Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý dự án đầu tư xây dựng

1. Các nhân tố luật pháp

Mọi hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng ngoài việc chịu tác động của quy luật kinh tế thị trường cần tuân thủ luật pháp và hoạt đông trong khuôn khổ luật pháp. Đối với doanh nghiệp, mỗi dự án đầu tư hoạt động trong môi trường kinh tế của một quốc gia cần tuân thủ những quy định của hệ thống luật pháp nước đó. Đối với Việt Nam, các doanh nghiệp và dự án vận hành trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì những đặc trưng của hệ thống luật pháp xã hội chủ nghĩa sẽ ảnh hưởng đến những hành vi cụ thể về tổ chức, quản lý của các doanh nghiệp và dự án đó.

Đối với một dự án cụ thể hoạt động trong một ngành, một lĩnh vực nhất định, trước hết về phương diện tổ chức, quản lý, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, xem xét hệ thống pháp luật hiện hành của nhà nước, các quy định riêng của từng ngành, từng địa phương trong mối quan hệ ràng buộc về mặt tổ chức, sản xuất, lao động,  bảo vệ môi trường, quan hệ sinh hoạt xã hội cũng như những mặt thuận lợi và trở ngại cho việc huy động các nguồn lực của dự án ở hiện tại và trong tương lai. Thoát ly nhân tố luật pháp hoặc không dự kiến đầy đủ các yếu tố luật pháp trong quá trình lập dự án sẽ mang lại những hậu quả không nhỏ trong quá trình tổ chức, điều hành bộ máy quản lý dự án sau này.

2. Các nhân tố về tổ chức

Nhân tố tổ chức không chỉ ảnh hưởng đến nội dung công tác tổ chức quản lý dự án mà ngay cả đối với sự hình thành bộ máy quản trị vận hạnh kết quả đầu tư trong tương lai.

Nhân tố tổ chức là các nhân tố được quy định bằng những quy ước chuẩn mực hiện hành mang tính ràng buộc về mặt tổ chức. Những nhân tố tổ chức có ảnh hưởng đến nội dung tổ chức quản trị dự án mà chúng ta thường gặp như những hình thức tổ chức xã hội [tập trung hóa, chuyên môn hóa, liên kết hóa và hợp tác hóa], các hình thức tổ chức liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư…

Chẳng hạn, một dự án định hướng đầu tư vào ngành sản xuất xe máy ở khâu lắp ráp. Trong trường hợp này, việc tổ chức bộ máy quản trị của doanh nghiệp phải chú ý đến nhân tố chuyên môn hóa ở khâu lắp ráp và nhân tố hợp tác ở khâu cung ứng bán xe máy thành phẩm trong mối quan hệ với bên ngoài.

Cũng cần thấy rằng, những nhân tố luật pháp, kinh tế, tổ chức trong quá trình ảnh hưởng đến tổ chức quản trị dự án thường xảy ra đồng thời và đan xen lẫn nhau. Vì vậy, khi nghiên cứu lập dự án trên phương diện quản trị không nên quá nhấn mạnh một nhân tố nào đó mà xem nhẹ các nhân tố khác. Điều đó sẽ dẫn đến những sai phạm khó tránh khỏi trong việc xây dựng bộ máy điều hành dự án trong quá trình vận hành sau  này.

3. Các nhân tố kinh tế

Bên cạnh các nhân tố luật pháp và tổ chức thì một số nhân tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến khía cạnh tổ chức, quản lý và nhân sự của một dự án. Trình độ phát triển kinh tế, quan hệ sở hữu có ảnh hưởng trực tiếp đến khía cạnh tổ chức của một dự án. Rõ ràng do hạn chế về trình độ phát triển, năng lực quản lý của các chủ đầu tư tại các khu vực kém phát triển sẽ hạn chế áp dụng các mô hình và công cụ quản lý tiên tiến. Quyền sở hữu tài sản và vốn trong hầu hết các trường hợp đều có thể ảnh hưởng đến mô hình quản lý điều hành cụ thể của một dự án đầu tư. Bên cạnh đó, sự tác động của các biến số kinh tế vĩ mô [tăng trưởng, lạm phát, thất nghiệp] trong chừng mực nhất định có thể ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức và quản lý. Các nhân tố này có thể xảy ra trong phạm vị một quốc gia hoặc trên phạm vi toàn cầu.

