Ảnh hướng của yếu tố tâm lý đến định hình phong cách nghệ thuật cả nhận

Tâm lý học mỹ thuật là một lĩnh vực liên ngành nghiên cứu về quan niệm, nhận thức và đặc điểm của mỹ thuật và những sản phẩm của mỹ thuật. Với các liệu pháp mỹ thuật, việc sử dụng các vật liệu mỹ thuật như một hình thức tâm lý. Tâm lý học mỹ thuật liên quan đến tâm lý học kiến trúc và tâm lý học môi trường.[cần dẫn nguồn]

Biểu Đồ U ngược

Giả thuyết hình U ngược cho rằng phản ứng thẩm mỹ trong mối quan hệ với tính phức tạp sẽ hiển thị một mật độ hình ngược. Nói một cách khác, mức độ đánh giá thấp nhất của phản ứng thẩm mỹ tương quan với mức độ cao hoặc thấp của tính phức tạp, cái mà hiển thị "ngăn chặn cự điểm". Hơn nữa, mức phản ứng thẩm mỹ cao nhất lại xảy ra tại điểm có tính phức tạp trung bình. Thay vào đó, trong nghiên cứu của sinh viên về mức độ sở thích và tính phức tạp của nhạc pop đương thời ghi lại được một mối quan hệ hình U ngược giữa sở thích và tính phức tạp.

Những nghiên cứu trước đây cho rằng xu hướng của tính phức tạp có thể liên kết với khả năng thấu hiểu, khi quan sát những tác phẩm nghệ thuật không quá dễ cũng không quá khó để hiểu. Nghiên cứu khác vừa khẳng định, vừa phủ nhận sự dự đoán rằng tính cách cá nhân ví dụ như chuyên môn và đào tạo nghệ thuật có thể tạo ra một chuyển biến trong phân bổ hình U ngược.

Các khía cạnh nghệ thuậtSửa đổi

Hội họa Xu hướng chung cho thấy rằng mối quan hệ giữa tính phức tạp của hình ảnh và xếp hạng sự hài lòng có dạng biểu đồ hình U ngược [xem phần Chuyên môn để loại trừ]. Điều này có nghĩa là sở thích của con người tăng lên giống như nghệ thuật đi từ rất đơn giản đến rất phức tạp, đến khi chạm đỉnh, sự hài lòng sẽ giảm xuống một lần nữa.

Một nghiên cứu đương thời tìm ra rằng chúng ta có xu hương đánh giá các hình ảnh môi trường tự nhiên và phong cảnh là phức tạp hơn, vì thế ưa thích chúng hơn các bức tranh trừu tượng được chúng ta đánh giá là ít phức tạp. Âm nhạc Âm nhạc thể hiện một xu hướng tương tự khi so sánh tính phức tạp với xếp hạng ưu tiên giống như hội họa. Khi so sánh âm nhạc phổ biến, tại cùng một thời điểm và xếp hạng cảm nhận tính phức tạp thì mối quan hệ hình U ngược đã được biết đến sẽ xuất hiện, cho thấy rằng chúng ta thích âm nhạc có tính phức tạp hợp lý nhất. Khi loại âm nhạc được chọn trở nên phức tạp hoặc ít phức tạp hơn, tính ưu tiên của chúng ta giảm xuống. Tuy nhiên những người được đào tạo và có kinh nghiệm trong âm nhạc phổ cập thường thích âm nhạc phức tạp hơn một chút. Biểu đồ hình U ngược di chuyển sang phải với những người có nền tảng âm nhạc mạnh. Một minh họa tương tự có thể nhìn thấy với nhạc jazz và bluegrass. Những người có tư duy âm nhạc hạn chế trong nhạc jazz và bluegrass chứng minh một hình U ngược điển hình trong khi xem xét tính phức tạp và sự ưu tiên, tuy nhiên, các chuyên gia trong lĩnh lại không chứng minh một kiểu hình tương tự. Không giống như các chuyên gia âm nhạc thông thường, các chuyên gia nhạc jazz và bluegrass không thể hiện mối quan hệ rõ ràng giữa tính phức tạp và sự hài lòng. Các chuyên gia trong hai lĩnh vực âm nhạc này dường như chỉ thích những gì họ thấy thích, và không có một công thức nào để miêu tả hành vi của họ. Vì thế những dòng nhạc khác nhau có những hiệu ứng khác nhau với sự ưu tiên cho các chuyên gia, các nghiên cứu sâu hơn cần được hoàn thành để đưa ra được kết luận cho việc xếp hạng tính phức tạp và sự ưu tiên cho các phong cách khác. Khiêu vũ Những nghiên cứu tâm lý đã chứng minh rằng sở thích thưởng thức các màn trình diễn khiêu vũ có thể bị ảnh hưởng bởi tính phức tạp. Một thí nghiệm sử dụng mười hai kiểu vũ đạo bao gồm 3 mức độ phức tạp trong biểu diễn với bốn nhịp điệu khác nhau. Tính phúc tạp trong các điệu nhảy khác nhau tạo ra sự đa dạng trong sáu kiểu hình chuyển động [vòng tròn thuận chiều kim đồng hồ, vòng tròn ngược chiều kim đồng hồ và tiếp cận sân khấu]. Nhìn chung, nghiên cứu cho thấy rằng những người xem thích những điệu nhảy với các động tác phức tạp và nhịp điệu nhanh hơn.

