.coe.int/en/web/anti-human-chafficking/general-reports

Giúp khóa đào tạo trực tuyến:

Báo cáo chung thứ 9 về các hoạt động của Greta (2019)

https://www.coe.int/en/web/anti-human-trafficking/general-reports

Cơ sở dữ liệu Hudoc-Greta

Hướng dẫn lưu ý về quyền của nạn nhân buôn người và những người có nguy cơ bị buôn bán, bảo vệ quốc tế

Các cuộc họp Greta

Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi (ECOWAS)

www.ecowas.int

Cộng đồng kinh tế của các quốc gia Trung Phi (ECCAS)

wwww.ceeac-eccas.org/

Kế hoạch hành động ban đầu của ECOWAS chống lại nạn buôn người

Tuyên bố ECOWAS về cuộc chiến chống buôn người (2001)

Kế hoạch hành động khu vực ECOWAS/ECCAS để chống buôn người ở người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2006-2008)

Đơn vị chống buôn người
EU

http://ec.europa.eu/anti-trafficking/index.action

Chỉ thị 2011/3 36/EU về việc chống lại và ngăn chặn buôn bán người và bảo vệ các nạn nhân của họ là hành động chống buôn người EU 2017-2019

Báo cáo thứ ba về tiến bộ đạt được trong cuộc chiến chống buôn bán con người (2020) theo yêu cầu theo Điều 20 của Chỉ thị 2011/3 36/EU về việc ngăn chặn và chống buôn người ở người và bảo vệ nạn nhân của nó

Điều phối viên chống buôn người châu Âu
Lực lượng đặc nhiệm hành động tài chính (FATF)

http://www.fatf-gafi.org/

Báo cáo FATF Dòng chảy tài chính từ nạn buôn người (2018)

https://www.fatf-gafi.org/media/fatf/content/images/Human-Trafficking-2018.pdf

Liên minh các quốc gia Ả Rập (LAS)

http://arableague-us.org/wp/

Đạo luật Khung Ả Rập về chống buôn người (2008)

Sáng kiến Ả Rập để chống buôn bán người, 2010

Chiến lược Ả Rập toàn diện để chống lại

Buôn bán con người (Cascthb), Hội đồng Bộ trưởng Bộ Tư pháp Ả Rập Nghị quyết 15/2/2012

N/a
Tổ chức các quốc gia Mỹ (OAS)

http://www.oas.org/dsp/english/cpo_trata_dia_mundial.asp

Kế hoạch làm việc để chống buôn bán người ở Tây bán cầu 2010-2012 (Ag/Res. 2551 (XL-O/10)

Kế hoạch làm việc thứ hai chống lại nạn buôn người ở Tây Hemi-Sphere 2015-2018 (mở rộng đến năm 2020)

Những nỗ lực bán cầu chống lại nạn buôn người trong Tuyên bố Mexico Mexico (2018)

Tiến bộ bảo mật bán cầu: Cách tiếp cận đa chiều (Ag/Res. 2950 (L-O/20)

Báo cáo tiến độ: II Kế hoạch làm việc chống buôn bán người ở Tây bán cầu 2015-2018

Khuyến nghị về cuộc họp thứ sáu của chính quyền quốc gia về buôn bán người trong những người Hồi giáo trong cuộc chiến chống buôn bán trong thời đại đại dịch (2021)

Bộ An ninh Công cộng và Bộ chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) Hướng dẫn chuyên sâu của OECD cho các chuỗi cung ứng có trách nhiệm trong lĩnh vực may mặc và giày dép (2017)

Hướng dẫn chuyên sâu của OECD cho các chuỗi cung ứng có trách nhiệm của các khoáng sản từ các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột và có nguy cơ cao (2016)

Buôn bán người và báo cáo tham nhũng (2016)

Lực lượng đặc nhiệm OECD về chống lại thương mại bất hợp pháp
Tổ chức An ninh và Hợp tác ở Châu Âu (OSCE)

http://www.osce.org/secretariat/trafficking

Liên minh OSCE chống buôn bán người:

http://www.osce.org/secretariat/107221

Kế hoạch hành động OSCE để chống buôn người ở con người (2003)

Quyết định số 1107 Phụ lục của Kế hoạch hành động OSCE để chống buôn người ở con người, Quyết định số 1107, ngày 6 tháng 12 (2013)

Cẩm nang - Làm thế nào để ngăn chặn nạn buôn người cho dịch vụ trong nước trong các hộ gia đình ngoại giao và bảo vệ công nhân gia đình tư nhân (2014):

Hướng dẫn thống nhất cho việc xác định và giới thiệu nạn nhân của nạn buôn người trong khuôn khổ tiếp nhận người di cư và tị nạn ở khu vực OSCE

Hướng dẫn mô hình về các biện pháp của chính phủ nhằm ngăn chặn buôn bán khai thác lao động trong chuỗi cung ứng (2018)

Vai trò quan trọng của xã hội dân sự trong việc chống buôn người ở con người (2018)

Từ tiếp nhận đến nhận dạng: Xác định và bảo vệ nạn nhân buôn người trong dòng di cư hỗn hợp (2018)

Buôn bán trẻ em và bảo vệ trẻ em: Đảm bảo rằng các cơ chế bảo vệ trẻ em bảo vệ các quyền và đáp ứng nhu cầu của nạn nhân trẻ em của nạn buôn người (2018)

Báo cáo năm 2020 của Đại diện và Điều phối viên đặc biệt để chống buôn người ở người

Cơ sở dữ liệu OSCE Compendium, một cách dễ dàng để truy cập thông tin về việc ngăn chặn việc khai thác lao động trong chuỗi cung ứng, hiện có thể truy cập trực tuyến (2021)

OSCE: Những người sống sót quốc tế của Hội đồng tư vấn buôn bán (2021)

Đại diện đặc biệt và điều phối viên cho nạn buôn người
Hội nghị khu vực về di cư (RCM) (Nhóm Puebla)

www.rcmvs.org

Hội nghị khu vực về Kế hoạch hành động di cư (được cập nhật năm 2009)Mạng lưới sĩ quan liên lạc để chống buôn lậu và buôn bán người di cư
Cộng đồng phát triển Nam Phi (SADC)

www.sadc.int/

Kế hoạch chiến lược của SADC về việc chống buôn người ở người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (2009-2019)

Buôn bán những người ở khu vực SADC: Báo cáo cơ bản (2016)

Buôn bán những người ở khu vực SADC: Tóm tắt chính sách (2016)

Ngăn chặn và chống buôn bán người: Bài học từ Tập sách SADC Vùng (2017)

N/a

Báo cáo thường niên về việc sử dụng binh lính trẻ em

Các phần 405 (c) và (d) của Đạo luật phòng chống lính trẻ em (CSPA) năm 2008 (22 U.S.C. 2370C-2 (c) và (d))

Báo cáo này được đệ trình theo Mục 405 (c) và (d) của Đạo luật phòng chống lính trẻ em năm 2008 (22 U.S.C. 2370C-2 (c) và (d)) (CSPA).Phần 1 liệt kê các quốc gia được xác định là vi phạm các tiêu chuẩn theo CSPA vào năm 2020. Phần 2 cung cấp một mô tả và số lượng hỗ trợ được giữ lại theo Mục 404 (a) của CSPA.Phần 3 cung cấp một danh sách các miễn trừ hoặc ngoại lệ được thực hiện theo CSPA.Phần 4 chứa các biện minh cho các miễn trừ như vậy.Phần 5 cung cấp một mô tả và số lượng hỗ trợ được cung cấp cho các quốc gia theo các miễn trừ đó.

Mục 1. Các quốc gia vi phạm các tiêu chuẩn theo CSPA vào năm 2020.

Bộ trưởng Ngoại giao đã xác định các quốc gia sau đây có lực lượng vũ trang chính phủ, cảnh sát hoặc lực lượng an ninh khác hoặc các nhóm vũ trang được chính phủ hỗ trợ tuyển dụng hoặc sử dụng các binh sĩ trẻ em theo nghĩa của phần 404 (a) của CSPA trong giai đoạn báo cáo của tháng 41, 2019 - 31 tháng 3 năm 2020: Afghanistan, Miến Điện, Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC), Iran, Iraq, Libya, Mali, Nigeria, Somalia, Nam Sudan, Sudan, Syria và Yemen.