Giáo trình Lập Dự Án Đầu Tư GS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt [quantri.vn biên tập và số hóa]

Xây dựng cơ bản thường được tiến hành ngoài trời , do đó nó chịu ảnh hưởng của điều kiện khí hậu. Ở mỗi vùng, mỗi lãnh thổ có điều kiện tự nhiên khác nhau, từ đó mà nó cho phép khai thác các kiến trúc phù hợp với điều kiện thực tế.

Khả năng huy động và sử dụng vốn đầu tư Xây dựng cơ bản có hiệu quả

Vốn là yếu tố vật chất quan trọng trong các yếu tố tác động đến tăng trưởng. Nguồn vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào của sản xuất , muốn đạt được tốc độ tăng trưởng GDP theo dự kiến thì cần phải giải quyết mối quan hệ cung cầu về vốn và các yếu tố khác. Trong nền kinh tế thị trường. vốn là một hàng hoá “đặc biệt “, mà đã là hàng hoá thì tât yếu phải vận đọng theo một quy luật chung là lượng cầu vốn thường lớn hơn lượng cung về vốn . Do đó , muốn khai thác tốt nhất các nhân tố cung về vốn để thoả mãn như cầu về vốn trong nền kinh tế . Huy động đợpc nhưng cần xây dựng các phương án sử dụng vốn đúng mục đích và có kế hoạch , tránh thất thoát lãng phí.

Công tác kế hoạch hoá vừa là nội dung vừa là công cụ để quản lý hoạt động đầu tư . Trong nền kinh tế thị trường công tác kế hoạch hoá có vai trò rất quan trọng. Nếu buông lỏng công tác kế hoạch hoá thì thị thường sẽ phát triển tự do , thiếu định hướng gây ra những tác động tiêu cực, tác động xấu đến nền kinh tế.

Kế hoạch hoá phải quán triệt những nguyên tắc :

-Kế hoạch hoá phải xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế

-Kế hoạch hoá đầu tư phải dựa vào các định hướng phát triển lâu dài của đất nước, phù hợp với các quy định của pháp luật

-Kế hoạch hoá phải dựa trên khả năng huy động các nguồn lực trong và ngoài nước

-Kế hoạch hoá phải có mục tiêu rõ rệt

-Kế hoạch hoá phải đảm bảo được tính khoa học và tính đồng bộ

-Kế hoạch hoá phải có tính linh hoạt kịp thời

-Kế hoạch phải có tính linh hoạt gối đầu

-Kế hoạch hoá phải kết hợp tốt kế hoạch năm và kế hoạch dài hạn.

-Kế hoạch hoá phái có độ tin cậy và tính tối ưu

-Kế hoạch đầu tư trực tiếp phải được xây dựng từ dưới lên

-Kế hoạch định hướng của nhà nước phải là kế hoạch chủ yếu

Nhân tố này tác động trên các khía cạnh là:

-Khi xây dựng các dự án phải đúng các chủ trương đầu tư thì mới quyết định đầu tư .

-Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm đối với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trong hoạt động đầu tư Xây dựng cơ bản

-Đảm bảo tính chính xác trong thiết kế: Trong khâu này cần có tổ chức chuyên môn có đủ tư cách pháp nhân, uy tín nghề nghiệp lập theo tiêu chuẩn của nhà nước ban hành. Thực tế có rất nhiều công trình xấu kém chất lượng, do lỗi của nhà thiết kế. Đây là nguyên nhân gây ra tình trạng thất thoát lãng phí nguồn vốn đầu tư Xây dựng cơ bản

-Nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu: Đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà thầy đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Lợi ích của hình thức này là chọn được nhà thầu có phương án đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật của công trình và có chi phí tài chính thấp nhất.

Đây là nhân tố tác động trực tiếp đến công tác Xây dựng cơ bản , hoạt động đầu tư rất phức tạp và đa dạng , liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp , nhiều lĩnh vực. Vì vậy cán bộ , công nhân lao động trong xây dựng cơ bản cần phải có khả năng , đào tạo kỹ , hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao.

Ở bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào , con người vẫn là trung tâm của mọi sự phát triển, nhất là thời đại ngày nay, thời đại công nghiệp hoá - hiện đại hoá, việc chăm lo đầy đủ cho con người là đảm bảo chắc chắn cho sự phồn vinh và thịnh vượng . Công nghiệp hóa, hiện đại hoá và cách mạng con người là hai mặt của quá trình thống nhất . Đầu tư Xây dựng cơ bản là một lĩnh vực có vị trí quan trọng trong việc tạo đà phát triển kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, theo chủ trương chính sách của Đảng. Thực

hiện tốt quá trình đầu tư Xây dựng cơ bản sẽ đem lại được hiệu quả cao nhất.