Những khác biệt tính cách cá nhânSửa đổi

Người ta thấy rằng khác biệt tính cách cá nhân và khác biệt về nhân khẩu học cũng có thể dẫn tới khác biệt trong ưu tiên nghệ thuật. Một nghiên cứu đã kiểm tra sự ưu tiên của con người đối với nhiều tác phẩm nghệ thuật, bao gồm cả ưu tiên cá nhân của họ. Nghiên cứu này đã tìm ra rằng sự khác biệt giới tính cũng xuất hiện trong sở thích nghệ thuật. Phụ nữ thường thích sự vui vẻ, sặc sỡ và các bức tranh đơn giản, còn nam giới thường thích hình khối, nỗi buồn và những bức tranh phức tạp. Sự khách biệt về tuổi tác cũng tồn tại trong sở thích về tính phức tạp, khi mà sự ưu tiên cho phức tạp trong các bức tranh cũng tăng theo tuổi tác.

Những đặc điểm tính cách cá nhân cũng dự đoán mối quan hệ giữ tính phức tạp và ưu tiên nghệ thuật. Trong một nghiên cứu người ta đã tìm ra rằng những người đánh giá cao tính tận tâm thích các bức tranh có tính phức tạp ít hơn so với những người đánh giá tháp tính tận tâm. Điều này đồng nghĩa với ý tưởng rằng những người tận tâm thường không thích sự mập mờ và thích kiểm soát, vì thế họ không thích các tác phẩm đe dọa tới những cảm giác đó. Mặt khác, những người đánh giá cao sự cởi mở trong trải nghiệm thích những tác phẩm phức tạp hơn những người không đánh giá cao sự cởi mở trong trải nghiệm. Sự khác biệt cá nhân chính là những nhà tiên đoán tốt hơn đối với sự ưu tiên với nghệ thuật phức tạp hơn là nghệ thuật đơn giản, nơi mà không có bất cứ một đặc điểm tính cách cá nhân nào dự đoán cho nghệ thuật đơn giản. Mặc dù trình độ học vấn không có mối quan hệ trực tiếp với tính phức tạp, nhưng những người có trình độ học vấn cao thường tới thăm bảo tàng nhiều hơn, điều đó dẫn đến sự đánh giá cao về nghệ thuật phức tạp. Điều này cho thấy tiếp xúc nhiều hơn với nghệ thuật phức tạp dẫn đến ưu tiên lớn hơn, khi mà thực sự quen thuộc dẫn đến sự yêu thích lớn hơn.

Tính đối xứngSửa đổi

Tính đối xứng và thẩm mỹ có một mối liên kết sinh học mạnh mẽ mà ảnh hưởng tới ưu tiên thẩm mỹ. Điều đó đã được chỉ ra rằng con người có xu hướng ưu tiên nghệ thuật có chứa tính đối xứng, xét thấy nó đẹp hơn. Thêm vào đó, tính dối xứng có tương quan trực tiếp đến sự cảm nhận nét đẹp của một khuôn mặt hay một tác phẩm. Tính đối xứng càng lớn thể hiện trên khuôn mặt hoặc một tác phẩm thường mang đến diện mạo đẹp hơn. Nghiên cứu về ưu tiên thẩm mỹ đối với dạng của hình khối và quá sự thông thạo trong quá trình xử lý tính đối xứng làm sáng tỏ vai trò của tính đối xứng trong đánh giá và kinh nghiệm thẩm mỹ tổng thể.