Mục 2. Mô tả và số tiền hỗ trợ đã giữ lại theo Mục 404 (a).

Nhà nước đã giữ lại 850.000 đô la trong các quỹ giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế (IMET) năm 2021 cho Mali theo Mục 404 (a) và các hạn chế áp dụng khác.

Mục 3. Danh sách các miễn trừ hoặc ngoại lệ được thực hiện theo mục 404 (a).

Vào ngày 14 tháng 10 năm 2020, Tổng thống xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Afghanistan, Cameroon, Iraq, Libya và Nigeria;và từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với DRC để cho phép cung cấp các hoạt động gìn giữ hòa bình và hòa bình (PKO), trong phạm vi CSPA sẽ hạn chế hỗ trợ hoặc hỗ trợ đó;Để từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Somalia để cho phép cung cấp hỗ trợ IMET và PKO và hỗ trợ DOD được cung cấp theo 10 U.S.C.333, đến mức CSPA sẽ hạn chế sự hỗ trợ hoặc hỗ trợ đó;Để từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Nam Sudan để cho phép cung cấp hỗ trợ PKO, trong phạm vi CSPA sẽ hạn chế hỗ trợ hoặc hỗ trợ đó;và, để từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Yemen để cho phép cung cấp hỗ trợ PKO và IMET và hỗ trợ DOD được cung cấp theo 10 U.S.C.333, đến mức CSPA sẽ hạn chế sự hỗ trợ hoặc hỗ trợ đó.Tổng thống đã chứng nhận thêm rằng chính phủ của các quốc gia trên đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của binh lính trẻ em.

Mục 4. Biện minh cho miễn trừ và ngoại lệ.

Theo Mục 404 của Đạo luật phòng chống lính trẻ em năm 2008 (CSPA) (22 U.S.C. 2370C-1), Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA liên quan đến Afghanistan, Cameroon, Iraq, Libya và Nigeria;và để từ bỏ, một phần, việc áp dụng sự cấm đoán đối với Cộng hòa Dân chủ Congo, Somalia, Nam Sudan và Yemen.Tổng thống đã chứng nhận thêm rằng chính phủ của các quốc gia trên đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của binh lính trẻ em.Việc biện minh cho quyết định và chứng nhận này đối với mỗi quốc gia được nêu trong bản ghi nhớ này.

Afghanistan

Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với chính phủ Afghanistan (Goa) và đã chứng nhận rằng Goa đang có hiệu quả vàTiếp tục các bước để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.

Hỗ trợ an ninh cho Afghanistan tuân theo hạn chế CSPA đáp ứng các mục tiêu chống khủng bố quan trọng của Hoa Kỳ và thúc đẩy các điều kiện cho phép chấm dứt cuộc xung đột ở Afghanistan.Ví dụ, Chương trình Giáo dục và Đào tạo Quân sự Quốc tế (IMET) tài trợ cho giáo dục và đào tạo quân sự chuyên nghiệp cho Lực lượng An ninh Quốc phòng và Quốc phòng Afghanistan (ANDF) giúp cải thiện khả năng của họ, thúc đẩy sự tôn trọng nhân quyền, cải thiện quản lý tài nguyên quốc phòng, hợp tác quân sự dân sựvà giáo dục về bạo lực trên cơ sở giới và sức khỏe của phụ nữ, và tăng cường khả năng tương tác đối với các hoạt động chung của Hoa Kỳ-Afghanistan.

Sự hỗ trợ bền vững này cho ANDF thông qua IMET đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo tồn an ninh, chính trị và kinh tế của Afghanistan, bao gồm bằng cách nâng cao nhận thức và tôn trọng quyền con người trên AndSF.Tiếp tục tăng cường năng lực và chuyên nghiệp hóa quân sự Afghanistan thông qua giáo dục quân sự và đào tạo lực lượng an ninh Afghanistan sẽ góp phần vào môi trường thuận lợi hơn để đạt được một thỏa thuận chính trị và thực hiện kết quả của nó.

Goa đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.Vào năm 2019, Bộ Nội vụ Afghanistan đã mở rộng các đơn vị bảo vệ trẻ em (CPU) lên tất cả 34 tỉnh, tăng từ 27 CPU năm 2018, để ngăn chặn việc tuyển dụng trẻ em vào Cảnh sát Quốc gia Afghanistan.Theo các tổ chức quốc tế, CPU đã ngăn chặn việc tuyển dụng 439 trẻ em vào năm 2019. Bộ Nội vụ và Quốc phòng cũng ban hành các chỉ thị nhằm ngăn chặn việc tuyển dụng và lạm dụng tình dục trẻ em bởi ANDSF.

Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tham gia với các lực lượng an ninh Afghanistan để khuyến khích việc thực hiện các chính sách và khuôn khổ pháp lý, như Bộ Quốc phòng bảo vệ trẻ em trong chính sách xung đột vũ trang.

Cameroon

Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Cameroon và đã chứng nhận rằng chính phủ Cameroon đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đềVấn đề của những người lính trẻ em.

Các mục tiêu hỗ trợ quân sự hiện tại của chính phủ Hoa Kỳ với Cameroon là tăng: 1) chuyên nghiệp hóa quân sự, 2) khả năng an ninh hàng hải và 3) khả năng chống khủng bố.Hỗ trợ quân sự hạn chế của Hoa Kỳ cho Cameroon đóng vai trò trong khả năng hỗ trợ sự ổn định và an ninh trong khu vực, bao gồm cả Vịnh Guinea quan trọng về mặt chiến lược và để giải quyết mối đe dọa ở khu vực Hồ Chad từ Boko Haram và ISIS-West Africa.Hỗ trợ quân sự hiện tại cho Cameroon bao gồm tài trợ hoạt động của IMET và gìn giữ hòa bình (PKO).Tài trợ IMET cho Cameroon làm tăng chuyên nghiệp hóa quân đội thông qua đào tạo giáo dục quân sự chuyên nghiệp (PME) tại Hoa Kỳ.Cùng với việc đào tạo PME tổng thể, tài trợ IMET cho Cameroon cũng củng cố các mối quan hệ công lý quân sự và quân sự, giúp làm cho các lực lượng vũ trang của Cameroon trở nên minh bạch và chịu trách nhiệm hơn.Hỗ trợ chống khủng bố được tài trợ của PKO cho Cameroon giúp cải thiện khả năng của mình để chống lại Boko Haram và ISIS-West Africa, làm tăng sự ổn định và bảo vệ thường dân ở khu vực Lake Chad.Tài trợ PKO cũng có thể hỗ trợ các khả năng an ninh hàng hải của Cameroon, để chống lại vi phạm bản quyền, một mối đe dọa kinh tế khu vực đang phát triển.Việc từ bỏ này sẽ cho phép chính phủ Hoa Kỳ cung cấp hỗ trợ an ninh để làm cho quân đội Cameroon chuyên nghiệp hơn thông qua sự đánh giá cao về tầm quan trọng của quyền con người và luật pháp.Nó sẽ thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực thông qua an ninh hàng hải và xây dựng năng lực chống khủng bố hàng hải.

The Government of Cameroon is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers. In November 2018, President Biya announced the creation of a National Disarmament, Demobilization, and Reintegration (DDR) Committee. Although the DDR Committee is not specifically dedicated to removing child soldiers from the field of battle, its mission is to facilitate the disarmament and reintegration of ex-fighters of Boko Haram and ISIS-West Africa and armed separatist groups in the Southwest and Northwest Regions, irrespective of their ages. In 2018, the president created regional disarmament centers in Bamenda, Northwest Region, Buea in the Southwest Region, and Mora in the Far North Region. The DDR Committee works to equip former child soldiers with resources for income-generating activities and reintegrate them into their communities. During an early July 2019 evaluation meeting in Yaoundé, the Head of the DDR Committee, Francis Fai Yengo, stated that at least 56 armed separatist fighters in the Northwest and Southwest Regions were reported to have laid down their arms and joined DDR centers, while 109 Boko Haram fighters had laid down their weapons in the Far North Region and were being housed at the DDR center in Mora. The Government of Cameroon also acknowledges that recruitment and use of child soldiers by armed Anglophone separatists and Boko Haram is a problem.