Thứ ba,16/03/2021 11:40

Xem với cỡ chữ

Tóm tắt: Trên thế giới, hình thức đối tác công tư [PPP] được xem như là một trong những giải pháp hữu hiệu để chia sẻ gánh nặng đầu tư công với Chính phủ của các nước. Đối với lĩnh vực y tế, hình thức đối tác công tư đã được áp dụng khá thành công tại nhiều nước, mang lại những lợi ích to lớn về an sinh xã hội, nâng cao chất lượng sống của người dân. Bài viết nghiên cứu và tổng hợp một số yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP nhằm rút ra những bài học cho Việt Nam.

Công trình y tế nói chung, công trình bệnh viện nói riêng là loại hình công trình xây dựng đặc thù, liên quan đến sức khỏe, tính mạng của người dân, do vậy công tác quản lý đầu tư xây dựng ảnh hưởng lớn từ yếu tố kỹ thuật gắn chặt với yếu tố chuyên môn y tế, chất lượng xây dựng cũng như đảm bảo tính hiệu quả trong đầu tư. Quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP được áp dụng rộng rãi trên thế giới và đạt được nhiều thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.

1. Yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế tại một số nước

1.1. Australia [Úc]

Ở Australia, đầu tư xây dựng công trình trong lĩnh vực y tế theo hình thức PPP đã góp phần giảm chi phí vượt ngân sách từ 18% xuống 4,3%, tỷ lệ chậm tiến độ giảm từ 25,9% xuống 1,4% so với các dự án thực hiện đầu tư xây dựng theo phương thức truyền thống. Việc quản lý đầu tư xây dựng công trình theo hình thức PPP được áp dụng lần đầu tiên tại Úc từ năm 1985, khi Chính phủ bắt đầu có ý tưởng thỏa thuận với đối tác tư nhân để xây dựng đường hầm qua cảng Sydney. Sau đó, hình thức này được áp dụng rộng rãi với các loại hình công trình xây dựng khác nhau, đặc biệt là đối với công trình y tế. Đến nay, Úc được coi là một trong những nước áp dụng thành công hình thức PPP trên thế giới.

[Bảng 1: Tiêu chí đánh giá Hồ sơ đề xuất quan tâm thực hiện dự án PPP tại Úc]

TT

Tiêu chí đánh giá

Tỷ trọng

1

Chi tiết về đơn vị đề xuất quan tâm: Chi tiết các thông tin theo quy định, các đơn vị liên doanh hoặc có khả năng liên doanh thực hiện dự án

Đánh giá dựa trên tiêu chí đạt/không đạt

2

Cơ cấu tài chính và quản lý rủi ro của dự án: Đánh giá mô hình kinh doanh, tình hình và sức mạnh tài chính của nhà đầu tư [và các chủ thể tham gia khác]; Khả năng, mức độ nhà đầu tư chấp nhận và quản lý rủi ro; Khả năng, mức độ nhà đầu tư hiểu và chấp nhận cơ chế tài chính được thanh toán bởi Chính quyền

15%

3

Kinh nghiệm về cơ sở hạ tầng xã hội [CSHT XH] và chiến lược phát triển lâu dài: Đánh giá mức độ hiểu biết, kinh nghiệm của nhà đầu tư [và các chủ thể tham gia khác] về phát triển CSHT XH theo hình thức PPP [đặc biệt là PPP trong y tế], về khả năng QLVH hệ thống hạ tầng và mức độ phù hợp giữa chiến lược phát triển của nhà đầu tư có tương xứng với mục tiêu của dự án.

15%

4

Thiết kế và Xây dựng: Đánh giá kinh nghiệm của nhà đầu tư [và các chủ thể tham gia khác] trong việc thiết kế và xây dựng phù hợp với loại hình công trình và quy mô của dự án. Đánh giá khả năng quản lý, hiểu biết các yêu cầu và thực hiện dự án.

25%

5

Cơ sở vật chất và trang thiết bị sử dụng: Đánh giá việc huy động, sử dụng để thực hiện dự án theo loại hình công trình và quy mô của dự án.

25%

6

Tài chính dự án: Đánh giá khả năng tài chính của nhà đầu tư [và các chủ thể tham gia khác] trong việc huy động và sử dụng trực tiếp vào dự án.