Con người bẩm sinh có xu hướng quan sát và ưu tiên thị giác đối với tính đối xứng, một chất lượng xác định thu được một kinh nghiệm thẩm mỹ được tự động sử dụng yếu tố từ dưới lên. Yếu tố từ dưới lên này được suy đoán dựa trên kinh nghiệm học tập và quá trình xử lý hình ảnh của não bộ, gợi lên một thiên vị sinh học. Nhiều nghiên cứu mạo hiểm để giải thích ưu tiên bẩm sinh này đối với tính đối xứng với nhiều phương pháp bao gồm nghiên cứu với Tổ hợp Thử nghiệm hàm ẩn [Implicit Association Test – IAT]. Các nhà nghiên cứu cho rằng chúng ta ưu tiên tính đối xứng vì chúng được xử lý một cách dễ dàng; vì thế chúng ta có sự thông hiểu trong nhận thức cao hơn khi các tác phẩm có tính đối xứng. Một nghiên cứu được hoàn tất đã vẽ nên các bằng chứng từ con người và động vật cho thấy sự quan trọng của tính đối xứng trong bất kì sinh học thiết yếu nào. Nghiên cứu này đánh dấu hiệu quả đối với những gì máy tính nhận biết và xử lý được các vật thể có tính đối xứng so với đối tượng không có tính đối xứng. Đã có những điều tra về các đặc điểm khách quan gây kích thích có thể ảnh hưởng đến sự thông thạo và vì thế được ưu tiên. Những yếu tố ví dụ như lượng thông tin được cung cấp, mức độ đối xứng và thông số tương phản chỉ được văn học liệt kê một số ít. Sự ưu tiên đối với tính đối xứng dẫn đến câu hỏi bằng cách nào sự thông thạo ảnh hưởng tới ưu tiên bao hàm bằng sử dụng Tổ hợp Thử nghiệm hàm ẩn. Những phát hiện rằng cảm nhận tính thông thạo là một yêu tố mà gợi lên phản ứng bao hàm đã được chỉ ra với kết quả Tổ hợp Thử nghiệm hàm ẩn. Nghiên cứu được phân nhánh từ việc nghiên cứu thỏa mãn thầm mỹ và tính đối xứng không chỉ với mức độ rõ ràng mà còn cả tiềm ẩn. Trên thực tế, nghiên cứu cố gắng tích hợp mồi [tâm lý học], ảnh hưởng của văn hóa và những loại kích thích khác nhau có thể gợi lên một ưu tiên thẩm mỹ.

Những nghiên cứu điều tra sâu hơn về sự cảm nhận tính thông thạo tìm thấy một sự thiên vị theo giới tính đối với các kích thích trung tính. Những nghiên cứu liên quan đến sự ưu tiên tính đối xứng nói chung trong đời sống thực tế với các đối tượng trừu tượng cho phép chúng ta thực hiện các thí nghiệm sâu hơn về khả năng mà ý nghĩa có thể ưu tiên đối với các kích thích được cung cấp. Để xác định liệu ý nghĩa có ảnh hưởng tới những kích thích đã được cung cấp, người tham gia được yêu cầu quan sát một cặp vật thể và đưa ra một quyết định bắt buộc để đánh giá sự ưu tiên của họ. Các phát hiện chỉ ra rằng đặc điểm ưu tiên của thị giác nói chung đối với tính đối xứng của đối tượng vẫn tồn tại. Hơn nữa, hiệu ứng chính đối của ưu tiên giới tính tồn tại ở đàn ông luôn luôn khẳng định rằng sự ưu tiên với tính đối xứng với cả vật thể thực tế và trừu tượng. Phát hiện này không thể hiện ở những người tham gia là nữ giới. Các nghiên cứu cần được thực hiện để điều tra sâu hơn các yếu tố ảnh hưởng tới sự ưu tiên của nữ giới đối với kích thích thị giác giống như đối với sự thể hiện ở nam giới cho tính đối xứng với cả những vật thể trong thế giới thực tế và trừ tượng.

