Cách kiểm phiếu bầu cử bằng máy tính

Ngày 02/4/2021, Văn phòng Hội đồng bầu cử quốc gia đã ban hành Công văn số 112/VPHĐBCQG-PL về việc hướng dẫn việc xác định số phiếu phát ra và số cử tri tham gia bỏ phiếu. Theo đó, việc xác định số phiếu phát ra và số cử tri đã tham gia bỏ phiếu tại một số mẫu biên bản trong Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG ngày 18/01/2021 của Hội đồng bầu cử quốc gia được thực hiện như sau:

Về việc xác định số phiếu phát ra: Theo mẫu số 34/HĐBC quy định tại Nghị quyết số 41/NQ-HĐBCQG thì khi kiểm kê việc sử dụng phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Tổ bầu cử phải thống kê cụ thể số phiếu nhận về, số phiếu phát ra, số phiếu cử tri đổi do gạch hỏng và số phiếu còn lại không sử dụng đến. Theo đó, tổng số phiếu phát ra cộng với số phiếu cử tri đổi do gạch hỏng và số phiếu còn lại không sử dụng đến phải bằng số phiếu mà Tổ bầu cử đã nhận về. Vì vậy, để đảm bảo tính chính xác và thống nhất khi so sánh tỷ lệ phần trăm [%] số phiếu thu vào với số phiếu phát ra tại các mẫu biên bản xác định kết quả bầu cử, thìcách tính số phiếu phát ra sẽ không bao gồm số phiếu cử tri đổi do gạch hỏng.

Ví dụ như tại khu vực bỏ phiếu A, tổng số cử tri trong danh sách cử tri để tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội là 1000 cử tri, số phiếu Tổ bầu cử đã nhận về 1200 phiếu. Trong ngày bầu cử, đã có 900/1000 cử tri đến tham gia bỏ phiếu. Tổ bầu cử đã phát ra 900 phiếu cho những cử tri. Sau đó, có 50 cử tri đề nghị đổi phiếu do gạch hỏng. Tổ bầu cử phát đổi thêm 50 phiếu nữa. Trong trường hợp này, biên bản kiểm kê việc sử dụng phiếu bầu cử được thực hiện như sau:

- Số phiếu Tổ bầu cử đã nhận về là: 1200 phiếu

- Số phiếu phát ra là: 900 phiếu

- Số phiếu cử tri đổi do gạch hỏng là: 50 phiếu

- Số phiếu còn lại không sử dụng đến là: 250 phiếu.

Sau khi kiểm kê, Tổ bầu cử phải niêm phong toàn bộ số phiếu chưa sử dụng và phiếu cử tri đổi do gạch hỏng.

Về việc xác định số cử tri đã tham gia bỏ phiếu: Theo quy định tại Điều 80 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND năm 2015, trường hợp đơn vị bầu cử có số cử tri đi bỏ phiếu chưa đạt quá một nửa tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri thì sẽ phải xem xét, quyết định việc bầu cử lại ở đơn vị bầu cử đó. Do đó, Tổ bầu cử có trách nhiệm phân công thành viên theo dõi, kiểm soát chặt chẽ danh sách các cử tri đã tham gia bỏ phiếu. Cụ thể là, khi cử tri đến bỏ phiếu, thành viên Tổ bầu cử phải kiểm tra Thẻ cử tri, đối chiếu với danh sách cử tri, đánh dấu theo dõi số lượng cử tri đi bỏ phiếu vào danh sách cử tri và phát phiếu bầu đã được đóng dấu của Tổ bầu cử cho cử tri. Sau khi kết thúc việc bỏ phiếu, Tổ bầu cử thống kê số cử tri đã được đánh dấu trong danh sách cử tri để xác định tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu đối với từng loại bầu cử [bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu HĐND cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã] và tỷ lệ phần trăm [%] cử tri đã tham gia bỏ phiếu so với tổng số cử tri của khu vực bỏ phiếu đó. Nếu tỷ lệ này đạt trên 50% tổng số cử tri ghi trong danh sách cử tri của khu vực bỏ phiếu thì mới chuyển sang bước tiếp theo [niêm phong phiếu bầu chưa sử dụng, phiếu bầu gạch hỏng, kiểm phiếu...].

Bên cạnh đó, phải lưu ý làsố lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu đối với mỗi cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND ở từng cấp là khác nhau bởi có cử tri chỉ được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND cấp tỉnh, có cử tri thì được bầu đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND ở cả 03 cấp. Số lượng cử tri đã tham gia bỏ phiếu phải bằng hoặc nhiều hơn tổng số phiếu thu vào [vì có trường hợp cử tri đã nhận phiếu bầu nhưng không bỏ vào hòm phiếu]. Trường hợp số phiếu thu vào nhiều hơn tổng số cử tri đã tham gia bỏ phiếu thì Tổ bầu cử thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 5 Điều 11 của Thông tư số 01/2021/TT-BNV ngày 11/01/2021 của Bộ Nội vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.

Diễm Xuân

Video liên quan

Chủ Đề