15%

7

Khả năng hoàn thành dự án: Mức độ cam kết của nhà đầu tư [và các chủ thể tham gia khác] trong việc hoàn thành dự án theo đúng tiến độ, kế hoạch.

5%

[Bảng 2: Tiêu chí đánh giá Hồ sơ đề xuất chi tiết]

TT

Tiêu chí đánh giá

Tỷ trọng [%]

1

Thiết kế, xây dựng và vận hành thử công trình

35%

2

Chuyển giao dịch vụ

35%

3

Tiêu chí thương mại

15%

4

Tiêu chí tài chính

15%

5

Tiêu chí đánh giá bổ sung khác [nếu có]

Tổng kết một số nghiên cứu, phân tích về lựa chọn nhà đầu tư quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế tại Úc cho thấy một số nguyên nhân thành công như sau:

- Quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức PPP được thực hiện phổ biến tại Úc theo hình thức hợp đồng BOOT rất chặt chẽ, từ giai đoạn đấu thầu đến khi thương thảo, đàm phán ký kết hợp đồng.

- Việc đảm bảo sự ổn định của chiến lược phát triển kinh tế xã hội cũng như quy hoạch xây dựng bệnh viện đã tạo môi trường đầu tư minh bạch, lành mạnh cho các nhà đầu tư tư nhân. Chính sách điều hành nền kinh tế của Úc đảm bảo các dịch vụ công được điều tiết hài hòa theo quy luật cung - cầu. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo việc đầu tư xây dựng có hiệu quả về kinh tế và thu hút nhà đầu tư tư nhân.

- Việc thiếu hụt dịch vụ y tế sẽ ảnh hưởng đến chi phí chi trả của bên thứ 3 [người dân]. Một bệnh viện [công trình y tế] mới được đầu tư xây dựng tốt sẽ giải quyết được tập trung của người dân khi khám chữa bệnh, giảm chi phí đi lại khám chữa bệnh, tuy nhiên nếu chi phí khám chữa bệnh giữa hệ thống bệnh viện công và bệnh viện tư quá chênh lệch sẽ khiến cho người tiêu dùng không sử dụng dịch vụ và công trình y tế sẽ thất bại. Dưới góc độ kinh tế thị trường, người tiêu dùng sẽ có quyền lựa chọn dịch vụ, chất lượng tốt nhất phù hợp với chi phí mà họ phải bỏ ra.

- Bộ máy quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng tại Úc tương đối đồng bộ và thống nhất. Các chính sách được linh hoạt trong xác xử lý vấn đề giúp các nhà đầu tư giải quyết những bất cập, khó khăn một cách nhanh chóng phù hợp với đặc điểm kinh tế xã hội của từng địa phương triển khai dự án.

- Quản lý rủi ro trong đầu tư xây dựng công trình y tế: Nhận thức của Chính phủ về quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP được thể hiện qua việc quy định phân bổ rủi ro khi thực hiện dự án, giúp các bên có liên quan có thể quản trị rủi ro một cách hiệu quả nhất.

[Bảng 3: Phân bổ rủi ro trong đầu tư xây dựng công trình y tế]

Loại rủi ro

Nhà nước

Tư nhân

Rủi ro về thị trường

x

Rủi ro về thiết kế

x

Rủi ro về tài chính

x

Rủi ro về pháp lý [tuân thủ đúng quy định]

x

Rủi ro về xây dựng

x

Rủi ro về chấp thuận phê duyệt dự án

x

x

Rủi ro về địa chất

x

Rủi ro về quyền sử dụng đất [GPMB]

x

Rủi ro về vận hành và bảo hành công trình

x

Rủi ro về luật pháp, thay đổi chính sách, thể chế

x

Rủi ro bất khả kháng

x

Rủi ro về quyền sở hữu tài sản

x

- Thời gian thực hiện dự án PPP: Là yếu tố quan trọng xác định chỉ tiêu kinh tế được xác định trên cơ sở doanh thu, lợi nhuận. Trong nhiều trường hợp, yếu tố thời gian có thể được xác định như là phần thưởng cho nhà đầu tư tư nhân khi rút ngắn thời gian xây dựng hoặc bù đắp cho một yếu tố bất lợi của dự án do nhà nước mang lại. Bên cạnh đó, việc xác định thời gian thực hiện hợp đồng còn là động lực để tư nhân hoàn thiện công trình sớm hơn kế hoạch nhằm tăng lợi nhuận.