Nghệ thuật bao gồm các dạng của hình khối, được nhìn thấy nhiều trong nghệ thuật Hồi giáo được thừa hưởng một vốn đối xứng cho các tác phẩm. Tính đối xứng này có thể tương quan với sự hấp dẫn liên kết với các hình thức nghệ thuật, vì thế cũng có một sự tương quan giữ sở thích của con người và tính đối xứng. Trong các nghiên cứu về sự hấp dẫn của khuôn mặt, tính hấp dẫn được nhận thấy như một yêu tố quan trọng giống như hình dạng và màu sắc trong nhận diện sự hấp dẫn. Giả thuyết gen trội đối với sự ưu tiên tính đối xứng cho rằng đối xứng là một chỉ số sinh học của sự phát triển ổn định, chất lượng đời sống và sự cân đối và vì thế giải thích tại sao chúng ta chọn các đặc điểm đối xứng trong cuộc sống của chúng ta. Tuy nhiên, giả thuyết gen trội không thể lý giải được tại sao hiện tượng này được quan sát được trong ưu tiên của chúng ta với nghệ thuật trang trí. Giả thuyết khách được đặt ra là giả thuyết các kiểu hình mở rộng chỉ ra rằng nghệ thuật trang trí không liên quan nhưng phản ánh tính cân bằng của nghệ sĩ, giống như việc các hình thức đối xứng rất khó để tạo ra. Những giả thuyết và phát hiện này cung cấp bằng chứng cho sự thiên vị của tiến hóa đối với ưu tiên cho tính đối xứng và tăng cường đối với thiên vị văn hóa. Các nghiên cứu cho rằng ưu tiên tính đối xứng là do sự thiên vị tiến hóa, thiên vị sinh học và sự gia cố văn hóa của chính nó cũng có thể bị thay thế bởi giao lưu giữa các nền văn hóa.

Cân bằng thành phầnSửa đổi

Cân bằng thành phần đề cập đến vị trí của các yếu tố đa dạng của một tác phẩm nghệ thuật trong mối quan hệ với các yếu tố khác, thông qua cách tổ chức và định vị của chúng dựa trên trọng lượng tương đối của chúng. Các yếu tố có thể bao gồm kích thước, hình dạng, màu sắc và sự xếp đặt các vật thể hoạc hình dạng. Khi cân bằng, các thành phần xuất hiện ổn định và đúng trực quan. Giống như sự liên quan của tính đối xứng với ưu tiên thẩm mỹ và sự phản ảnh cảm giác trực quan về việc các vật thế nên xuất hiện như thế nào, sự cân bằng tổng thể mang đến các thành phần bố cục vào sự đánh giá tác phẩm

Thậm chí vị trí của một vật thể đơn thuần, ví dụ như một cái bát hay một chiếc đèn chiếu sáng trong thành phần bố cục cũng ưu tiên cho thành phần đó. Khi người tham gia quan sát nhiều vật thể đa dạng, những vật thể có dạng đứng trên một mặt phẳng nằm ngang được chế tác, người xem ưu tiên các vật thể có tầm nhìn cao hơn hoặc thấp hơn trong mặt phẳng, tương ứng với vị trí bình thường của hình ảnh [ví dụ như chiếc đèn nên cao hơn và chiếc bát thấp hơn. Các biểu hiện của tính thiên vị trung tâm có thể giải thích cho sự ưu tiên đối với phần quan trọng nhất hoặc bộ phận chức năng của một vật thể được đặt ở vị trí trung tâm của khung hình, cho thấy sự thiên vị về "tính đúng đắn" khi quan sát một vật thể.

Chúng ta cũng rất nhạy cảm trong cân bằng trong cả nghệ thuật trừu tường và nghệ thuật tượng trưng. Khi xem một tác phẩm nghệ thuật đa nguồn gốc, ví dụ như được chế tác từ các mảng màu đỏ, lam và vàng trong rất nhiều tác phẩm của Piet Mondrian, những người tham gia được đạo tạo thiết kế và không được đào tạo thiết kế thành công trong việc xác định cân bằng trung tâm của mỗi biến thể. Chuyên môn dường như không có ảnh hưởng gì lớn đối với cảm nhận sự cân bằng, mặc dù chỉ những người tham gia được đào tạo nhận ra sự biến đổi giữa tác phẩm gốc và bản chế tác