Cameroon has laws and regulations that prohibit the recruitment and use of child soldiers and the government generally enforces these provisions. We are engaging with the government of Cameroon to encourage an investigation of the single case of Cameroon’s security forces using a child for the gathering of intelligence that resulted in their inclusion on the 2020 CSPA list and to prevent similar situations from occurring again.

The Democratic Republic of the Congo (DRC)

The President has determined it is in the national interest of the United States to waive in part the application of the prohibition in section 404(a) of the CSPA with respect to DRC to allow for the provision of IMET and PKO assistance and has certified that the Government of the DRC is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers.

The DRC plays a critical role in regional stability and security as malign influences continue to expand their influence in the region. President Felix Tshisekedi has demonstrated that he is a willing partner committed to addressing instability and conflict in DRC, but needs U.S. security assistance to succeed in defeating armed groups threatening local populations, including the ISIS-affiliated Allied Democratic Forces (ADF). Unlike during the years under former President Kabila, senior Congolese Armed Forces (FARDC) leadership now welcomes increased military cooperation with the United States. The country faces numerous longstanding challenges, including: inadequate infrastructure and human resources; the government’s inability to project authority across the sizable country; corruption; a limited capacity to raise and manage revenues; outbreaks of infectious disease; as well as the destabilizing activity of numerous armed groups. PKO and IMET funding for DRC would enable the United States to continue to work to increase professionalization of the military, allowing it to provide security within its territory without resorting to violations or abuses of human rights or violations of international humanitarian law (IHL). In addition, PKO and IMET funding has supported areas such as military justice, civil-military relations, human rights training, IHL training, English language training, military engineering, and resource management and logistics, which not only enhances security provision, but also helps make the FARDC a more transparent, accountable institution. President Tshisekedi has stated that he believes that improved security will enable health workers to counter COVID and other global health threats stem illicit mineral smuggling, other illicit trafficking of natural resources and transnational criminal organizations, catalyze regional economic integration, and provide a much-needed boost to DRC’s development.

A secure DRC is essential to attracting the foreign investment and business necessary to leverage the country’s estimated $24 trillion in mineral wealth and improve the welfare and livelihood of millions of Congolese people. Greater stability and self-reliance is one of our top strategic objectives in the DRC, such that our more than half a billion dollars in annual bilateral assistance can be wound down, and our focus turned more fully toward trade and investment. U.S. security assistance supports a more stable, democratically-governed nation through improving the capacity and governance of core national-level security institutions, creating an environment conducive to economic opportunities, responding to urgent humanitarian needs, and addressing the root causes of conflict. As the DRC’s principal partner in ending its devastating almost 2-year Ebola outbreak in the East and a major contributor to humanitarian assistance overall, the United States can leverage existing relationships to multiply and synergize the impact of PKO assistance. This waiver will allow the United States to provide security assistance that will support improving governance and the rule of law, promoting peace and security, combating corruption, advancing human rights, and creating conditions for greater U.S. investment and economic growth. It also offers an opportunity to improve civil-military relations and influence the next generation of FARDC leadership at a time when the government is undertaking initiatives to transform that historically strained relationship.

Chính phủ của DRC đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em và những nỗ lực này đã tăng tốc kể từ khi Tổng thống Tshisekedi nhậm chức vào tháng 1.Số vụ truy tố của cả các diễn viên nhóm nhà nước và vũ trang vì vi phạm và lạm dụng nhân quyền, bao gồm tuyển dụng bất hợp pháp và sử dụng trẻ em, ở mức cao nhất mọi thời đại, cũng như số lượng trẻ em khỏi các nhóm vũ trang.Trong năm thứ năm liên tiếp, không có trường hợp tuyển dụng hoặc sử dụng bất hợp pháp nào bởi FARDC.Các báo cáo về vi phạm nhân quyền do các lực lượng an ninh nhà nước thuộc xu hướng giảm.Chính phủ đã thành lập một ủy ban liên bộ chống buôn người chính thức, theo dõi các nơi trú ẩn, phối hợp với các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức quốc tế để xác định và bảo vệ nạn nhân và soạn thảo và đưa ra kế hoạch hành động chống buôn người quốc gia đầu tiên của chính phủ.Hợp tác với các tổ chức quốc tế, chính phủ cũng tiếp tục thực hiện các biện pháp để ngăn chặn và chấm dứt việc sử dụng các binh sĩ trẻ em, bao gồm tách các binh sĩ trẻ em khỏi các nhóm vũ trang phi nhà nước và tiến hành sàng lọc tuổi của các tân binh.Chính phủ đã kết án một cựu Đại tá trong FARDC và lãnh đạo của một nhóm vũ trang vì tội phạm tội phạm, trong số những người khác;kết án họ phạt tiền, bao gồm các điều khoản nhà tù quan trọng;và ra lệnh cho người lãnh đạo của một nhóm vũ trang và hai đồng phạm trả tiền bồi thường cho hơn 300 nạn nhân của sự nô lệ tình dục và các tội ác khác.Khi hệ thống tư pháp FARDC nhận được các báo cáo đáng tin cậy rằng các binh sĩ trong Trung đoàn 2105 đã bắt cóc các cô gái chưa đủ tuổi, họ đã nhanh chóng mở một cuộc điều tra và bắt giữ những kẻ lạm dụng nghi ngờ.Trong khi các hạn chế của Covid-19 đã làm chậm cuộc điều tra, hai người lính đã bị buộc tội và đang ở trong tù đang chờ xét xử, trong khi công tố viên địa phương đang theo đuổi các cáo buộc chống lại tám binh sĩ khác.

Iraq

Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Iraq và đã chứng nhận rằng chính phủ Iraq (GOI) đang có hiệu quả và tiếp tụcCác bước để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.

Chiến lược của Hoa Kỳ ở Iraq tập trung vào việc làm việc với GOI để đạt được một Iraq thống nhất, dân chủ, hòa bình và hòa nhập bằng cách: đánh bại thực thể khủng bố được gọi là Nhà nước Hồi giáo Iraq và Syria (ISIS);thúc đẩy quản trị và cải cách tốt;hỗ trợ tăng cường năng lực và chuyên nghiệp hóa của lực lượng an ninh Iraq, để đưa họ phù hợp hơn với các thực tiễn tốt nhất quốc tế;thúc đẩy quyền con người;và thúc đẩy sự bảo vệ của các cộng đồng đa dạng và thường bị thiệt thòi của Iraq, bất kể dân tộc, tôn giáo hay giới tính của họ.Việc từ bỏ này sẽ cho phép Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp hỗ trợ, hỗ trợ và đào tạo nhân quyền cần thiết để đạt được các mục tiêu này và giúp Iraq xây dựng năng lực của mình để thực hiện các hoạt động chống khủng bố hiệu quả, bền vững chống lại ISIS.

GOI đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.Luật pháp của Iraq yêu cầu tất cả các binh sĩ, bao gồm các tình nguyện viên trong các dân quân Lực lượng Huy động phổ biến (PMF), từ 18 tuổi trở lên, và Iraq là một bên tham gia giao thức tùy chọn về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang (OPAC).Số lượng sự cố tuyển dụng và sử dụng của người lính trẻ em tiếp tục giảm, theo dữ liệu từ một tổ chức quốc tế vào năm 2019. Vào tháng 12 năm 2019, Iraq đã đưa ra một đề xuất chuẩn bị một kế hoạch toàn diện để giảm các hoạt động tuyển dụng trẻ em bất hợp pháp trong các cuộc xung đột vũ trang và khủng bố cho mộtỦy ban nội bộ do Bộ Lao động và Xã hội đứng đầu.Đề xuất này đã được Ủy ban phê duyệt với tài trợ.Theo một tổ chức quốc tế, vào tháng 12 năm 2019, GOI đã xuất viện 40 cậu bé đã được tuyển dụng bởi lực lượng huy động bộ lạc (TMF) và cung cấp cho họ chương trình phục hồi và tích hợp trong phối hợp với tổ chức quốc tế.Một cơ quan của Liên Hợp Quốc cũng báo cáo rằng GOI cung cấp đào tạo cho lực lượng an ninh chống lại việc lính trẻ em trong thời gian báo cáo.Ngoài ra, GOI đã đạt được tiến bộ tập trung các hệ thống thanh toán, bao gồm cả PMF, giúp ngăn chặn mức lương của chính phủ được trả cho trẻ em.

Là một phần của nỗ lực này, chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục làm việc để khuyến khích GOI theo dõi tiến trình và thực hiện các hành động bổ sung để ngăn chặn việc tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em bất hợp phápvới PMF.Chính phủ Hoa Kỳ kêu gọi GOI tiếp tục những nỗ lực đang diễn ra để khẳng định chỉ huy và kiểm soát tất cả các yếu tố của PMF.

Libya

Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Chính phủ Hiệp định Quốc gia (GNA) tại Libya và đã chứng nhận GNA đang thực hiệnCác bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.

Bộ Ngoại giao đánh giá rằng sự bất an xã hội và kinh tế to lớn gây ra bởi xung đột hiện tại là động lực chính cho việc tuyển dụng bất hợp pháp và sử dụng các binh sĩ trẻ em ở Libya.Ngoài các đơn vị liên kết với GNA, những người khác, bao gồm cả Quân đội Quốc gia Libya tự phong, đã tham gia vào việc tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em.Bộ Ngoại giao đánh giá thêm rằng giải pháp bền bỉ nhất cho việc tuyển dụng và sử dụng bất hợp pháp của các binh sĩ trẻ em sẽ là một thỏa thuận chính trị được đàm phán kết thúc cuộc xung đột hiện tại của Libya.Là chính phủ không công nhận của Libya, GNA và các nhà lãnh đạo quân sự của nó là những người đối thoại quan trọng trong các cuộc thảo luận này.Việc rút các hỗ trợ của ngành an ninh ở giai đoạn đàm phán quan trọng có thể làm suy yếu khả năng của chính phủ Hoa Kỳ để đạt được sự chấm dứt chiến sự lâu dài ở Libya.Trong trường hợp không có một khu định cư chính trị, cuộc chiến ở Libya sẽ tiếp tục gây bất ổn cho khu vực rộng lớn hơn, tạo ra không gian cho những kẻ cực đoan bạo lực để tập hợp lại.

Hoa Kỳ cung cấp hỗ trợ mục tiêu để tăng cường các tổ chức chính của Libya và xây dựng năng lực an ninh, thúc đẩy hòa giải chính trị và tăng khả năng Libya Libya để tự đứng vững thông qua quản trị hiệu quả hơn.

Hỗ trợ của ngành an ninh cho Libya, trong khi non trẻ, được sử dụng riêng để giải quyết các nguyên nhân cơ bản của cuộc xung đột Libya và định hình các tổ chức an ninh Libya Libya theo hướng tích cực.Lập trình PKO hiện tại của chúng tôi hỗ trợ lập kế hoạch và xây dựng năng lực cho an ninh bầu cử cũng như lập kế hoạch cho một cải cách của ngành an ninh cuối cùng (SSR) trong nước.Các sáng kiến này, cũng như bất kỳ chương trình nào trong lĩnh vực an ninh ngắn hạn, sẽ được sử dụng để hỗ trợ cải cách/giải giáp khu vực an ninh, xuất ngũ và tái hòa nhập (SSR/DDR) và quản trị cần thiết để chấm dứt xung đột và tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em.

Bộ Quốc phòng dự định sẽ tham gia lại và xây dựng năng lực của Lực lượng Vũ trang Libya dưới 10 U.S.C.333 ủng hộ lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ trong việc chống khủng bố, chống lại các tổ chức cực đoan bạo lực và buôn lậu bất hợp pháp.Hỗ trợ này sẽ được dự định để cung cấp xây dựng công suất được hiệu chỉnh cẩn thận cho các đơn vị không trực tiếp tham gia vào cuộc xung đột hiện tại.

GNA đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của các binh sĩ trẻ em, bao gồm bằng cách hợp tác chặt chẽ với chính phủ Hoa Kỳ trong bối cảnh đối thoại an ninh song phương định kỳ của chúng tôi để giải giáp và giải ngũ dân quân, tham gia vào việc tuyển dụng và sử dụng của họ.Các nhà lãnh đạo khu vực bảo mật GNA cũng tham gia chặt chẽ vào các nỗ lực không dẫn đầu để đàm phán các điều khoản của thỏa thuận ngừng bắn, có thể loại bỏ động lực cho việc tuyển dụng và sử dụng bất hợp pháp của các binh sĩ trẻ em.Chính phủ Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tham gia với chính phủ Libya để thúc giục các dân quân chấm dứt việc tuyển dụng trẻ em bất hợp pháp và đưa ra những lời giới thiệu thích hợp cho những đứa trẻ đó.GNA cũng đã cam kết cung cấp quyền truy cập không bị cản trở vào một nhiệm vụ tìm hiểu thực tế quốc tế được tạo ra dưới sự bảo trợ của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc vào tháng 6 năm 2020 để ghi lại các vi phạm nhân quyền ở Libya.Nhiệm vụ tìm hiểu thực tế có một nhiệm vụ để ghi nhận sự lạm dụng của GNA và các dân quân phi nhà nước, bao gồm tuyển dụng hoặc sử dụng của người lính trẻ em.

Nigeria

Tổng thống đã xác định rằng lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ là từ bỏ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Chính phủ Nigeria (GON) và đã chứng nhận rằng GON đang có hiệu quả vàTiếp tục các bước để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.

Các mục tiêu hỗ trợ an ninh hiện tại của chính phủ Hoa Kỳ với Nigeria là: 1) làm tăng tính chuyên nghiệp của các lực lượng vũ trang Nigeria, bao gồm sự tôn trọng nhân quyền và giảm thiểu tác hại dân sự;2) Giảm các mối đe dọa các tổ chức cực đoan bạo lực đặt ra cho Nigeria và khu vực Hồ Chad;và 3) tăng bảo mật trong Vịnh Guinea.Những mục tiêu này được liên kết trực tiếp với chiến lược an ninh quốc gia, chiến lược châu Phi, Cục Châu Phi và các mục tiêu của Mission Nigeria để hỗ trợ an ninh.Theo đó, đó là lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ để tiếp tục theo đuổi những dòng nỗ lực này.

Hỗ trợ an ninh tuân theo hạn chế CSPA hiện đang được cung cấp cho Nigeria bao gồm IMET, tài chính quân sự nước ngoài (FMF), PKO, các điều khoản phòng thủ dư thừa (EDA) và hỗ trợ của Bộ Quốc phòng đã cung cấp theo 10 U.S.C.333. Tài trợ IMET hỗ trợ đào tạo và giáo dục để tăng sự chuyên nghiệp hóa của quân đội thông qua đào tạo giáo dục quân sự chuyên nghiệp (PME) tại Hoa Kỳ.FMF đã hỗ trợ khả năng của Nigeria, tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình, chống khủng bố và an ninh hàng hải.Các quỹ thường hỗ trợ đào tạo và duy trì thiết bị, bao gồm phụ tùng cho đội tàu Nigeria C-130.Chúng tôi cũng hy vọng rằng FMF có thể hỗ trợ các yếu tố của Chương trình Bán hàng Quân sự (FMS) cho Super Tucanos.Mục 333 được sử dụng để hỗ trợ chương trình tích hợp từ không từ không từ không từ không từ không từ trên mặt đất (AGI), tích hợp trí thông minh, giám sát và trinh sát (ISR), tấn công chính xác và tình báo quân sự để tăng hiệu quả của Không quân Nigeria trong khi giảm tiềm năng cho dân sựtác hại thông qua nhân quyền và đào tạo IHL để hỗ trợ các dòng nỗ lực FMS Super Tucano A-29 được tài trợ trên toàn quốc.Mục 333 được sử dụng để hỗ trợ một nỗ lực ISR liên quan để cung cấp các hệ thống hàng không vũ trụ không người lái chiến thuật (UAS).Cuối cùng, phần 333 được sử dụng để hỗ trợ các thiết bị nổ được cải thiện phản đối (C-IED) hoặc lập trình giải phóng mặt bằng cho phép quân đội Nigeria hộ tống các đoàn xe nhân đạo ở phía đông bắc đầy biến động, nơi bạo lực được rèn bởi ISIS-West Châu Phi và Boko đã thay thế1,8 triệu thường dân và kết xuất 9,8 triệu ở khu vực Hồ Chad cần hỗ trợ nhân đạo.Nigeria có thể nhận được EDA cho các cải tiến an ninh hàng hải dưới dạng các tàu bảo vệ bờ biển cũ của Hoa Kỳ, được sử dụng để cải thiện các nỗ lực điều hướng hàng hải và chống vi phạm bản quyền ở Vịnh Guinea và đồng bằng Nigeria.Hỗ trợ do PKO tài trợ cho Nigeria bao gồm hỗ trợ tư vấn AGI để tăng hiệu quả của Không quân Nigeria và giảm tổn hại dân sự;hỗ trợ tư vấn cho các tổ chức tình báo quân sự Nigeria;phát triển một hệ thống chèn và chiết dây nhanh;và đào tạo hoạt động quân sự-dân sự.Vào năm 2020, sự hỗ trợ dự kiến sẽ mở rộng để bao gồm các nỗ lực tăng cường cán bộ và cơ sở đào tạo Nigeria tại các trường bộ binh cơ bản và tiên tiến của họ.Việc từ bỏ toàn bộ việc áp dụng lệnh cấm trong phần 404 (a) của CSPA đối với Nigeria cho phép chính phủ Hoa Kỳ tiếp tục cung cấp hỗ trợ an ninh trong việc cung cấp các dòng nỗ lực trên.

Chính phủ Nigeria đang thực hiện các bước tiếp tục và hiệu quả để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.Các bước bao gồm tiếp tục hỗ trợ trong giai đoạn báo cáo, kế hoạch hành động của Lực lượng đặc nhiệm chung (CJTF) của Liên Hợp Quốc (CJTF) để kết thúc việc sử dụng và tuyển dụng các binh sĩ trẻ em.Tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em của CJTF, một lực lượng tự vệ phi chính phủ nhận được sự hỗ trợ hạn chế từ chính quyền bang Borno, đã đóng góp cho Nigeria Nigeria Danh sách theo CSPA từ 2015-2018 do sử dụng trẻ em trong quá khứ.Vào tháng 9 năm 2017, chính phủ bang Borno đã chứng kiến chữ ký và cung cấp hỗ trợ hành chính để giúp thực hiện, một kế hoạch hành động giữa CJTF và Liên Hợp Quốc để chấm dứt việc tuyển dụng và sử dụng trẻ em của CJTF.Liên Hợp Quốc và CJTF, với sự hỗ trợ của chính phủ, đã xác định và chính thức tách hơn 1.700 trẻ em, bao gồm 894 vào tháng 5 năm 2019. Kể từ khi ký kết Kế hoạch hành động vào năm 2017, Liên Hợp Quốc đã không báo cáo bất kỳ việcCJTF.Quân đội Nigeria cũng đã trả lời để chấm dứt việc tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em bất hợp pháp khi các sự cố bị cô lập được chú ý.Vào tháng 10 năm 2019, ít nhất hai trẻ em (dưới 15 tuổi) đã được tuyển dụng và sử dụng trong các vai trò hỗ trợ tại một trạm kiểm soát từ xa ở Đông Bắc Nigeria.Theo sự tham gia của cấp độ cộng đồng của UNICEF, việc sử dụng đã kết thúc.Một số nhân viên quân sự đang tham gia vào các chương trình đào tạo về quyền trẻ em.Không có báo cáo nào khác về việc sử dụng người lính trẻ em trong năm 2019.

Chính phủ Nigeria nên tiếp tục đạt được tiến bộ trong việc chống lại việc tuyển dụng và sử dụng bất hợp pháp các binh sĩ trẻ em.Để tuân thủ kế hoạch hành động được ký kết với Liên Hợp Quốc, Chính phủ Bang Borno nên tiếp tục hỗ trợ CJTF giải phóng bất kỳ binh sĩ trẻ em còn lại và ngừng tuyển dụng bất kỳ người mới nào.Đại sứ quán sẽ thúc đẩy chính phủ Nigeria cải thiện giáo dục lực lượng vũ trang của mình về luật pháp và chính sách chống lại việc tuyển dụng bất hợp pháp và sử dụng binh lính trẻ em và đặc biệt chú ý đến các tiền đồn từ xa nơi những sự cố như vậy có nhiều khả năng xảy ra.Đại sứ quán sẽ tiếp tục hợp tác với UNICEF và các tổ chức phi chính phủ khác và khuyến khích chính phủ xem họ như một nguồn lực trong nỗ lực chung để loại bỏ việc tuyển dụng và sử dụng bất hợp pháp của các binh sĩ trẻ em.

Somalia

The President has determined it is in the national interest of the United States to waive in part the application of the prohibition in section 404(a) of the CSPA with respect to Somalia to allow for the provision of IMET, PKO, and support provided pursuant to 10 U.S.C. 333 and has certified that the Government of Somalia is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers.

The U.S. strategy in Somalia focuses on achieving a unified, peaceful, and democratic Somalia, with a stable and representative government able to defeat the foreign terrorist organization al-Shabaab; prevent terrorists and pirates from using its territory as a safe haven; provide for its own internal defense; and facilitate and foster development, growth, and political inclusion, while progressing towards long-term stability and prosperity. The waiver for IMET assistance will support the professionalization of the Somali military. This assistance enables the U.S. government to continue to fulfill its goal of assisting the Federal Government of Somalia (FGS) to build effective and rights-respecting security forces, which are indispensable to achieving greater military effectiveness. The waiver for PKO assistance, used in assisting efforts to form broad-based, multi-clan Somali security forces, will also support this goal. Further, a waiver for support provided by the Department of Defense pursuant to 10 U.S.C. 333 will allow for U.S. government assistance to build the Somali military’s capacity to conduct effective, sustained counterterrorism operations against al-Shabaab and, through cooperation, help reinforce U.S. values including those related to preventing and responding to the unlawful recruitment and use of child soldiers.

The FGS is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers. The FGS agreed on an action plan with the United Nations in 2012 to end the recruitment and use of children by the Somali National Army (SNA). While implementation of the action plan at the subnational level was limited until 2016, the SNA’s Child Protection Unit (CPU), which is partially funded by the United States, put particular emphasis on screening, training and an aggressive media campaign. With U.S. support, the CPU carried out six screening missions that examined over 1,500 SNA troops in 2019, and identified four minors within the SNA, according to the 2019 CPU annual report. They also trained 176 officials in the identification of child soldiers and have training focal points in each SNA sector regarding the prohibition against children in armed conflict. The CPU raised awareness of child protection activities, through inter-ministerial meetings with the Ministry of Women and Human Rights, Internal Security, Justice, Health and Education, and developed and disseminated radio and print media content regarding the prevention of child recruitment and conscription in armed conflict.

In June 2019, the Minister of Justice and Judiciary launched Somalia’s version of a UN advocacy and action campaign called “ACT to Protect,” aimed at protecting children affected by armed conflict, and the CPU established a “Children Affected by Armed Conflict” working group.

The United States continues to work with the FGS, including through the CPU, and the UN to monitor progress on the 2012 action plan and urge additional actions to prevent the unlawful recruitment and use of child soldiers and to demobilize, rehabilitate, and reintegrate children identified in the SNA or associated groups, or children previously associated with al-Shabaab.

South Sudan

The President has determined that it is in the U.S. national interest to waive in part the application of the prohibition in section 404(a) of the CSPA with respect to South Sudan to allow for provision of PKO assistance and has certified that the Government of South Sudan is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers.