1.2. Thổ Nhĩ Kỳ

Trước đây, hệ thống hạ tầng y tế tại Thổ Nhỹ Kỳ bị xuống cấp nghiêm trọng và không đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. Số lượng giường bệnh chỉ có 2,6/1000 người dân, trong khi đó so sánh với các nước thuộc khối OECD là 4,8/1000 người. Theo đánh giá của Chính phủ, Thổ Nhỹ Kỳ dự kiến cần đầu tư xây dựng thêm 90.000 giường bệnh đến năm 2023 để đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Trong khi đó nguồn lực đầu tư xây dựng lại rất hạn chế. Việc quản lý đầu tư xây dựng các bệnh viện theo hình thức PPP tại Thổ Nhỹ Kỳ được thực hiện theo Chương trình đối tác công tư trong lĩnh vực y tế được Chính phủ phê duyệt năm 2010, quy định các dự án có vòng đời khoảng 28-28,5 năm, trong đó: Thời gian xây dựng từ 3-3,5 năm và thời gian quản lý, vận hành trung bình là 26 năm. Trong trường hợp dự án được hoàn thành đưa vào sử dụng sớm hơn so với dự kiến thì toàn bộ chi phí, lợi nhuận thu được từ khoảng thời gian “đẩy nhanh tiến độ” này được tính vào lợi nhuận của nhà đầu tư [được quy định cụ thể trong Điều khoản hợp đồng quản lý đầu tư xây dựng dự án].

Công ty dự án sẽ nhận dạng được thanh toán chi phí từ nhà nước dựa trên điều kiện thực tế của từng dự án, quy định theo thời điểm định kỳ, bao gồm thanh toán cố định và thanh toán linh hoạt trong suốt vòng đời của dự án.

- Thanh toán cố định: Áp dụng đối với các chi phí xây dựng, được xác định theo sự kiểm soát của nhà nước.

- Thanh toán linh hoạt: Áp dụng đối với chi phí quản lý, vận hành. Việc kiểm soát thanh toán được Bộ Y tế thực hiện theo từng giai đoạn 5 năm dựa trên kết quả điều tra, đánh giá thực tế [không bao gồm các khoản mục sửa chữa đặc biệt].

Chính sách quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế tại Thổ Nhỹ Kỳ được dựa trên Luật Dịch vụ y tế cơ bản năm 2005. Tuy nhiên, văn bản pháp lý này không đủ chặt chẽ để quy định toàn bộ các khung pháp lý cần thiết cho việc ký kết thỏa thuận dự án, quyết toán dự án [trong trường hợp thực hiện theo hình thức PPP]. Trước những bất cập đó, Chính phủ Thổ Nhỹ Kỳ đã ban hành Luật đầu tư xây dựng theo hình thức BLT [Xây dựng, Cho thuê và Chuyển giao] vào năm 2013 để hoàn thiện khung pháp lý cho việc đầu tư xây dựng các bệnh viện theo hình thức PPP. Điều 7 Luật Đầu tư xây dựng theo hình thức BLT quy định chỉ bắt đầu có hiệu lực đối với các dự án được triển khai ở giai đoạn 2 và được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những dự án đã được triển khai ở giai đoạn 1. Sau khi ban hành Luật Đầu tư xây dựng theo hình thức BLT, các thỏa thuận dự án triển khai giai đoạn 1 đã được hoàn thiện và ký kết giữa các bên liên quan. Đến cuối năm 2014, một số dự án giai đoạn 1 đã được quyết toán và đưa vào sử dụng.

[Bảng 5: Một số dự án bệnh viện được quản lý ĐTXD theo hình thức PPP tại Thổ Nhỹ Kỳ]

TT

Dự án

Thông tin dự án

Quy mô giường bệnh

1

Kayseri Integrated Health Campus

Đang trong giai đoạn xây dựng.

1.584

2

Ankara Etlik Integrated Health Campus

Đang trong giai đoạn xây dựng

3.566

3

Ankara Bilkent Integrated Health Campus

Đang trong giai đoạn xây dựng

3.660

4

Mersin Integrated Health Campus

Dự án bắt đầu khai thác, vận hành từ Q1/2017

1.253

5

Elazig Integrated Health Campus

Đang trong giai đoạn xây dựng.