Cả những chuyên gia và người không chuyên có xu hướng đánh giá tác phẩm trừu tượng là có sự cân bằng tối ưu hơn các biến thể thí nghiệm mà không nhất thiết phải xác định ban đầu. Có vẻ như có một cảm giác trực quan đối với chuyên gia và những người không chuyên là giống nhau khi được xem một tác phẩm tượng trưng bản gốc. Người tham gia có xu hướng lờ đi tác phẩm gốc giống như bản gốc so với bản chế tác đều được thay đổi một cách tinh tế và rõ ràng với sự tôn trọng tính cân bằng của tác phẩm. Điều này chỉ ra rằng một số kiến thức bẩm sinh về sự đúng đắn của tác phẩm trong sự cân bằng của nó có lẽ không ảnh hưởng bởi chuyên môn nghệ thuật. Cả các bạc thầy và những người mới nhập môn đều nhạy cảm như nhau đối với sự thay đổi sự cân bằng ảnh hưởng tới ưu tiên nghệ thuật, trong đó có thể thấy cả những người xem là nghệ sĩ đều có một cảm giác trực quan đối với sự cân bằng trong nghệ thuật

Nghệ thuật và chuyên mônSửa đổi

Các nhà tâm lý học tìm ra rằng mức độ chuyên môn của một người trong nghệ thuật ảnh hưởng tới cách mà họ cảm nhận, phân tích và phản ứng với nghệ thuật. Để kiểm tra tâm lý, các thước đo đã được thiết kế để kiểm tra kinh nghiệm chứ không chỉ lad số năm chuyên môn bằng cách kiểm tra sự nhận biết và kiến thức của nghệ sĩ trong một số lĩnh vực, chất xám và tính cách cá nhân với lưu trữ Năm yếu tố lớn. Điều này cho thấy rằng những người có chuyên môn nghệ thuật cao chưa chắc đã thông minh hơn, cũng tương tự với những người học chuyên ngành nghệ thuật. Thay vào đó, sự cởi mở với kinh nghiệm, một trong năm yếu tố lớn, lại dự đoán cho tính chuyên môn nghệ thuật của một người.

Sự ưu tiênSửa đổi

Trong một nghiên cứu, những sinh viên trải nghiệm chuyên ngành nghệ thuật và những sinh viên không chuyên được xem một bức tranh phổ biến từ tạp trí và một bức tranh có tính nghệ thuật cao từ viện bảo tàng. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra các phản ứng quan trọng giữa chuyên môn và ưu tiên nghệ thuật. Những người tham gia không chuyên ưu tiên nghệ thuật phổ thông hơn là nghệ thuật cao cấp, trong khi người có chuyên ngành lại ưu tiên nghệ thuật cao cấp hơn nghệ thuật phổ thông. Họ cũng tìm ra rằng những người tham gia không chuyên đánh giá nghệ thuật phổ thông là ấm áp và thoải mái hơn nhưng nghệ thuật cao cấp lại lạnh lẽo và không thoải mái, trong khi những người có chuyên môn lại thể hiện trái ngược. Những người có chuyên môn tìm ở nghệ thuật tính thử thách kinh nghiệm, những người không chuyên lại ngắm nhìn nghệ thuật vì sự thoải mái. Hệ thống ưu tiên đối với việc xem tranh chân dung [3/4 mặt trái hoặc mặt phải] đã được tìm ra thông qua các phương tiện truyền thông, tính nghệ thuật, phong cách, giới tính và lịch sử thời đại. Cả khuynh hướng dựa trên kinh nghiệm và thiên hướng bẩm sinh được đề xuất để giải thích cho cơ sở ưu tiên. Các nghiên cứu sâu hơn kiểm soát các biến số như giới tính và sự thuận tay, cũng như các hoạt động diễn ra của bán cầu đã chỉ ra rằng những ưu tiên này có thể nghiên cứu được qua nhiều thông số cấu trúc.

Chuyển động của mắtSửa đổi

Để điều tra liệu các nhà chuyên môn và người không chuyên trải nghiệm nghệ thuật một cách khác biệt ngay cả đối với sự chuyển động của đôi mắt, các nhà nghiên cứu một dụng cụ theo dõi mắt để quan sát nếu có sự khác biệt nào trong cách họ nhìn một tác phẩm nghệ thuật. Sau khi quan sát mỗi tác phẩm, người xem đánh giá mức độ ưa thích và phản ứng cảm xúc đối với tác phẩm. Một số tác phẩm được trình bày với các thông tin bằng lời nói của các tác phẩm, một nửa trong số đó là các thông tin trung tính và một nửa kia là các thông tin cảm xúc về tác phẩm. Họ nhận thấy rằng người không chuyên ít nhất đánh giá các tác phẩm trừu tượng là đáng ưu tiên hơn, trong khi mức độ trừu tượng không quan trọng đối với các chuyên gia. Thông qua cả hai nhóm, đường chuyển động của mắt thết hiện nhiều điểm cố định hơn với tác phẩm trừu tượng nhiều hơn, nhưng mỗi điểm cố định có thời gian ngắn hơn đối với các tác phẩm ít trừu tượng hơn. Tính chuyên môn ảnh hưởng tới cách người tham gia suy nghĩ về tác phẩm, nhưng không ảnh hưởng gì tới cách họ quan sát vật lý các tác phẩm.

Trong một nghiên cứu khác về biểu đồ chuyển động vật lý để điều tra cách các chuyên gia quan sát nghệ thuật, người tham gia được xem tác phẩm nghệ thuật thực tế và trừu tượng trong hai điều kiện: thứ nhất yêu cầu họ tự do quan sát tác phẩm, và điều kiện còn lại yêu cầu họ phải ghi nhớ chúng. Chuyển động mắt của người tham gia được theo dõi giống nhau khi họ xem xét hình ảnh cũng như cố gắng để ghi nhớ chúng, và hồi tưởng để ghi nhớ bức tranh cũng được ghi lại. các nhà nghiên cứu không tìm thấy bất kì sự khác biệt nào về tần số và thời gian của sự cố định giữa các loại tranh với các chuyên gia và người không chuyên. Tuy nhiên, qua nhiều giai đoạn, những người không chuyên có nhiều điểm cố định ngắn trong khi quan sát tự do các tác phẩm và có ít điểm cố định dài trong khi cố gắng ghi nhớ; các chuyên gia lại tuân theo một mô hình trái ngược. Không hề có sự khác biệt rõ ràng trong sự ghi nhớ hình ảnh giữa các nhóm, ngoại trừ việc các chuyên gia ghi nhớ các hình ảnh trừu tượng tốt hơn những người không chuyên và nhiều hình ảnh chi tiết hơn. Những kết quả này thể hiện rằng những người có chuyên môn nghệ thuật quan sát lặp lại các hình ảnh ít hơn người không chuyên và có thể ghi nhớ nhiều chi tiết của hình ảnh họ đã được xem trước đó hơn

Mức độ trừu tượngSửa đổi

Phản ứng thẩm mỹ có thể được đo lường dựa trên nhiều tiêu chí ví dụ như kích thích, sở thích, và sự thấu hiểu. Nghệ thuật có thể được đánh giá dựa trên mức độ trừu tượng của nó hoặc đặt vào thời đại. Một thích nghiệm kiểm tra bằng cách nào những yếu tố này kết hợp để tạo ra đánh giá cao về thẩm mỹ bao gồm cả những chuyên gia và người không chuyên đánh giá giá trị của cảm xúc, sự hưng phấn, sở thích và thấu hiểu về trừu tượng, tác phẩm hiện đại và cố điển. Các chuyên gia chứng minh mức độ đánh giá cao hơn với đánh giá cao hơn về tất cả các phương diện, ngoại trừ kích thích với tác phẩm cổ điển. Các tác phẩm cổ điển mang lại đánh giá sự thấu hiểu cao hơn, với nghệ thuật trừu tượng lại nhận giá trị thấp nhất. Tuy nhiên, giá trị cảm xúc cao hơn đối với nghệ thuật hiện đại và cổ điển, trong khi kích thích cao nhất lại dành cho các tác phẩm trừu tượng. Mặc dù các chuyên gia đánh giá các tác phẩm tổng thể cao hơn, nhưng mỗi yếu tố lại ảnh hưởng nhiều hơn tới đánh giá của người không chuyên, tạo ra một sự linh hoạt lớn trong đánh giá của họ so với những điều này ở các chuyên gia

Một thí nghiệm khác kiểm tra hiệu quả của màu sắc và mức độ thực tế trong nhận thức của nghệ thuật với các mức độ khác nhau về chuyên môn. Các kích thích của nhóm người xem là chuyên gia, bán chuyên nghiệp và không chuyên bao gồm các phiên bản của các bức tranh tượng trưng đa dạng về màu sắc và sự trừu tượng. Người tham gia đánh giá mức độ kích thích dựa trên ưu tiên tổng thể của họ, tính trừu tượng, thuộc tính màu sắc, sự cân bằng và tính phức tạp. Các bức tranh tượng trưng được ưa thích hơn các bức tranh trừu tượng với sự giảm sút chuyên môn và các bức tranh nhiều màu sắc được ưa chuộng hơn các bức ảnh đen trắng. Tuy nhiên, các chuyên gia lại ưa thích các bức tranh đen trắng hơn các bức tranh nhiều màu sắc hơn những người không chuyên và bán chuyên. Điều này chỉ ra rằng các chuyên gia có thể quan sát nghệ thuật với mẫu nhận thức, trong khi người không chuyên quan sát nghệ thuật để tìm kiếm sự quen thuộc và thoải mái.

Yếu tố khácSửa đổi

Một thí nghiệm nghiên cứu kết quả của chuyên gia đối với nhận thức và giải thích về nghệ thuật có chuyên ngành lịch sử nghệ thuật và sinh viên tâm lý học xem mười bức tranh nghệ thuật đương đại với nhiều phong cách. Sau đó, họ nhóm các bức tranh lại theo bất cứu tiêu đề nào họ nghĩ là hợp lý. Thông tin được mã hóa để phân loại thành các mục và so sánh giữa chuyên gia và người không chuyên. Chuyên gia chia sự phân loại của họ thành nhiều nhóm hơn những người không chuyên và nhóm chúng theo phong cách, trong khi người không chuyên dựa trên kinh nghiệm và cảm nhận cá nhân.

Thông tin tiêu đềSửa đổi

Tiêu đề không chỉ đơn giản có chức năng như một phương tiện để nhận diện mà còn chỉ dẫn cho quá trình giải thích và thấu hiểu tác phẩm nghệ thuật. Sự thay đổi thông tin tiêu đề của một bức tranh đường như không ảnh hưởng tới chuyển động của mắt khi nhìn chúng hay cách đối tượng giải thích tổ chức không gian của chúng. Tuy nhiên, tiêu đề ảnh hưởng đến cảm nhận ý nghĩa. Trong một nghiên cứu, người tham gia được hướng dẫn để mô tả bức tranh bằng cách sử dụng đèn pin để chỉ ra điểm mà họ đang nhìn vào. Người tham gia lặp lại nhiệm vụ này đối với cùng một bộ tranh trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn thứ hai, một số bức tranh được trình bày với tiêu đề mới để đánh giá sự phù hợp đối với mô tả của họ. Giống như dự kiến, đói tượng không thay đổi điểm nhìn trung tâm nhưng họ đã thay đổi các mô tả của mình theo cách làm chúng hợp lý với tiêu đề mới.

Có thể mô tả có thể thay đổi, nhưng đánh giá thẩm mỹ đối với cả nghệ thuật trừu tượng và tượng trưng vẫn duy trì ổn định, bỏ qua sự khác biệt thông tin tiêu đề. Điều này cho thấy rằng quan hệ từ ngữ/hình ảnh có thể thúc đẩy sự thay đổi của hình thức thấu hiểu nghệ thuật, nhưng không chịu trách nhiệm việc chúng ta thích các tác phẩm đó như thế nào.

Một ví dụ nổi tiếng về sự nhầm lẫn tiêu đề thay đổi mối quan hệ tiêu đề/hình ảnh của tác phẩm là bức tranh mang tên La trahison des inmages [Sự phản bội của hình ảnh] của René Magritte, mà thường được gọi lại "Đây không phải một đường ống", mặc dù nó không được coi là một tiêu đề. Trong trường hợp này, hai sự khác biệt trong ý đồ và nội dung phụ thuộc vào việc chọn tiêu đề nào để đi cùng nó.

Nhìn chung, tiêu đề ngẫn nhiên mà không phải tiêu đề gốc giảm sự đánh giá sự thấu hiểu nhưng không thay đổi đáng kể kinh nghiệm thẩm mỹ. Tuy nhiên, trái ngược với mô tả, tiêu đề tương đối quan trọng trong việc giúp người xem gán ý nghĩa cho nghệ thuật trừu tượng. Các tiêu đề có tính mô tả tăng cường sự thấu hiểu về nghệ thuật trừu tượng chỉ khi người xem được quan sát với một thười gian cực ngắn [ít hơn 10 giây]. Bởi nghệ thuật có thể có nhiều tuầng ý nghĩa, tiêu đề và những thông tin kèm theo có thể bổ sung sự ý nghĩa của nó và vì sau đó là giá trị thưởng thức của nó.

Ứng dụngSửa đổi

Những khám phá của tâm lý nghệ thuật có thể ứng dụng vào nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Quá trình sáng tạo ra nghệ thuật mang lại cái nhìn sâu sắc về những điều bên trong tâm trí con người. Người ta có thể có được các thông tin về đạo đức nghề nghiệp, động lực làm việc và cảm cảm hứng từ quá trình làm việc của một nghệ sĩ. Những khía cạnh chung nàu có thể chuyển thành các lĩnh vực khác trong đời sống của một người. Đặc biệt đạo đức nghề nghiệp trong nghệ thuật có thể tác động đáng kể đến tổng hiệu suất của một người ở những nơi khác. Trong bất kì công việc nào cũng có một sự kích lệ tiềm ẩn các giới hạn thẩm mỹ của tâm trí. Hơn nữa, nghệ thuật bất chấp bất kì ranh giới cố định nào. Ứng dụng tương tự nào đối với một công việc như vậy cũng chính là kinh nghiệm thẩm mỹ.

Các ứng dụng của tâm lý học nghệ thuật trong giáo dục có thể cải thiện hiểu biết trực quan

Phê bìnhSửa đổi

Tâm lý nghệ thuật có thể là lĩnh vực bị chỉ trích bởi nhiều lý do. Nghệ thuật không được coi là một môn khoa học, vì thế nghiên cứu có thể bị xem xét kỹ lưỡng về tính chính xác và tính tương đối của nó. Ngoài ra còn có rất nhiều chỉ trích về việc nghiên cứu nghệ thuật như là tâm lý học vì nó có thể được coi là một chuyên đề hơn là một đối tượng. Nó thể hiện cảm xúc của người nghệ sĩ theo cách thức quan sát và khán giả cũng giải thích các tác phẩm theo nhiều cách. Mục đích của các nghệ sĩ khác biệt khá lớn so với mục đích của các nhà khoa học. Các nhà khoa học muốn đề xuất một kết quả cho một vấn đề, trong khi các nghệ sĩ muốn đưa đến nhiều cách lý giải cho một vật thể. Cảm hứng của một nghệ sĩ được xuyên suốt qua kinh nghiệm, cảm nhận và quan điểm về phong trào nghệ thuật của thế giới giống như Chủ nghĩa biểu hiện được biết đến vì với quan điểm của cá nghệ sĩ về cảm xúc, sự căng thẳng, áp lực và nội lực bên trong mà được thể hiện qua các điều kiện bên ngoài. Nghệ thuật đến từ bản thân một người và được thể hiện ra thế giới bên ngoài để giải trí cho người khác. Bất kì ai cũng có thể đánh giá cao một tác phẩm nghệ thuật vì nó giao tiếp với mỗi các nhân theo một cách riêng biệt – bao gồm cả những đánh giá của chủ quan.[4]

Ngoài ra kinh nghiệm thẩm mỹ của nghệ thuật cũng bị chỉ trích một cách nặng nề vì nó không thể xác định một cách khoa học. Nó hoàn toàn là chủ quan và dựa vào sự thiên vị cá nhân. Nó không thể được đo lường bằng các hình thức hữu hình. Ngược lại, kinh nghiệm thẩm mỹ có thể được coi là "động lực cá nhân" và "khép kín".[5]

Tham khảoSửa đổi

  • Lev Vygotsky. The Psychology of Art. 1925 / 1965 / 1968 / 1971 / 1986 / 2004.
  • Mark Jarzombek, The Psychologizing of Modernity. Cambridge University Press, 2000, ISBN
  • Alan Ryan, John Dewey and the High Time of American Liberalism. W.W. Norton 1995, ISBN
  • David Cycleback, Art Perception. Hamerweit Books, 2014
  • Michael Podro, The Critical Historians of Art, Yale University Press, 1982. ISBN

Chú thíchSửa đổi

  1. ^ Erickson, K [1998]. At Eternity's Gate: The Spiritual Vision Of Vincent Van Gogh. Grand Rapids, MI: William B. Eerdsman Publishing. tr.103, 148. ISBN0-8028-3856-1.
  2. ^ Mark Jarzombek. The Psychologizing of Modernity [Cambridge University Press, 2000]
  3. ^ Alan Ryan, John Dewey and the High Time of American Liberalism. W.W. Norton 1995.
  4. ^ Rahmatabadi, Saeid; Toushmalani, Reza [2011]. “Physical Order and Disorder in Expressionist Architecture Style” [PDF]. Australian Journal of Basic and Applied Sciences. 5 [9]: 406–409. ISSN1991-8178.
  5. ^ Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên B & S

Video liên quan

Chủ Đề