PKO funds will be used to continue to support the Ceasefire and Transitional Security Arrangements Monitoring and Verification Mechanism (CTSAMVM), which includes regional and international personnel that monitor, identify, and report on parties responsible for violations of the December 2017 Agreement on the Cessation of Hostilities (COH) and the ceasefire provisions of the September 2018 Revitalized Agreement on the Resolution of the Conflict in the Republic of South Sudan (R-ARCSS). PKO funds will also be used to continue support to the Reconstituted Joint Monitoring and Evaluation Commission (RJMEC), which oversees overall implementation of the R-ARCSS. Notably, the R-ARCSS requires the Government of South Sudan to refrain from the recruitment and/or use of child soldiers. PKO funds have been used to support UNICEF child soldier prevention efforts in South Sudan. They may also be used to support the Community of Sant’Egidio’s facilitation of South Sudan peace talks. PKO funds may also support International Code of Conduct Association efforts to improve oversight of private security contractors at the United Nations Mission in South Sudan (UNMISS) to ensure that UNMISS is able to fulfill its mandate of protection of civilians to help enable the peace process to succeed. Given the essential role that these monitoring mechanisms or efforts play as the parties to the R-ARCSS continue to work to implement the peace agreement and form a transitional government, waiving restrictions to PKO assistance is in the U.S. national interest.

The Government of South Sudan is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers. By signing the R-ARCSS it has affirmed its intent to end the recruitment and use of child soldiers. The government’s efforts to address child soldiers are continually discussed at regular RJMEC and CTSAMVM meetings. South Sudan is party to the OPAC, and in 2019, armed groups released an additional 259 child soldiers, and established a process for identifying others to UNICEF through the Disarmament, Demobilization, and Reintegration (DDR) commission, established under the R-ARCSS. The Government of South Sudan has engaged with the UN on creating an action plan to address “six grave violations against children,” including unlawful recruitment and use. Despite commitments from South Sudan armed groups in February 2019 to prevent and end the “six grave violations” against children, the UN continues to verify reports of such “grave violations” against children committed by all parties to the conflict. Significant work needs to be done to address this practice in South Sudan, and the U.S. government will continue to urge the government to take additional steps to prevent the unlawful recruitment or use of child soldiers. Multiple NGO reports indicate the continued unlawful recruitment and use of child soldiers by governmental armed forces and that the collection and verification of information pertaining to child soldier recruitment and use was often hindered by access constraints. A waiver to allow the continuation of PKO assistance to support CTSAMVM and RJMEC will help maintain accountability regarding the Government of South Sudan’s unlawful recruitment and use of child soldiers by allowing critical funding for the continued operation of these key oversight and monitoring mechanisms.

Yemen

The President has determined that it is in the national interest of the United States to waive in part the application of the prohibition in section 404(a) of the CSPA with respect to Yemen to allow for provision of PKO, IMET, and support provided pursuant to 10 U.S.C. 333 and has certified that the government of Yemen is taking effective and continuing steps to address the problem of child soldiers.

It is in the U.S. national interest to support efforts to bring about a negotiated political settlement led by the United Nations Office of the Special Envoy of the Secretary-General for Yemen. This waiver will allow assistance that directly contributes to efforts to advance the UN-led political process. Additionally, a critical element of ending the conflict in Yemen is our counterterrorism campaign and efforts to counter Iranian arms smuggling to the Houthis. Building the capacity of the Republic of Yemen Government to meet these goals furthers important U.S. government security interests to include enhancing homeland security, while simultaneously moving toward the goal of ending the war in Yemen. An end to the conflict will be critical in ending the further deterioration of socio-economic and security conditions, ensuring long-term stability, and securing the space for restoring effective governance institutions that are capable of partnering with the United States and the international community in combatting terrorism. The Department of State assesses that the social and economic disruption caused by the conflict are the primary drivers for the ongoing unlawful recruitment and use of child soldiers in Yemen by all parties to the conflict.

To that end, PKO funding may be used to support UN Special Envoy efforts, including the participation of Yemen’s military leadership, to reach an agreement to end the Yemeni conflict and allow for the resumption of a peaceful, inclusive, and Yemeni-led political transition.

IMET funding will be used to build capacity within the Republic of Yemen Government (ROYG) military by sending selected military officers for the United States for non-technical training. These PME courses would focus on the professionalization of military forces, and would bolster the rule of law within the Yemeni Armed Forces. In turn, this training would support our efforts to prevent recruitment of child soldiers.

The Department of Defense intends to use its authority under 10 U.S.C. 333 to re-engage with and build the capacity of the Yemeni Armed Forces – the military of the recognized government of Yemen – in support of U.S. national interests in fighting terrorism, countering violent extremist organizations and illicit smuggling, and ensuring freedom of navigation through the Bab Al-Mandeb Strait. Critically, this focused support would increase Yemeni capacity to counter malign Iranian activity, including the smuggling of lethal weapons that are contributing to the continuation of the conflict. This carefully calibrated support would be provided to the Yemen Border Guard, Yemen Coast Guard, and Yemen Special Operations Forces units not directly engaged in the current conflict, but rather involved in efforts against malign third party influences contributing to the on-going conflict and crisis.

Royg đang thực hiện các bước hiệu quả và tiếp tục để giải quyết vấn đề của những người lính trẻ em.Vào năm 2019, chính phủ Yemen đã thực hiện các bước cụ thể để nâng cao nhận thức về các yếu tố rủi ro cho việc tuyển dụng và sử dụng của người lính trẻ em, để phục hồi các binh sĩ trẻ em và khuếch đại các nhà hoạt động, kêu gọi người Houthis ngừng tuyển dụng và sử dụng trẻ em.Một cuộc hội thảo tháng 2 năm 2020 tại thành phố Ma'rib do chính phủ kiểm soát, do các bộ và tổ chức phi chính phủ tổ chức với sự hỗ trợ từ Trung tâm cứu trợ và cứu trợ nhân đạo của King Salman (KSRELEF) đã đề cập đến các chiến lược để giảm tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em, tham gia vàoTài khoản bối cảnh xã hội và chính trị của thực tiễn.Vào tháng 3 năm 2020, chính phủ đã phát động một chương trình phục hồi chức năng dành cho những người lính trẻ em đã tài trợ Houthi ở Ma Hóarib, phối hợp với các tổ chức phi chính phủ và hỗ trợ tài trợ từ KSrelief.Vào tháng 11 năm 2019, chính phủ đã sử dụng các nền tảng truyền thông chính thức để khuếch đại các cuộc gọi của các nhà hoạt động nhân quyền Yemen tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc về Houthis để chấm dứt tuyển dụng và sử dụng trẻ em, và cực đoan hóa bạo lực.

Các tuyên bố công khai của các quan chức chính phủ chống lại việc tuyển dụng và sử dụng bất hợp pháp các binh sĩ trẻ em và các cải tiến trong các cơ chế báo cáo, phòng ngừa và bảo vệ chứng minh rằng ngay cả với khả năng hạn chế của chính phủ Yemen tiếp tục giải quyết vấn đề này.Công việc bổ sung đáng kể vẫn còn để xóa bỏ thực tiễn này trên khắp Yemen.Giải pháp bền bỉ nhất cho việc tuyển dụng và sử dụng các binh sĩ trẻ em bất hợp pháp sẽ là một giải pháp chính trị kết thúc cuộc xung đột.

Phần 5. Mô tả và số lượng hỗ trợ được cung cấp theo từ bỏ.

Thông tin được cung cấp dưới đây chỉ bao gồm hỗ trợ bắt buộc kể từ ngày 5 tháng 4 năm 2021. Hỗ trợ bổ sung sẽ có nghĩa vụ trong năm 2021.

Afghanistan

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - $ 540.950 vào ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Các bài viết vượt quá (EDA) - $ 3,821,000 vào ngày 5 tháng 4, thiết bị EDA trị giá $ 3,821,000 đã được chuyển đến Afghanistan.
As of April 5, $3,821,000 worth of EDA equipment was transferred to Afghanistan.

Cameroon

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - $ 205,775 vào ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) kể từ ngày 5 tháng 4, không có tài trợ PKO nào có nghĩa vụ vào năm tài chính năm 2021.
As of April 5, no PKO funding was obligated in FY 2021.

Cộng hòa Dân chủ Congo

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế & NBSP;- 76.098 đô la vào ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Các hoạt động gìn giữ hòa bình của ngày 5 tháng 4, không có tài trợ PKO nào có nghĩa vụ vào năm 2021.
As of April 5, no PKO funding was obligated in FY 2021.

Iraq

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - $ 197,433 Kể từ ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Libya

Kể từ ngày 5 tháng 4, không có quỹ nào chịu CSPA đã có nghĩa vụ.

Nigeria

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - $ 394,066 Kể từ ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Hoạt động gìn giữ hòa bình kể từ ngày 5 tháng 4, không có tài trợ PKO nào có nghĩa vụ vào năm 2021.
As of April 5, no PKO funding was obligated in FY 2021.

10 U.S.C.333 - $ 3,705,772 Kể từ ngày 5 tháng 4, tài trợ Phần 333 của DoD là bắt buộc đối với các hoạt động sau: đào tạo và thiết bị.
As of April 5, DoD section 333 funding was obligated for the following activities: training and equipment.

Somalia

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - 155.282 đô la vào ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Hoạt động gìn giữ hòa bình - & NBSP; $ 12,692,025 Vào ngày 5 tháng 4, tài trợ PKO có nghĩa vụ cho Quân đội Quốc gia Somalia và Bộ Quốc phòng Somalia cho các hoạt động sau: Hỗ trợ hậu cần;quy định;hỗ trợ tư vấn;đào tạo;Trang thiết bị;và giám sát chương trình.
As of April 5, PKO funding was obligated for the Somali National Army and Somali Ministry of Defense for the following activities: logistical support; stipends; advisory support; training; equipment; and program oversight.

10 U.S.C.333 - $ 2,957,240 Trong năm 2021, tài trợ phần 333 của DOD là bắt buộc đối với các hoạt động sau: đào tạo và thiết bị.
During FY 2021, DoD section 333 funding was obligated for the following activities: training and equipment.

phía nam Sudan

Các hoạt động gìn giữ hòa bình của ngày 5 tháng 4, không có quỹ PKO nào có nghĩa vụ vào năm 2021.
As of April 5, no PKO funds have been obligated in FY 2021.

Yemen

Giáo dục và đào tạo quân sự quốc tế - 154.921 đô la vào ngày 5 tháng 4, tài trợ IMET có nghĩa vụ cho các hoạt động sau: Đào tạo chuyên nghiệp hóa quân sự.
As of April 5, IMET funding was obligated for the following activity: military professionalization training.

Thuật ngữ của chữ viết tắt

ASEANHiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EcowasCộng đồng kinh tế của các quốc gia Tây Phi
EULiên minh châu Âu
EuropolCơ quan hợp tác thực thi pháp luật của Liên minh châu Âu
FARCLực lượng vũ trang vòng quay của Colombia
GretaHội đồng chuyên gia của Hội đồng Châu Âu về hành động chống buôn người ở con người
IDPNgười nội tại di dời
ILOTổ chức Lao động Quốc tế
INTERPOLTổ chức cảnh sát hình sự quốc tế
IomTổ chức Di cư Quốc tế
ISISNhà nước Hồi giáo Iraq và Syria
LGBTQI+Đồng tính nữ, đồng tính nam, lưỡng tính, chuyển giới, queer và liên giới tính
NGOTổ chức phi chính phủ
OASTổ chức các quốc gia Mỹ
OsceTổ chức An ninh và Hợp tác ở Châu Âu
Liên Hợp Quốcliên Hiệp Quốc
UNHCRCao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn
UnicefQuỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc
UNODCVăn phòng Liên Hiệp Quốc về Phòng chống Ma tuý và Tội phạm
Giao thức Mẹo của UN (Giao thức Palermo)))
(Palermo Protocol))
Nghị định thư để ngăn chặn, đàn áp và trừng phạt buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước Liên Hợp Quốc chống lại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia

Ghi chú: Đồng tiền địa phương đã được chuyển đổi thành đô la Mỹ ($) bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái được báo cáo bởi Bộ Tài chính Hoa Kỳ vào ngày 31 tháng 12 năm 2020. Giá có thể được tìm thấy ở đây: https://fiscal.treasury.gov/files/Reports-statements/ttreasury-reporting-rates-exchangehttps://fiscal.treasury.gov/files/reports-statements/treasury-reporting-rates-exchange/treasury-reporting-rates-of-exchange-as-of-december-31-2020-with-amendments.xlsx 

Tín ảnh

Bìa bên trong: Panos Pictures/William Daniels Trang III: © Steve McCurry/Magnum Hình ảnh V: Panos Pictures/Karen Robinson Bảng nội dung: Hình ảnh Liên minh Trang 2: Katie Orlinsyky Trang 5: Hình ảnh Liên minh trang 6Hình ảnh Liên minh Trang 11: Hình ảnh Liên minh Trang 13: Smita Sharma Trang 14: Panos Pictures/Adam Dean Trang 15: Hình ảnh Liên minh Trang 17: Sara Hylton Trang 18-19: Alam Mushfiqual Trang 20: Seivan Salim Trang 23: Hình ảnh liên minh trang 25:Panos Pictures/Karen Robinson Trang 29: Getty/Stefanie Glinski Trang 30: Reuters/Jackson Njehia Trang 32: Sara Hylton Trang 34:Trang 40: Liên minh hình ảnh Trang 41: Getty/Munir Uz Zaman Trang 42: Liên minh hình ảnh Trang 44: Elisabetta Zavoli Trang 45: Adria Malcolm Trang 46: Getty/Greg Baker Trang 49: Matilde Simas Trang 50:Trang 55: Liên minh hình ảnh Trang 57: Getty/Tuul & Bruno MoRandi Trang 59: Liên minh hình ảnh Trang 61: Liên minh hình ảnh Trang 66: Emily Teague Trang 75: Panos Pictures/Samuel Aranda Trang 619: Hình ảnh Liên minh Trang 627: Panos/Dieter Telemans Trang 638:- Thợ rèn
Page iii: © Steve McCurry/Magnum Photos
Page v: Panos Pictures/Karen Robinson
Table of Contents: Picture Alliance
Page 2: Katie Orlinsyky
Page 5: Picture Alliance
Page 6: Picture Alliance
Page 9: Picture Alliance
Page 11: Picture Alliance
Page 13: Smita Sharma
Page 14: Panos Pictures/Adam Dean
Page 15: Picture Alliance
Page 17: Sara Hylton
Page 18-19: Mushfiqual Alam
Page 20: Seivan Salim
Page 23: Picture Alliance
Page 25: Panos Pictures/Karen Robinson
Page 29: Getty/Stefanie Glinski
Page 30: Reuters/Jackson Njehia
Page 32: Sara Hylton
Page 34: Getty-Quynh Anh Nguyen/Contributor
Page 36: Getty-Ina Fassbender/Contributor
Page 38: Panos/ Williams Daniels
Page 40: Picture Alliance
Page 41: Getty/Munir Uz Zaman
Page 42: Picture Alliance
Page 44: Elisabetta Zavoli
Page 45: Adria Malcolm
Page 46: Getty/Greg Baker
Page 49: Matilde Simas
Page 50: Ernst Coppejans
Page 53: Picture Alliance
Page 55: Picture Alliance
Page 57: Getty/Tuul & Bruno Morandi
Page 59: Picture Alliance
Page 61: Picture Alliance
Page 66: Emily Teague
Page 75: Panos Pictures/Samuel Aranda
Page 619: Picture Alliance
Page 627: Panos/Dieter Telemans
Page 638: Sara Hylton
Inside Back Cover: Panos Pictures/Abbie Trayler- Smith

Sự nhìn nhận

Các nhân viên của Văn phòng để theo dõi và chiến đấu buôn bán người là:

Hadiyyah A. Abdul-Jalaal Karen Vierling Allen Perpetua Anaele Julia F. Anderson Andrea Balint Shonnie R. Ball Getoria Berry Brooke Beyer Mackenzie BillsChane Corp Sarah Davis Steven Davis Vivian Ekey Lamiaa Elfar Mary C. Ellison Daniel Evensen Heather Fisher Mark Forstrom Rachel Fox Smothermon Anna Fraser Lucia Gallegos Janine GannonHas Has Has Caitlin B. Heidenreich Ashley Hernandez J. Brett Hernandez Sonia Helmy-Dentzel Julie Hicks Crystal Hill William Hine-Ramsberger Megan Hjelle-Lantman Moira Honohan Sof Javed Jennifer M.. Johnson Kari A. Johnstone Chelsea KasEr Catherine E. Kay Emily A. Korenak Kendra L. Kreider Rebecca Lesnak Abigail Long Jason Martin Myrtis Martin Sunny Massa Maurer Kerry McBride Jasmine McClam Rendi McCoy MauraO'Neill Richard Leo Page-Blau Sandy Perez Rousseau Andrew Pfender Reimi Pieters Marissa Pietrobono Justin D. Pollard Andrea E. Reed John Cotton Richmond Casey Risko LauraNgắn echalar jane nady sigmon soumya bạc susan snyder whitney stewart desirée suo weymont francesca J. tadle atsuki takahashi james toylor chaiszar kathy ulu melissa verlaque kathleen vigel
Karen Vierling Allen
Perpetua Anaele
Julia F. Anderson
Andrea Balint
Shonnie R. Ball
Getoria Berry
Brooke Beyer
MacKenzie Bills
Michelle Cooper Bloom
Katherine Borgen
Gregory Borgstede
Kelsey Brennan
Christine Buchholz
Ravi Buck
Carla M. Bury
Erin Chapman
Anisha Choubey
Anna Cornacchio
Chane Corp
Sarah Davis
Steven Davis
Vivian Ekey
Lamiaa Elfar
Mary C. Ellison
Daniel Evensen
Heather Fisher
Mark Forstrom
Rachel Fox Smothermon
Anna Fraser
Lucia Gallegos
Janine Gannon
Beatriz Garcia Velazquez
Timothy Gehring
Brianna Gildner
Natasha Greeberg
Takiyah Golden
Olivia Hasegawa
Patrick Hamilton
Tegan Hare
Jocelyn Harrison
Amy Rustan Haslett
Caitlin B. Heidenreich
Ashley Hernandez
J. Brett Hernandez
Sonia Helmy-Dentzel
Julie Hicks
Crystal Hill
William Hine-Ramsberger
Megan Hjelle-Lantsman
Moira Honohan
Sofia Javed
Jennifer M. Ho
Bethany Hanke Hoang
Ariana Holly
Renee Huffman
Veronica Jablonski
Harold Jahnsen
Sarah Jennings
Maurice W. Johnson
Kari A. Johnstone
Chelsea Kaser
Catherine E. Kay
Emily A. Korenak
Kendra L. Kreider
Rebecca Lesnak
Abigail Long
Jason Martin
Myrtis Martin
Sunny Massa
Monica Maurer
Kerry McBride
Jasmine McClam
Rendi McCoy
Maura K. McManus
Kristy Mordhorst
Rebecca Morgan
Ericka Moten
Ryan Mulvenna
Freedom Mushaw
Cristina Narvaez
Samantha Novick
Amy O’Neill Richard
Leo Page-Blau
Sandy Perez Rousseau
Andrew Pfender
Reimi Pieters
Marissa Pietrobono
Justin D. Pollard
Andrea E. Reed
John Cotton Richmond
Casey Risko
Laura Svat Rundlet
Haley L. Sands
Sarah A. Scott
Adrienne Sgarlato
Steven Shade
Mai Shiozaki-Lynch
Julie Short Echalar
Jane Nady Sigmon
Soumya Silver
Susan Snyder
Whitney Stewart
Desirée Suo Weymont
Francesca J. Tadle
Atsuki Takahashi
James Taylor
Chaiszar Turner
Kathy Unlu
Melissa Verlaque
Kathleen Vogel
Myrna E. Walch
Bianca Washington
Tatum West
Shelly Westebbe
Ben Wiselogle
Joshua Youle
Janet Zinn

Đặc biệt cảm ơn Daniel Kim, Lamya Shawki El-Shacke và Nhóm Dịch vụ Sáng tạo tại Global Publishing Solutions.

Báo cáo quốc gia

Châu Phi (Sub-Saharan)

Angola Côte d hèIvoire Guinea Mozambique Nam Phi
Bén Cộng hòa Dân chủ Congo Guinea-Bissau Namibia phía nam Sudan
Botswana Djibouti Kenya Nigeria Sudan
Burkina Faso Equatorial Guinea Lesotho Nigeria Tanzania
Burundi Eritrea Liberia Cộng hòa Congo Đi
Cabo Verde Eswatinin Madagascar Rwanda Uganda
Cameroon Ethiopia Ma -rốc Senegal Zambia
Cộng hòa trung phi Gabon Mali Seychelles Zimbabbawe
Chad Gambia Mauritania Sierra Leone
Comoros Ghana Mauritius Somalia

Đông Á và Thái Bình Dương

Châu Úc Hồng Kông Quần đảo Marshall Papua New Guinea nước Thái Lan
Brunei Indonesia Micronesia Philippines Timor-Leste
Miến Điện Nhật Bản Mông Cổ Singapore Tonganga
Campuchia Lào Lào New Zealand Quần đảo Solomon Vanuatu
Trung Quốc Macauuu Triều Tiên là Hàn Quốc Hàn Quốc Việt Nam
Fijijijijing Malaysia Palau Đài Loan

Châu Âu và Á -Âu

Albania Síp Hungary Moldovas Serbia
Armenia Cộng hòa Séc Nước Iceland Montegrogro Slovakia
Áo Đan mạch Ireland nước Hà Lan Slovenia
Azerbaijan Estonia Italyal Bắc Macedonia Tây ban nha
Bellarus Phần Lan Kosovo Na Uy Thụy Điển
nước Bỉ Pháp Latvia Ba Lan Thụy sĩ
Bosnia và Herzegovina Georgia Litva Bồ Đào Nha Thổ Nhĩ Kỳ
Bulgaria nước Đức Luxembourg Rumani Ukraine
Croatia Hy Lạp Malta Nga Vương quốc Anh

Cận Đông (Trung Đông và Bắc Phi)

Algeria Iraq Lebanon Qatar các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất
Bahrain Người israel Libya Ả Rập Saudi Yemen
Ai Cập Jordan Ma -rốc Syriaried
Iran Kuwait Ô -man Tunisia

Nam và Trung Á

Afghanistan Ấn Độ Maldives Sri Lanka
Bangladesh Kazakhstan Nepal Tajikistan
Bhutan Cộng hoà Kyrgyz Pakistan Turkmenistan
Uzbekistan

Tây bán cầu

Antigua và Barbuda Brazil Cộng hòa Dominican Jamaica Thánh John Baptist.MASTOUR
Argentina Canada Ecuador Mexico Thánh John Baptist.Vincent và Grenadines
Aruba Chile El Salvador Nicaragua Suriname
Bahamas Colombia Guatemala Panama Trinidad và Tobago
Barbados Costa Rica Guyana Paraguay Hoa Kỳ
Belize Cuba Haiti Peruu Uruguay
Bolivia Curagao Honduras Thánh Lucia Venezuela

Thành phố nào có tỷ lệ buôn người cao nhất?

Là đô thị quốc tế/đa văn hóa nhất ở Mỹ, với tỷ lệ dân số nghèo và các tổ chức tội phạm, thành phố New York là một trong những trung tâm hàng đầu cho các hoạt động buôn người.New York City is among the top hubs for human trafficking activities.

Bang nào được xếp hạng thứ 3 trong nạn buôn người?

Florida đứng thứ ba trong cả nước trong các cuộc gọi đến đường dây nóng buôn bán người quốc gia.Chỉ có Texas và California có nhiều hơn.Chúng tôi cần các đối tác trong cộng đồng. ranks third in the nation in calls to the National Human Trafficking hotline. Only Texas and California have more. “We need partners in the community.”

Michigan số 2 có phải là người buôn bán người không?

Thống kê cho thấy Michigan là một trung tâm của người Hồi giáo vì buôn bán tình dục hoặc số 2 trong cả nước.Michigan is a “hub” for sex trafficking or #2 in the nation.

Nhà nước nào đứng đầu trong buôn bán người?

Dữ liệu của họ cho thấy ba tiểu bang hàng đầu có các trường hợp buôn người nhiều nhất được báo cáo là California, Texas và Florida.1.507 trường hợp buôn bán người ở California đã được báo cáo cho Đường dây nóng quốc gia vào năm 2019.