1.038

Từ số liệu thống kê cho thấy công tác quản lý đầu tư xây dựng công trình bệnh viện theo hình thức PPP được áp dụng khá phổ biến trong lĩnh vực y tế. Kết quả nghiên cứu của Sule Topcu Killic [2015] chỉ ra việc quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức PPP thành công là do cơ chế đấu thầu dự án đã được minh bạch, được công bố trên các tờ báo quốc tế cũng như trang web của Bộ Y tế, do đó, được công nhận bởi các nhà đầu tư và tổ chức quốc tế. Quy trình này cụ thể như sau:

- Giai đoạn sơ tuyển: Các bên quan tâm nộp tài liệu chứng minh đáp ứng các tiêu chí sơ tuyển [tiêu chí kỹ thuật, tiêu chí tài chính]. Cơ quan đấu thầu dự án PPP sẽ đánh giá tất cả các hồ sơ và xác định danh sách dài các nhà thầu đủ điều kiện và công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng.

- Giai đoạn gửi đề nghị: Các nhà thầu qua giai đoạn sơ tuyển được Bộ Y tế cung cấp thiết kế sơ bộ dự án và sau đó được mời gửi đề nghị kỹ thuật và tài chính theo các quy định khác nhau. Dựa trên các hồ sơ đề nghị được gửi, Cơ quan đấu thầu sẽ đánh giá các nhà thầu theo các tiêu chí chặt chẽ, xếp hạng theo thứ tự tốt nhất và đưa vào danh sách rút gọn.

- Đệ trình ưu đãi trong danh sách rút gọn: Các nhà thầu trong danh sách rút gọn sau đó được yêu cầu lập lại phương án tài chính sau khi có kết quả đánh giá của giai đoạn gửi đề nghị nhằm nâng cao tính khả thi của phương án.

- Đấu giá dự án: Các nhà thầu sẽ đấu thầu với nhau theo hình thức “đấu giá Hà Lan”. Theo đó, các nhà thầu chứng minh khả năng góp vốn tự có và phương án thanh toán giá dịch vụ thấp nhất thông qua nhiều vòng thương lượng, trực tiếp. Các nhà thầu có thể thay đổi các cam kết, phương án nhằm đưa ra phương án tối ưu nhất để lựa chọn nhà thầu ưu tiên.

- Thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu ưu tiên: sau kết quả đấu giá dự án, cơ quan đấu thầu tại Bộ Y tế sẽ thương thảo trực tiếp với Nhà thầu để đàm phán khả năng góp vốn tự có, mức độ chia sẻ/đóng góp nguồn lực của các bên tham gia. Sau đó, cơ quan đấu thầu sẽ thông báo kết quả lựa chọn nhà thầu ưu tiên.

- Ký kết thỏa thuận dự án: Sau khi nhà thầu ưu tiên thành lập công ty dự án [SPV] và thực hiện các cam kết, bảo lãnh thực hiện quản lý đầu tư xây dựng dự án theo hình thức PPP thì thỏa thuận dự án sẽ được ký giữa SPV và Bộ Y tế.

Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cho phép áp dụng các mô hình quản lý đầu tư xây dựng khác nhau đối với công trình sử dụng vốn ngân sách như: bệnh viện, trường học [Trung học và Đại học], nhà ở sinh viên, nhà tù, và các trụ sở văn phòng của cơ quan nhà nước. Phần lớn các công trình được áp dụng theo hình thức DBOM, theo mô hình PFI của Vương Quốc Anh. Tuy nhiên, đối với công trình y tế thì Bộ Y tế quy định chặt chẽ hơn do quan điểm về cung cấp dịch vụ y tế tại Thổ Nhĩ Kỳ. Các dự án đầu tư xây dựng công trình bệnh viện tại Thổ Nhĩ Kỳ được áp dụng theo mô hình DBFLT [Thiết kế - Xây dựng - Tài chính - Cho thuê - Chuyển giao] với quy định thời gian theo mô hình 3+25. Nhà đầu tư chỉ tham gia vào giai đoạn đầu tư xây dựng và cung cấp các dịch vụ quản lý, vận hành các công việc không quan trọng. Các lĩnh vực chuyên môn cao, đặc thù vẫn được cung cấp bởi Bộ Y tế.

2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức đối tác công tư

Quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP cần phải được thiết lập với sự bền vững dài hạn, cân nhắc đến giá trị đồng tiền và mối quan tâm của các bên tham gia dự án theo các nhân tố ảnh hưởng sau:

2.1. Nguyên tắc quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP

Đòi hỏi cả hai bên đảm bảo được quyền lợi và đạt được mục tiêu riêng của mình. Khi nghiên cứu, phân tích đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức đối tác công tư thành công trên thế giới đều có chung một số nguyên tắc nhất định như sau:

- Nguyên tắc hiệu quả: Việc sử dụng hiệu quả ưu điểm của các đối tác tham gia đầu tư xây dựng là một trong những lý do chính để áp dụng hình thức PPP. Nhà nước có thế mạnh là đối tác quản lý công [chính sách, thủ tục, hành chính…] trong khi đó tư nhân có thế mạnh về nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý… Hai bên cùng hợp tác với nhau trong việc đầu tư xây dựng công trình được xem như là sự cộng hưởng về ưu điểm, nhằm tăng cường điều kiện thuận lợi thực hiện dự án. Do vậy, nguyên tắc hiệu quả thường được ưu tiên hàng đầu khi xét đến khả năng quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức đối tác công tư.

- Nguyên tắc lợi nhuận: Nhà đầu tư chỉ chấp nhận tham gia quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế khi nhận thấy giá trị đồng tiền đầu tư, cơ hội kinh doanh và các lợi nhuận khác. Trong khi đó, nhà nước lại quan tâm đến lợi ích dưới góc độ giảm gánh nặng ngân sách đầu tư xây dựng, hiệu quả xã hội mà dự án mang lại cho cộng đồng. Do vậy, việc phân chia lợi nhuận, trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện dự án là nguyên tắc quan trọng.

- Nguyên tắc rủi ro: Phân định một cách hợp lý các nhiệm vụ, nghĩa vụ và rủi ro cho đối tác tham gia quản lý đầu tư xây dựng. Việc phân bổ rủi ro cho bên nào có khả năng quản lý rủi ro tốt nhất là một trong những nguyên tắc chính. Nhà nước có thế mạnh về chính sách, cơ chế và tính pháp quyền, trong khi đó nhà đầu tư có thế mạnh về nguồn vốn, công nghệ và kỹ thuật quản lý, thực hiện dự án. Như là, nhà thầu thi công sẽ chịu rủi ro trong quá trình xây dựng, tư vấn thiết kế chịu rủi ro về thiết kế, nhà nước có trách nhiệm với rủi ro môi trường chính sách, giải phóng mặt bằng…Nguyên tắc này phản ánh bản chất của một mối quan hệ hợp tác, chia sẻ những khó khăn trong quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế và vì thế giảm thiểu được chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.

- Nguyên tắc bình đẳng: Khác với các hình thức đầu tư công, các bên tham gia quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP phải là các đối tác bình đẳng, có cùng trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện dự án đạt hiệu quả cao nhất. Trong mối quan hệ đối tác, đối tác nhà nước và tư nhân phải ở vị trí ngang hàng với nhau, không tồn tại cơ chế “xin - cho”. Nhà nước nhìn nhận đối tác tư nhân dưới góc độ nhà đầu tư tiềm năng, là đối tác giúp nhà nước giải quyết bất cập vấn đề đầu tư xây dựng công trình y tế, cung cấp dịch vụ công cho cộng đồng. Nguyên tắc bình đẳng chỉ được thực hiện hiệu quả khi hành lang pháp lý đầy đủ và toàn diện.

- Nguyên tắc cạnh tranh: Phải được xem xét từ khi đấu thầu thực hiện dự án. Cạnh tranh sẽ giúp đảm bảo việc chuyển giao có hiệu quả các rủi ro, các giải pháp tối ưu được thực hiện trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng công trình bởi khu vực tư nhân và giá trị thực hiện dự án hợp lý qua quá trình đấu thầu. Nếu tư nhân ở vai trò độc quyền thì hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng dự án, lợi ích của quan hệ đối tác công tư sẽ không được đảm bảo.

2.2. Cơ chế chính sách, hành lang pháp lý

Phân tích từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự thành công xuất phát từ chính sách minh bạch cũng như chủ trương thống nhất của đối tác nhà nước. Trong bối cảnh thiếu hụt vốn đầu tư xây dựng, Chính phủ các nước có quan điểm áp dụng quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức PPP và xác định đây là công cụ chính giúp nhà nước thu hút vốn đầu tư. Từ đó, bộ máy chính trị, cơ cấu tổ chức cũng như hành lang pháp lý được hình thành và hoàn thiện góp phần tạo ra môi trường đầu tư xây dựng hấp dẫn thu hút các nhà đầu tư tư nhân. Trong giai đoạn đầu, Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ cũng có những “thất bại” và “chịu thiệt thòi” trong quá trình đầu tư, hợp tác với khu vực tư nhân. Tuy nhiên, dần dần các vấn đề này đều được khắc phục và giảm thiểu theo thời gian sau khi có kinh nghiệm từ các dự án PPP trước đó. Chính phủ có những chính sách “mềm dẻo” nhằm điều chỉnh và vận dụng trong quá trình quản lý đầu tư xây dựng rất linh hoạt và hiệu quả.

2.3. Hình thức quản lý đầu tư xây dựng

Bản chất của quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức PPP là gắn liền với hình thức hợp đồng dự án. Đây là sự hợp tác dài hạn giữa nhà nước - tư nhân trong việc cung cấp các dịch vụ công với hiệu quả tốt nhất do đó sự hợp tác này được cam kết và ràng buộc bởi hợp đồng dài hạn giữa các bên tham gia ở từng giai đoạn thực hiện dự án. Hình thức hợp đồng được áp dụng tùy theo đặc điểm của dự án, theo hành lang pháp lý và thể chế tại nhiều nước, ví dụ như Thổ Nhĩ Kỳ áp dụng hình thức BLT [hay còn gọi là DBFLT], Úc áp dụng hình thức BOT, BT và TOT,… Các nước áp dụng thành công quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP đều có những quy định rõ ràng trong việc ký kết hợp đồng dự án.

Để đảm bảo sự thành công trong quản lý đầu tư xây dựng theo hình thức PPP cần hội tụ đủ 2 yếu tố cơ bản: [i] Hợp đồng hiệu quả để tăng giá trị vốn đầu tư, cam kết thực hiện dự án, [ii] Môi trường đầu tư thuận lợi để quản lý đầu tư xây dựng, thực hiện dự án.

2.4. Quản lý rủi ro trong đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP

Nhà đầu tư tư nhân khi quyết định lựa chọn quản lý đầu tư xây dựng công trình theo hình thức PPP đều phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến thành công của dự án, cũng như các rủi ro trong quá trình thực hiện dự án như: Môi trường pháp lý, kinh doanh, xã hội và khả năng tài chính, quản lý của bản thân nhà đầu tư…

- Môi trường pháp lý: Các quy định pháp luật liên quan đến đầu tư của khu vực tư nhân trong hình thức đối tác công tư [Luật, Nghị định…], đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư, tiêu chí đánh giá năng lực của nhà đầu tư, cơ chế giám sát doanh thu của dự án, chế tài xử lý vi phạm của nhà đầu tư cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền…

- Môi trường kinh doanh: Các quan hệ giữa cung - cầu, các tập quán kinh doanh, các thị trường tiền tệ, đất đai… và sử dụng các nguồn lực khác trong dự án. Bên cạnh đó, định hướng chiến lược về đầu tư xây dựng hệ thống bệnh viện chưa rõ ràng, cách thức đầu tư ảnh hưởng nhiều đến cơ hội kinh doanh của nhà đầu tư tư nhân.

- Môi trường xã hội: Đó là thái dộ, tâm lý của người dân đối với các dịch vụ công, đặc biệt là trong lĩnh vực y tế. Trong một số trường hợp, người dân cũng nghi ngại nhất định khi sử dụng dịch vụ y tế do nhà đầu tư tư nhân cung cấp, như là khám chữa bệnh, chuẩn đoán, xét nghiệm, phẫu thuật… Việc thiếu định hướng của nhà nước cũng như các hình thức hỗ trợ khác, tác động đến môi trường xã hội cũng làm giảm hiệu quả dự án và tăng rủi ro cho nhà đầu tư trong quá trình khai thác, thực hiện quản lý đầu tư xây dựng dự án theo hình thức PPP.

- Yếu tố tài chính: Khả năng huy động và sử dụng vốn đầu tư của nhà đầu tư tư nhân. Thông thường, các dự án quản lý đầu tư xây dựng công trình y tế theo hình thức PPP có thời gian thu hồi vốn lại kéo dài và phải huy động từ nhiều nguồn khác nhau;

- Yếu tố quản lý: Khả năng, trình độ quản lý của các nhà đầu tư tư nhân, thông thường các dự án đầu tư xây dựng bệnh viện yêu cầu nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kỹ thuật đặc thù trong lĩnh vực y tế, thời gian thực hiện và vận hành lâu năm, đòi hỏi các nhà đầu tư phải có trình độ tương xứng để có thể quản lý vận hành trong suốt vòng đời dự án.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề