Cách xưng hô trong gia đình của người miền Bắc

C�ch xưng h� trong gia đ�nh Việt Nam

[//forum.gocit.vn/threads/cach-xung-ho-trong-gia-dinh-vit-nam.4237/]

C� người cho rằng việc xưng h� trong tiếng Việt rất phức tạp v� g�y phiền phức trong khi giao thiệp. Cứ � you, me� hay � toi, moi� r�o trọi như trong tiếng Anh tiếng Ph�p c� phải tiện hơn kh�ng? Thực ra, c�ch xưng h� trong tiếng Việt kh�ng phức tạp v� kh�ng phiền phức. N� rất phong ph�, r� r�ng, c� t�n ti trật tự, v� rất văn minh. C�ch xưng h� trong tiếng Việt tự n� kh�ng g�y phiền phức. Nếu c� phiền phức chăng nữa, đ� l� do người sử dụng n� kh�ng biết c�ch m� th�i.
C�ch xưng h� trong tiếng Việt tượng trưng cho một nền văn minh l�u đời về gia gi�o v� việc giao tế ngo�i x� hội. Lễ ph�p v� t�n ti trật tự ph�n minh l� c�ch để ta ph�n biệt giữa d�n tộc c� văn hiến l�u đời với d�n tộc mới ph�t triển v� giữa lo�i người với lo�i th� c�ng bọn quỉ đỏ. Từ ng�y c� bọn quỉ đỏ, tức l� bọn Cộng Sản Việt Nam, việc xưng h� trong tiếng Việt đ� bị bọn n�y ph� hoại tận gốc rễ v� bọn ch�ng khuyến kh�ch c�ch xưng h� bằng đồng ch�, anh, chị m� kh�ng kể tuổi t�c, ng�i thứ, th�n sơ, v� kh�ng c� t�n ty trật tự g� cả. Gi� cũng đồng ch� v� trẻ cũng đồng ch�. Lớn tuổi cũng anh chị v� nhỏ tuổi cũng chị anh.
Để hiểu r� c�ch xưng h� trong tiếng Việt, ch�ng ta h�y c�ng nhau �n lại phong tục Việt Nam về c�ch xưng h�. Trong phạm vi gia đ�nh v� họ h�ng ta c� c�ch xưng h� ri�ng cho mỗi người. Trong x� hội cũng thế, ta c� c�ch xưng h� đặc biệt d�nh cho từng người ta quen biết. Trong phạm vi b�i n�y, ch�ng t�i tr�nh b�y những điều li�n quan đến c�ch xưng h� trong gia đ�nh m� th�i.

I. Danh Xưng D�nh Cho Mỗi Thứ Bậc về Li�n Hệ Gia Đ�nh
Người sinh ra ta được gọi l� cha mẹ. Cha mẹ của cha mẹ, c�, d�, ch�, v� b�c của ta được gọi l� �ng b�. Cha mẹ của �ng b� được gọi l� cụ. Cha mẹ của cụ được gọi l� kỵ. C�c �ng cha đời trước nữa được gọi l� tổ ti�n. Cha mẹ sinh ra c�c con. Những người con n�y l� anh chị em ruột của nhau gồm c� c�c anh trai, c�c chị g�i, c�c em trai , v� c�c em g�i.
Người con trai đầu l�ng của cha mẹ m�nh gọi l� anh cả [người Bắc v� Trung] hay anh hai [người Nam]. Anh hai c�n c� nghĩa l� tiền trong nghĩa của c�u: � Trong t�i kh�ng c� anh hai th� kh�ng l�m g� được.� Người con g�i đầu l�ng của cha mẹ m�nh gọi l� chị cả [người Bắc v� Trung] hay chị hai [người Nam]. Từ chị cả c�n c� nghĩa l� vợ cả trong � của c�u ca dao sau: � Thấy anh, em cũng muốn ch�o, / Sợ rằng chị cả giắt dao trong m�nh.� Người con trai thứ hai gọi l� anh thứ [người Bắc v� Trung] hay anh ba [người Nam]. Từ anh ba c�n được d�ng để gọi một người đ�n �ng con trai n�o đ� như trong trường hợp của c�u ca dao sau:� Anh Ba kia hỡi anh Ba, /Đầu đội n�n dứa tay bưng ba cơi trầu./ Trầu n�y em chẳng ăn đ�u,/ Để thương để nhớ để sầu anh Ba, / Để em b�c mẹ gả chồng xa,/ Th� rằng lấy qu�ch anh Ba cho gần!� Từ anh Ba c�n để chỉ người đ�n �ng Hoa kiều.
Người con trai thứ bảy trong gia đ�nh gọi l� anh bảy [người Bắc]. Từ anh bảy c�n để gọi người Ấn Độ hay người Nam Dương.
Khi ta lấy vợ hay lấy chồng v� sinh ra c�c con [con trai v� con g�i], con của c�c con ta gọi l� ch�u [sẽ n�i r� trong phần sau], con của ch�u ta gọi l� chắt, con của chắt ta gọi l� ch�t, v� con của ch�t ta gọi l� ch�t. Vợ của c�c con trai ta gọi l� con d�u. Chồng của c�c con g�i ta gọi l� con rể.
C�c anh chị em của cha mẹ ta gồm c�: ch�, b�c, c�, d�, cậu, mợ, v� dượng [sẽ n�i r� ở mục sau].

II. C�ch Xưng H� Trong Gia Đ�nh
Thứ bậc 10 đời trong gia đ�nh gồm c�: tổ ti�n, kỵ, cụ, �ng b�, cha mẹ, con, ch�u, chắt, ch�t, v� ch�t. Con của ch�ng ta gọi ch�ng ta l� cha mẹ. Con của c�c con ch�ng ta gọi ch�ng ta l� �ng b�. Con của con g�i ch�ng ta gọi ch�ng ta l� �ng b� ngoại, �ng ngoại, b� ngoại, hay gọi tắt l� ngoại. Con của con trai ch�ng ta gọi ch�ng ta l� �ng b� nội, �ng nội, b� nội, hay gọi tắt l� nội. Chắt của ch�ng ta gọi ch�ng ta l� cụ. Ch�t của ch�ng ta gọi ch�ng ta l� kỵ. V� ch�t của ch�ng ta gọi ch�ng ta l� tổ ti�n.
Danh xưng của hai gia đ�nh c� con c�i lấy nhau gồm c�: th�ng gia, th�n gia, hay sui gia. Tiếng xưng h� giữa hai sui gia với nhau hay với bạn b�: �ng b� th�ng gia, �ng b� th�n gia, �ng th�n, b� th�n, �ng b� sui gia, �ng sui, v� b� sui.

1. Xưng H� Với Cha Mẹ:
Tiếng gọi cha mẹ trong khi n�i chuyện với bạn b� v� trong l�c xưng h� với cha mẹ gồm c�: bố mẹ, cha mẹ, ba m�, ba me, cậu mợ, thầy me, thầy bu, th�n sinh, song th�n, c�c cụ ch�ng t�i, �ng b� nội c�c ch�u, v� �ng b� ngoại c�c ch�u, v.v.
Tiếng xưng h� với mẹ gồm c�: m�, mẹ, me, mệ, mợ, bu, u, v�, bầm, v� đẻ, v.v Tiếng xưng h� với cha gồm c�: bố, ba, thầy, cha, cậu, v� t�a, v.v.
Tiếng xưng h� với mẹ nhiều hơn tiếng xưng h� với cha. Điều n�y chứng tỏ người mẹ gần gũi c�c con nhiều hơn bố. Nhờ đ� m� t�nh cảm giữa c�c con v� mẹ đằm thắm hơn v� c� nhiều tiếng để xưng h� hơn. Tiếng gọi cha mẹ vợ gồm c�: �ng b� nhạc, �ng nhạc, b� nhạc, cha mẹ vợ, cha vợ, v� mẹ vợ, v.v.
Tiếng gọi cha vợ khi n�i chuyện với bạn gồm c�: nhạc phụ, nhạc gia, bố vợ, �ng nhạc, cha vợ, �ng ngoại c�c ch�u, v� trượng nh�n, v.v.
Tiếng gọi mẹ vợ khi n�i chuyện với bạn b� gồm c�: mẹ vợ, m� vợ, b� nhạc, b� ngoại c�c ch�u, nhạc mẫu, v.v.
Tiếng gọi cha mẹ chồng gồm: cha mẹ chồng, cha chồng, mẹ chồng, c�c cụ th�n sinh của nh� t�i, �ng b� nội của c�c ch�u, v� những từ giống như phần d�nh cho cha mẹ m�nh. Khi n�i chuyện với cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng, t�y theo nề nếp gia đ�nh, ta chỉ cần xưng h� như đ� đề cập ở tr�n, trong phần xưng h� với mẹ cha. Người chồng sau của mẹ m�nh gọi l� cha ghẻ, kế phụ, cha, cậu, hay dượng. Người vợ sau của cha m�nh gọi l� mẹ ghẻ, mẹ kế, hay kế mẫu.

2. C�ch Xưng H� Với Anh Chị Em của Cha Mẹ v� �ng B�

Anh của cha gọi l� b�c, em trai của cha l� ch�, chị của cha c�n được gọi l� b�c g�i. Em g�i của cha l� c� hay o [ca dao c� c�u � Một trăm �ng ch� kh�ng lo, chỉ lo một nỗi mụ o nỏ mồm.� ]. C� nơi chị của cha cũng được gọi l� c� hay o.
Anh của mẹ gọi l� b�c hay cậu, em trai của mẹ l� cậu, chị của mẹ l� gi� hay b�c g�i, v� em g�i của mẹ l� d�. C� những gia đ�nh bắt con c�i gọi cậu v� d� bằng ch� v� c� v� muốn c� sự th�n thiết giống nhau giữa hai gia đ�nh b�n ngoại v� b�n nội, tức l� b�n n�o cũng l� b�n nội cả.
Vợ của b�c [anh của cha hay mẹ] gọi l� b�c g�i, vợ của ch� gọi l� th�m, v� chồng của c� hay d� gọi l� ch� hay ch� dượng hay dượng, chồng của b�c g�i hay gi� gọi l� b�c hay b�c dượng, v� vợ của cậu l� mợ.
Anh trai của �ng b� nội v� �ng b� ngoại m�nh gọi l� �ng b�c [b�c của cha hay mẹ m�nh], em trai của �ng nội v� �ng ngoại l� �ng ch� [ch� của cha hay mẹ m�nh], chị của �ng b� nội v� �ng b� ngoại hay vợ của �ng b�c gọi l� b� b�c, em g�i của �ng nội �ng ngoại m�nh gọi l� b� c� [c� của cha mẹ m�nh], em trai của b� nội b� ngoại gọi l� �ng cậu [cậu của cha hay mẹ m�nh], em g�i của b� nội b� ngoại gọi l� b� d� [d� của cha mẹ m�nh], v� chồng của b� c� v� b� d� gọi l� �ng dượng [dượng của cha hay mẹ m�nh]. Tuy nhi�n, trong lối xưng h� h�ng ng�y, người ta thường gọi giản tiện l� ch�, b�c, �ng hay b� để thay cho ch� dượng, b�c g�i, �ng b�c, �ng ch�, �ng cậu, �ng dượng, b� b�c, b� c�, hay b� d�.

3. Xưng H� Với Anh Chị Em:

Anh của vợ hay anh của chồng gọi l� anh hay b�c, c�n khi n�i chuyện với người kh�c th� d�ng �ng anh nh� t�i, anh của nh� t�i, anh vợ t�i , hay anh chồng t�i. Tiếng anh chồng c�n d�ng để gọi chồng của một người đ�n b� n�o đ� trong nghĩa của c�u: Anh chồng th� đi vắng chỉ c� chị vợ ở nh� m� th�i. Chị của chồng hay chị của vợ gọi l� chị hay b�c, c�n khi n�i chuyện th� d�ng chị chồng, chị vợ, b� chị của nh� t�i,v.v. Em trai của chồng hay vợ gọi l� em hay ch�.
Em g�i của chồng hay vợ gọi l� em, c�, hay d�. C�c từ b�c, ch�, c� hay d� trong c�c trường hợp xưng h� với anh chị l� c�ch ch�ng ta gọi thế cho con m�nh v� c� nghĩa l� anh, chị, em của m�nh.
- C�c tiếng xưng h� về chị em c�n gồm c�: Chị em g�i: chị em to�n l� g�i. Chị em ruột: chị em c�ng cha mẹ trong đ� c� em trai. Chị g�i hay chị ruột: người chị c�ng cha mẹ. Chị họ: chị c�ng họ với m�nh. Chị em ch� b�c, chị em con ch� con b�c, chị em th�c b�: c�c con g�i v� con trai của em trai v� anh bố m�nh, trong đ� người con g�i l� chị. Chị em con c� con cậu: con g�i v� con trai của em g�i bố v� em trai mẹ, trong đ� người con g�i l� chị. Chị em bạn d�, chị em đ�i con d� con gi�: c�c con g�i v� con trai của chị hay em g�i mẹ trong đ� con g�i l� chị. Chị em bạn d�u: chị em c�ng l�m d�u trong một nh�. Chị d�u: vợ của anh m�nh.

- C�c tiếng xưng h� về anh chị em gồm c�: Anh chị l� tiếng c�c em gọi anh chị hay cặp vợ chồng anh chị m�nh, tiếng cặp vợ chồng tự xưng với c�c em của họ, tiếng gọi cặp vợ chồng của bạn m�nh, tiếng cha mẹ d�ng để gọi vợ chồng con trai hay con g�i m�nh, v� tiếng d�ng để gọi những kẻ ăn chơi giang hồ, cờ bạc trong nghĩa của từ � d�n anh chị.� Anh chị em l� tiếng người ta d�ng để gọi c�c con trong gia đ�nh như trong c�u � Anh chị em nh� ấy c� hiếu.� Tiếng � anh chị em� c�n d�ng để gọi chung đ�n �ng đ�n b� hay con trai con g�i trong nghĩa của c�u � Hỡi c�c anh chị em nghe đ�y!� Anh chị em bạn d� hay anh chị em đ�i con d� con gi� để chỉ c�c con trai con g�i của chị v� em g�i mẹ trong đ� người con trai l� anh. Anh em con ch� con b�c hay anh em th�c b� để chỉ con trai con g�i của em v� anh bố m�nh, trong đ� người con trai l� anh. Anh em con c� con cậu để chỉ con trai con g�i của em g�i bố v� em trai mẹ trong đ� người con trai l� anh. Anh em bạn rể hay anh em cột ch�o để chỉ c�c �ng chồng của chị vợ hay em vợ. Anh rể : chồng của chị m�nh. Tất cả những người con của anh v� chị của cha đều l� anh v� chị của ta [ anh chị họ nội]. C�c người con của anh v� chị của mẹ cũng l� anh v� chị của ta [anh chị họ ngoại]

- C�c tiếng xưng h� về em gồm c�: Em l� tiếng chỉ c�c người con do cha mẹ sinh ra sau m�nh gồm c� em trai em g�i v� l� tiếng gọi c�c người con của c�, d�, v� ch� của m�nh. Em d�u: vợ của em m�nh. Em rể: chồng của em m�nh. Em �t: tiếng để chỉ người em cuối c�ng do cha mẹ m�nh sinh ra. Tiếng em �t c�n c� nghĩa l� đ�n em, d�ng để chỉ bộ hạ tay ch�n của người ta trong nghĩa của c�u: � Đ�m em �t của t�i sẽ gi�p anh chuyện đ�, đừng c� lo.� Họ nội v� gia đ�nh b�n nội l� họ v� gia đ�nh của cha m�nh. Họ ngoại v� gia đ�nh b�n ngoại l� họ v� gia đ�nh b�n mẹ m�nh.

4. Xưng H� Với Vợ Chồng:
Tiếng xưng h� với vợ gồm c�: em, cưng, m�nh, bu n�, m�, m� m�y, m� n�, m� thằng cu, mẹ, mẹ n�, mẹ đĩ, nh�, b�, b� x�, b� n�, ấy, mợ, mợ n�, đằng ấy, v.v.
Tiếng gọi vợ trong khi n�i chuyện với người kh�c gồm c�: nh� t�i, b� nh� t�i, m� tụi nhỏ, m� sắp nhỏ, m� b�y trẻ, tiện nội, nội tướng t�i, b� x�, b� x� t�i, v� vợ t�i, v.v. Tiếng xưng h� với chồng gồm c�: anh, cưng, anh n�, ba, ba n�, bố, bố n�, bố m�y, bố thằng cu, đằng ấy, �ng x�, cậu, cậu n�, �ng, �ng n�, cụ, ấy, m�nh, v.v.
Tiếng gọi chồng trong khi n�i chuyện với người kh�c gồm: nh� t�i, �ng nh� t�i, ba tụi nhỏ, ba sắp nhỏ, ba b�y nhỏ, phu qu�n t�i, �ng x�, �ng x� t�i, chồng t�i, trượng phu t�i, anh ấy, v.v.
T�nh vợ chồng người Việt rất đằm thắm, họ y�u nhau với tất cả ch�n t�nh, đối đ�i với nhau rất lịch sự v� tương k�nh. Những cặp vợ chồng c� gi�o dục kh�ng bao giờ gọi nhau bằng m�y v� xưong tao. Họ t�m những lời lẽ dịu d�ng đầy t�nh tứ y�u thương để gọi nhau. Ch�nh v� thế m� tiếng xưng h� giữa vợ chồng người Việt c� rất nhiều, hơn hẳn tiếng xưng h� của vợ chồng người T�y phương. Những cặp vợ chồng c� gi�o dục kh�ng bao giờ chửi thề v� văng tục với nhau, nhất l� trước mặt bạn b�.

5. Xưng H� Với Con Ch�u:

Con trai đầu l�ng của m�nh gọi l� con trai trưởng hay con trai trưởng nam [c� người gọi một c�ch th�n mật l� cậu trưởng t�i, thằng trưởng nam nh� t�i]. Vợ của con trai l� con d�u. Vợ con trai trưởng nam l� con d�u trưởng. Con g�i đầu l�ng gọi l� trưởng nữ. Chồng của con g�i l� con rể. Chồng của con g�i đầu l�ng l� con rể trưởng. Tất cả c�c con trai hay con g�i kế tiếp được gọi la thứ nam hay thứ nữ. Người con được sinh ra trước ti�n c�n được gọi l� con cả hay con đầu l�ng. Con trai hay con g�i cuối c�ng của gia đ�nh gọi l� con �t, �t nam, hay �t nữ. Nếu vợ chồng chỉ c� một con, trai hoặc g�i, th� người con đ� được gọi l� con một. Con của vợ hay của chồng c� trước hay sau khi lấy nhau gọi l� con ghẻ hay con ri�ng. Đứa con mới đẻ ra gọi l� con đỏ. Con c�n nhỏ gọi l� con mọn. Khi người đ�n �ng gi� rồi mới c� con, người ta gọi cảnh đ� l� cảnh cha gi� con mọn. Con gia đ�nh quyền thế gọi l� con �ng ch�u cha. Con của con trai m�nh gọi l� ch�u nội [ch�u nội trai, ch�u nội g�i]; con trai đầu l�ng của con trai trưởng nam l� ch�u đ�ch t�n, đ�ch t�n thừa tự, hay đ�ch t�n thừa trọng, tức l� ch�u trưởng nối nghiệp lớn của �ng b� v� giữ việc thờ c�ng tổ ti�n sau n�y. Con của con g�i m�nh gọi l� ch�u ngoại [ch�u ngoại trai, ch�u ngoại g�i].

III. Đặc T�nh Lịch Sự v� Lễ Ph�p Trong C�ch Xưng H� của Người Việt

Từ l�u đời, người Việt m�nh c� truyền thống về lễ ph�p v� lịch sự trong c�ch xưng h�. C�c con ch�u c� lễ ph�p v� c� gi�o dục thường biết đi thưa về tr�nh chứ kh�ng phải muốn đi th� đi muốn về th� về. Khi n�i chuyện với bố mẹ v� �ng b�, con ch�u thường d�ng c�ch thưa gửi v� gọi dạ bảo v�ng chứ kh�ng bao giờ n�i trống kh�ng với người tr�n. Người Việt ch�ng ta thường d�ng tiếng thưa trước khi xưng h� với người ở vai tr�n của ta, chẳng hạn như: � Thưa mẹ con đi học. Thưa �ng b� con đ� về học. Thưa c� con về. Thưa ba, ba bảo con điều chi ạ?�
Khi trả lời bố mẹ hay �ng b�, con ch�u thường d�ng chữ � dạ, ạ, v�ng ạ, v�ng.� Nếu b� mẹ gọi con: � Tư ơi?� th� khi nghe thấy, người con phải thưa: � Dạ.� Nếu người mẹ n�i tiếp: � Về ăn cơm!� người con phải n�i: � V�ng.� [người Bắc] hay � Dạ.� [người Nam]. Người ta c�n d�ng chữ � ạ� ở cuối c�u để tỏ vẻ k�nh trọng v� lễ ph�p. Th� dụ:� Ch�o b�c ạ! V�ng ạ!�

Trong c�ch xưng h� với người ở vai tr�n của ta, ta kh�ng bao giờ gọi t�n tục [t�n cha mẹ đạt cho] của �ng b�, cha mẹ, c� cậu, d� dượng, v� ch� b�c. Ch�ng ta chỉ xưng h� bằng danh xưng ng�i thứ trong gia đ�nh m� th�i. Nếu �ng c� t�n l� H�ng, ba c� t�n l� Ch�nh, v� ch� c� t�n l� T�i chẳng hạn, ta chỉ n�i l�:� Mời �ng b� xơi cơm, mời ba m� d�ng tr�, mời c� ch� lại chơi.�

Đối với người tr�n, ch�ng ta kh�ng được d�ng tiếng � c�i g� để hỏi lại một c�ch trống kh�ng v� n� nghe c� vẻ v� lễ. Người ta thường thế từ � c�i g� bằng từ � điều chi� cho lịch sự v� lễ độ. Thay v� hỏi: � C�i g�?� hay � Ba bảo con c�i g�?� th� hỏi: � Ba bảo con điều chi ạ?� Từ � c�i g� chỉ sử dụng với người ngang h�ng m� th�i. Th� dụ: � Anh hỏi t�i c�i g�?� hay � Chị n�i c�i g� vậy?�

Trong c�ch xưng h� với anh chị em, ch�ng ta d�ng từ anh, chị, hay em đứng trước t�n hay ng�i thư. Th� dụ: � Anh H�ng đi vắng, em An đang học b�i, chị Kim ra m� bảo, v.v.�

C�c em kh�ng được ph�p gọi anh chị bằng t�n trống kh�ng. Tuy nhi�n, anh chị c� thể gọi c�c em bằng t�n trống kh�ng hay th�m từ em v�o trước t�n để gọi. Th� dụ: � Hải ra chị bảo c�i n�y!� hay � Em Hải ra chị bảo c�i n�y!�

Anh chị em trong một gia đ�ng c� gi�o dục kh�ng gọi nhau bằng m�y v� xưng l� tao bao giờ. Những người con gọi nhau bằng m�y v� xưng tao l� do lỗi của bố mẹ kh�ng biết dạy bảo c�c con ngay từ khi ch�ng c�n nhỏ. C�c con gọi nhau bằng m�y xưng tao m�i rồi th�nh th�i quen. Khi đ� th�nh th�i quen th� ch�ng kh�ng thể đổi c�ch xưng h� cho đ�ng ph�p được.

Cha mẹ phải dạy con c�i về c�ch xưng h� ngay từ khi ch�ng c�n nhỏ. Muốn ch�ng ch�o ai, cha mẹ phải n�i cho ch�ng biết c�ch ch�o v� bắt ch�ng lập lại, chẳng hạn như cha mẹ n�i: � Ch�o b�c đi con!� C�c con sẽ n�i: � Ch�o b�c ạ!�

Khi c� b� con họ h�ng th�n thuộc đến chơi nh�, cha mẹ phải giới thiệu họ với c�c con m�nh v� nhắc ch�ng c�ch ch�o. Nếu c�c con m�nh chơi ở ngo�i s�n hay ở trong buồng trong khi c� th�n nh�n đến chơi nh�, ta phải gọi ch�ng ra để ch�o b� con.

Khi cha mẹ đến chơi nh� con c�i, nếu trong nh� đang c� kh�ch, c�c con phải giới thiệu cha mẹ với kh�ch v� giới thiệu kh�ch với cha mẹ. C� như thế việc xưng h� trong c�u chuyện mới tự nhi�n v� th�n mật. Bận cho đến mấy hay bất cứ v� l� do g�, ta cũng phải thực hiện cho bằng được việc giới thiệu khi c� kh�ch đến chơi nh� để mọi người biết nhau hầu tiện cho việc xưng h�. Những người ở vai tr�n hay bậc tr�n phải được giới thiệu trước.

Đối với trẻ, ta n�n nhắc lại việc ch�o hỏi nhiều lần chứ đừng tưởng bảo ch�ng một lần m� ch�ng nhớ đ�u. Ch�nh v� thề m� một nh� gi�o dục người Ph�p đ� viết � La r�p�tition est l� �me de l�enseignement� [Việc nhắc lại l� linh hồn của việc gi�o huấn]. Về phạm vi gi�o dục, việc � nhắc lại� hay � lập đi lập lại� c� nghĩa l� �n tập thường xuy�n: văn �n vũ luyện.

C� biết xưng h� đ�ng c�ch, b� con mới th�n cận nhau. Kh�ng biết c�ch xưng h�, dần dần b� con sẽ xa l�nh nhau. C� săn đ�n nhau bằng c�u ch�o lời mời đ�ng c�ch, t�nh gia đ�nh họ h�ng mới gắn b� l�u bền. Ch�nh v� thế m� tục ngữ ta c� c�u: � Lời ch�o cao hơn m�m cỗ.�

Trong việc dạy trẻ về c�ch xưng h� v� ch�o hỏi, ta kh�ng n�n qu� khắt khe với ch�ng. Giải th�ch v� khuyến kh�ch l� c�ch tốt nhất để dạy trẻ. Nếu ch�ng quen c�ch xưng h� ở Bắc Mỹ n�y m� ch�o ta l� � Hi B�c!� ta cũng đừng nổi giận m� chửi ch�ng. Trong trường hợp n�y, ta n�n vui vẻ xoa đầu trẻ v� chỉ cho ch�ng c�ch ch�o cho đ�ng c�ch của người Việt: � Ch�o B�c ạ!� Đừng bao giờ nổi n�ng với trẻ v� ch�ng chưa hiểu v� cần phải được dạy dỗ. Khi ta nổi n�ng l�n l� ph�t cơn đi�n th� kẻ kh�n h�a dại ngưới hiền h�a ngu.

Việc xưng h� v� ch�o hỏi c�n t�y thuộc ở sự th�n t�nh nữa. Nếu ta thường xuy�n thăm trẻ hay chăm nom v� săn s�c trẻ với tất cả ch�n t�nh, trẻ sẽ cảm thấy v� tự nhi�n ch�ng sẽ qu� mến ta v� vồn v� ch�o hỏi ta.

Việc dạy trẻ trong vấn đề xưng h� v� ch�o hỏi cần phải ki�n nhẫn, kh�o l�o, v� c� nghệ thuật. Kh�ng miễn cưỡng được. Nếu trẻ kh�ng muốn ch�o, ta phải từ từ giải th�ch cho ch�ng hiểu. Khi hiểu, ch�ng sẽ vui vẻ ch�o kh�ch. Đừng qu� khắt khe với ch�ng kẻo ta mắc phải khuyết điểm � gi�o đa th�nh o�n.�

C�CH XƯNG H�​

�ng sơ, b� sơ: Cao tổ phụ, cao tổ mẫu.
Ch�t: Huyền t�n.
�ng cố, b� cố: Tằng tỉ phụ, tằng tỉ mẫu.
Chắt: Tằng t�n.
�ng nội, b� nội: Nội tổ phụ, nội tổ mẫu.
Ch�u nội: Nội t�n.
�ng nội, b� nội chết rồi th� xưng: Nội tổ khảo, nội tổ tỷ.
Ch�u xưng l�: Nội t�n.
Ch�u nối d�ng xưng l�: Đ�ch t�n [ch�u nội].
�ng ngoại, b� ngoại: Ngoại tổ phụ, ngoại tổ mẫu [cũng gọi l� ngoại c�ng, ngoại b�].
�ng ngoại, b� ngoại chết rồi th� xưng: Ngoại tồ khảo, ngoại tổ tỷ.
Ch�u ngoại: Ngoại t�n.
�ng nội vợ, b� nội vợ: Nhạc tổ phụ, nhạc tổ mẫu.
�ng nội vợ, b� nội vợ chết rồi th� xưng: Nhạc tổ khảo, nhạc tổ tỷ.
Ch�u nội rể: T�n nữ tế.
Cha mẹ chết rồi th� xưng: Hiển khảo, hiền tỷ.
Cha chết rồi th� con tự xưng l�: C� tử, c� nữ [c� tử: con trai, c� nữ: con g�i].
Mẹ chết rồi th� con tự xưng l�: Ai tử, ai nữ.
Cha mẹ đều chết hết th� con tự xưng l�: C� ai tử, c� ai nữ.
Cha ruột: Th�n phụ.
Cha ghẻ: Kế phụ.
Cha nu�i: Dưỡng phụ.
Cha đỡ đầu: Nghĩa phụ.
Con trai lớn [con cả, con thứ hai]: Trưởng tử, trưởng nam.
Con g�i lớn: Trưởng nữ.
Con kế. Thứ nam, thứ nữ.
Con �t [trai]: Qu� nam, v�n nam. G�i: qu� nữ, v�n nữ.
Mẹ ruột: Sanh mẫu, từ mẫu.
Mẹ ghẻ: Kế mẫu: Con của b� vợ nhỏ k�u vợ lớn của cha l� m� hai: Đ�ch mẫu.
Mẹ nu�i: Dưỡng mẫu.
Mẹ c� chồng kh�c: Gi� mẫu.
M� nhỏ, tức vợ b� của cha: Thứ mẫu.
Mẹ bị cha từ bỏ: Xuất mẫu.
B� v�: Nhũ mẫu.
Ch�, b�c vợ: Th�c nhạc, b� nhạc.
Ch�u rể: Điệt nữ tế.
Ch�, b�c ruột: Th�c phụ, b� phụ.
Vợ của ch�: Thiếm, Thẩm.
Ch�u của ch� v� b�c, tự xưng l� nội điệt.
Cha chồng: Chương phụ.
D�u lớn: Trưởng tức.
D�u thứ: Thứ tức.
D�u �t: Qu� tức.
Cha vợ [sống]: Nhạc phụ, [chết]: Ngoại khảo.
Mẹ vợ [sống]: Nhạc mẫu, [chết]: Ngoại tỷ.
Rể: Tế.
Chị, em g�i của cha, ta k�u bằng c�: Th�n c�.
Ta tự xưng l�: Nội điệt.
Chồng của c�: Dượng [C� trượng, t�n trượng].
Chồng của d�: Dượng [Di trượng, biểu trượng].
Cậu, mợ: Cựu phụ, cựu mẫu. Mợ c�n gọi l�: C�m.
C�n ta tự xưng l�: Sanh t�n.
Cậu vợ: Cựu nhạc.
Ch�u rể: Sanh tế.

Vợ: Chuyết kinh, vợ chết rồi: Tẩn.
Ta tự xưng: Lương phu, Kiểu ch�m.
Vợ b�: Thứ th�, trắc thất.
Vợ lớn: Ch�nh thất.
Vợ sau [vợ chết rồi cưới vợ kh�c]: Kế thất.
Anh ruột: B�o huynh.
Em trai: B�o đệ [cũng gọi: X� đệ].
Em g�i: B�o muội [cũng gọi: X� muội].
Chị ruột: B�o tỷ.
Anh rể: Tỷ trượng.
Em rể: Muội trượng.
Anh rể: Tỷ phu.
Em rể: Muội trượng, c�n gọi: Kh�m đệ.
Chị d�u: Tợ phụ, Tẩu, hoặc tẩu tử.
Em d�u: Đệ phụ, Đệ tức.
Chị chồng: Đại c�.
Em chồng: Tiểu c�.
Anh chồng: Phu huynh: Đại b�.
Em chồng: Phu đệ, Tiểu th�c.
Chị vợ: Đại di.
Em vợ [g�i]: Tiểu di tử, Th� muội.
Anh vợ: Th� huynh: Đại cựu: Ngoại huynh.
Em vợ [trai]: Th� đệ, Tiểu cựu tử.
Con g�i đ� c� chồng: Gi� nữ.
Con g�i chưa c� chồng: Sương nữ.
Cha ghẻ, con tự xưng: Chấp tử.
Tớ trai: Nghĩa bộc.
Tớ g�i: Nghĩa n�.
Cha chết trước, sau �ng nội chết, t�n con của trưởng tử đứng để tang, gọi l�: Đ�ch t�n thừa trọng.
Cha, mẹ chết chưa ch�n: Cố phụ, cố mẫu.
Cha, mẹ chết đ� ch�n: Hiền khảo, hiển tỷ.
Mới chết: Tử.
� ch�n: Vong.
Anh em ch� b�c ruột với cha m�nh: Đường b�, đường th�c, đường c�, m�nh tự xưng l�: Đường t�n.
Anh em bạn với cha m�nh: Ni�n b�, qu� th�c, lịnh c�. M�nh l� ch�u, tự xưng l�: Thiểm điệt, lịnh điệt.
Ch�, b�c của cha m�nh, m�nh k�u: Tổ b�, tổ t�c, tổ c�.
M�nh l� ch�u th� tự xưng l�: V�n t�n.

Đại từ xưng h� trong văn ho� giao tiếp của người Việt miền T�y Nam Bộ

//khoanguvan.com.vn/nghien-cuu/van-hoa-lich-su-triet-hoc/276-2015-01-08-08-57-10.html

Văn ho� giao tiếp v� nghệ thuật ng�n từ l� một trong những lĩnh vực thể hiện đậm n�t đặc trưng văn ho� của từng d�n tộc, từng khu vực hay nhỏ hẹp hơn l� của từng miền. Bởi lẽ, văn ho� giao tiếp của từng d�n tộc, từng khu vực, từng miền ấy ch�nh l� sản phẩm của một khối chủ thể thống nhất, được sinh ra trong qu� tr�nh khối chủ thể ấy tương t�c với m�i trường v� được lưu giữ lại những đặc trưng của n� trong suốt một thời gian l�u d�i. C� thể n�i rằng, văn ho� giao tiếp v� nghệ thuật ng�n từ l� một trong những bộ phận mang dấu ấn của văn ho� một c�ch đậm n�t nhất.

Ở Việt Nam, người Việt đ� cộng cư với nhiều tộc người thiểu số bản địa v� ngoại lai, trong đ�, khối người Việt ở miền T�y Nam Bộ trong qu� tr�nh Nam tiến v� định h�nh văn ho� đ� gắn chặt vận mệnh lịch sử của m�nh với cộng đồng người Hoa v� Khmer. Mặt kh�c, với một t�m thức của những con người đi mở c�i đứng trước một miền đất mới mẻ, những tầng lớp ti�n d�n n�y đ� trở th�nh những con người mới, v� ch�nh họ sẽ l� chủ nh�n tr�n miền đất T�y Nam Bộ n�y. L� một tầng lớp con người mới, sống ở tr�n dải đất mới, họ đ� h�nh th�nh cho m�nh những n�t văn ho� giao tiếp v� nghệ thuật ng�n từ kh�c biệt rất nhiều với những v�ng miền kh�c, tuy rằng họ vẫn lưu giữ lại những vốn liếng ng�n từ v� phong c�ch giao tiếp vốn xuất ph�t từ c�i n�i đ� sản sinh ra n�: v�ng văn ho� Bắc Bộ. C� thể n�i rằng, văn ho� giao tiếp v� nghệ thuật ng�n từ của người Việt miền T�y Nam Bộ như l� một bộ mặt mới trong văn ho� giao tiếp v� nghệ thuật ng�n từ truyền thống của người Việt.

Trong b�i viết n�y, ch�ng t�i ch� trọng đến một kh�a cạnh nhỏ của văn ho� giao tiếp của người Việt miền T�y Nam Bộ: c�ch sử dụng đại từ xưng h�.

1. Theo ch�ng t�i, c�ch sử dụng đại từ xưng h� của người Việt miền T�y Nam Bộ chủ yếu được h�nh th�nh tr�n những yếu tố sau: 1. lối xưng h� trong cơ tầng văn ho� truyền thống; 2. điều kiện tự nhi�n miền T�y Nam Bộ; 3. lối xưng h� của c�c tộc người thiểu số bản địa hoặc di cư, trong đ�, yếu tố Hoa l� đậm n�t nhất.

Ảnh hưởng từ lối xưng h� truyền thống của người Việt

Trong m�i trường l�m n�ng nghiệp c� lịch sử l�u đời, con người cần tranh thủ sự hỗ trợ của người kh�c n�n người Việt Bắc Bộ thường xuy�n trau chuốt lời ăn tiếng n�i của m�nh. Đối với họ, �ăn c� nhai, n�i c� nghĩ�, �lời n�i chẳng mất tiền mua, lựa lời m� n�i cho vừa l�ng nhau�. Ch�nh v� vậy, người Việt thường c� lối �xưng khi�m, h� t�n�, tức tự hạ thấp m�nh v� n�ng người kh�c l�n cao.

Khi hai người c�ng trang lứa gặp nhau, người ta thường tự xưng l� em v� gọi đối phương l� anh / chị. Khi đ� quen biết v� th�n thiết nhau, người ta thường sử dụng cặp đại từ tớ � cậu, hoặc m�nh � cậu. Ở những người đ�n �ng trung ni�n, cặp đại từ em � b�c lại được sử dụng như một phương thức thể hiện l�ng k�nh trọng của bản th�n với đối phương. Trong gia đ�nh, khi em trai hay em g�i lập gia đ�nh, người l�m anh hay chị sẽ thể hiện sự t�n trọng của m�nh đối với em rể hoặc em d�u bằng c�ch tự xưng l� anh / chị hoặc t�i v� gọi l� dượng [đối với em rể], th�m [anh đối với em d�u], mợ [chị đối với em d�u]; thậm ch�, khi đ� lập gia đ�nh, em �t trong nh� cũng được n�ng vị tr� l�n cao bằng c�ch gọi l� ch� [anh đối với em trai], cậu [chị đối với em trai], c� [anh đối với em g�i] hay d� [chị đối với em g�i].

Khi v�o v�ng đất T�y Nam Bộ sinh cơ lập nghiệp, con người nơi đ�y vẫn lu�n giữ g�n lại một h�nh ảnh của một người �cũ� ở nơi ch�n nhau cắt rốn, do vậy, lối xưng h� kiểu �xưng khi�m h� t�n� n�y vẫn được sử phổ biến, nhất l� ở những v�ng n�ng th�n với kiểu xưng h�. Lối xưng h� n�y được xem l� một trong những chuẩn mực để đ�nh gi� t�nh lịch sự, nền nếp của một người, nhất l� người phụ nữ đ� c� chồng [�ng�n� l� một trong tứ đức của người phụ nữ: c�ng, ng�n, dung, hạnh].

Ảnh hưởng từ điều kiện tự nhi�n miền T�y Nam Bộ

Ở v�ng ch�u thổ Bắc Bộ, người Việt đ� sinh sống v� canh t�c đất ph� sa từ h�ng ng�n năm trước c�ng nguy�n, v� vậy, nơi đ�y đất hẹp người đ�ng, từ xưa đ� h�nh th�nh một khu vực l�m n�ng nghiệp kh�p k�n.

Trong khi đ�, ở miền T�y Nam Bộ, người Việt di cư đ� l�m chủ tr�n những mảnh đất m�u mỡ được bồi đắp từ hệ thống s�ng Cửu Long, d�n cư lại thưa thớt, v� thế m� h�nh th�nh những l�ng x� mang t�nh mở. Sống trong v�ng đất �t t�nh cạnh tranh như thế, con người trở n�n sống thật với bản th�n hơn v� sống thật với người kh�c hơn. Do vậy, tuy lối �xưng khi�m h� t�n� vẫn được xem l� ti�u chuẩn của một con người c� gi�o dục, nhưng ở nơi đ�y vẫn rất phổ biến lối xưng h� tao � m�y. Cặp đại từ xưng h� n�y kh�ng chỉ d�nh ri�ng cho những người th�n thiết c�ng trang lứa, m� n� c�n xuất hiện trong trường hợp người tr�n [tiền bối] n�i với người dưới [hậu bối]. Ngược lại, những người dưới c� thể xưng l� tui [tức t�i] đối với những người tr�n. Lối xưng h� n�y c� thể được xem như l� sản phẩm của điều kiện sống thuận lợi, mỗi người đều c� thể nhấn mạnh đến c�i t�i c� nh�n của m�nh v� � thức được vai tr� x� hội của m�nh. Mặt kh�c, lối xưng h� mở n�y [tức d�ng cho nhiều trường hợp] một phần cũng đ� phản �nh th�i độ ph�ng kho�ng, b�nh đẳng như ch�nh thi�n nhi�n nơi đ�y đ� c�.

Ảnh hưởng từ lối xưng h� của tộc người Hoa

Tr�n chiều d�i lịch sử, người Hoa sống tr�n l�nh thổ Trung Quốc đại lục v� cảng đ� t�ch luỹ một kho t�ng văn ho� v� c�ng đặc sắc v� l�u d�i v� c� một khả năng lan toả văn ho� một c�ch m�nh liệt. Do vậy, nh�m người Minh hương trong qu� tr�nh di cư sang miền Nam Việt Nam đ� tạo n�n một cuộc tiếp x�c văn ho� s�u đậm với người Việt. Một trong dấu đ� ch�nh l� việc sử dụng c�c đại từ xưng h� trong cuộc sống thường nhật. Trong đ�, khu vực c�c tỉnh S�c Trăng, An Giang, Ki�n Giang, C� Mau, Tiền Giang� vẫn c�n lưu giữ nhiều dấu t�ch của qu� tr�nh tiếp x�c văn ho� n�y.

2. Xuất ph�t từ những yếu tố tr�n, đại từ xưng h� của người Việt miền T�y Nam Bộ trở n�n vừa quen vừa lạ đối với những người Việt tr�n c�c v�ng miền kh�c. Những điểm tương đồng v� kh�c biệt đ� đ� tạo n�n những đặc trưng ri�ng trong c�ch sử dụng đại từ xưng h� của người Việt miền T�y Nam Bộ.

2.1. T�nh trọng t�nh, trọng mối quan hệ

Nếu ở Bắc Bộ, nền văn ho� n�ng nghiệp l�a nước l�u đời đ� khiến cư d�n nơi đ�y ch� trọng đến việc sử dụng c�c đại từ xưng h� sao cho kh�o l�o, văn nh�, vận dụng tối đa lối xưng khi�m h� t�n, do vậy, đối với người đồng đẳng, người ta thường xưng em gọi b�c hoặc xưng tớ gọi cậu, cha mẹ gọi con c�i đ� trưởng th�nh [bao gồm cả con rể v� con d�u] theo cấu tr�c anh / chị + thứ bậc, như anh cả, chị tư... Đồng thời, do thuyết ch�nh danh theo học thuyết Nho gi�o đ� b�m rễ vững chắc trong l�ng văn ho� Bắc Bộ n�n người ta thường gọi đối phương theo chức danh, c�ch gọi n�y tương tự như c�ch gọi của người Trung Quốc, H�n Quốc. Ch�ng ta c� thể bắt gặp kiểu gọi như: cậu cử, �ng t�, �ng ngh�, �ng k��

Ở T�y Nam Bộ, c�ch xưng h� của người Việt mang đậm t�nh xem trọng mối quan hệ hơn [nhất l� mối quan hệ theo huyết thống], �t mang t�nh kh�ch s�o, x� giao. Trong c�ch xưng h� ch�nh lệch một cấp bậc với người ngo�i, người ta thường xưng l� con m� kh�ng phải hoặc �t khi l� ch�u, v� theo mối quan hệ huyết thống, con c� huyết thống gần hơn so với ch�u. Thậm ch�, người Việt miền T�y Nam Bộ c�n hỏi thứ bậc để khi xưng h� sẽ tăng th�m mối quan hệ huyết thống, như: d� hai, ch� tư� Nếu đ� biết thứ bậc m� chỉ gọi duy nhất một đại từ xưng h� như d�, ch�, b�c� th� cũng chưa được xem l� đ�ng chất T�y Nam Bộ. Trong quyển Folk culture of the Viet people in Southern Vietnam [Văn ho� d�n gian người Việt ở Nam Bộ] c� viết: �Đối với nữ lớn hơn m�nh một cấp, để thể hiện t�nh cảm th�n mật v� k�nh trọng, th� thường gọi bằng d� hoặc d� hai v� tự xưng l� con, ch�u hoặc tui đều được� [Thạch Phương, Hồ L�, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: 240].

Giữa những người đồng đẳng, thay v� xưng em gọi b�c, người Việt miền T�y Nam Bộ đ� k�o mối quan hệ lại gần hơn bằng c�ch xưng em hoặc tui v� gọi anh / chị + thứ bậc, như anh hai, chị ba. Thậm ch�, đối với trường hợp ch�nh lệch hai cấp bậc, người ta c�n xưng con v� gọi ngoại [cho lẫn �ng v� b�]. Kiểu xưng h� n�y khiến người ta cảm thấy giữa những người xa lạ được kết nối lại với nhau, trở th�nh th�nh vi�n trong gia đ�nh. Điều n�y c� thể xuất ph�t từ điều kiện sống của người Việt nơi đ�y: khi v�o Nam khai ph�, l�c ấy đất rộng người thưa, con người cảm thấy c� đơn v� hụt hẫng v� phải l�a xa qu� cha đất tổ, trong khi �nơi đ�y xứ sở lạ l�ng, con chim k�u cũng sợ, con c� v�ng cũng kinh�, th� nhu cầu được quan t�m, chia sẻ bằng t�nh cảm ch�n thật lại trở n�n v� c�ng bức thiết. Do vậy, kh�ng c�n xuất ph�t từ việc lấy l�ng nhau trong kh�ng gian sống chật hẹp như ở v�ng ch�u thổ Bắc Bộ, việc xưng h� bằng đại từ chỉ mối quan hệ gia đ�nh [theo huyết thống] trở th�nh một chuẩn tắc chung cho c�c thế hệ sau ở nơi đ�y.

2.2. T�nh h�o sảng

Tr�n thực tế, người Việt miền T�y Nam Bộ vốn xuất th�n từ th�nh phần n�ng d�n phi�u t�n, những t� khổ sai, những tr� thức bất m�n trước thời cuộc, những binh l�nh đ�o ngũ� của v�ng Ngũ Quảng đ� d�m rũ bỏ nơi ch�n nhau cắt rốn của m�nh, �trước mặt họ l� biển cả, sau lưng họ l� chế độ phong kiến đang xua đuổi� [Nguyễn C�ng B�nh, L� Xu�n Diệm, Mạc Đường 1990: 30]. Do vậy, họ kh�ng cần phải sống chỉ theo lề th�i truyền thống, m� họ c�n d�m sống với � nghĩ của m�nh. Ở nơi đ�y, họ c� thể sống v� l� lẽ, v� bản th�n, sống để l�m gi�u, sống để hưởng thụ những th� vui ngắn ngủi trong đời. Ch�nh v� thế, họ sẵn s�ng vứt bỏ những tập qu�n phức tạp kh�ng ph� hợp, những sự kh�o l�o giả tạo, sự cam chịu trước kh� khăn, m� thay v�o đ� l� sự giản dị, s�ng phẳng, ch�n thật�

Trong lối xưng h�, người Việt miền T�y Nam Bộ cũng thể hiện bản chất của kh�ch �tứ chiếng giang hồ� n�y. Một trong những từ được người T�y Nam Bộ sử dụng nhiều nhất ch�nh l� t�i [ng�i số 1] v� �ng / b� [ng�i thứ 2]. Ở Bắc Bộ v� Trung Bộ v� cả Đ�ng Nam Bộ, cấp tr�n được gọi th�n mật l� sếp v� bản th�n tự xưng l� em th� ở T�y Nam Bộ, chất d�n chủ, kh�ng ph�n ng�i thứ v� chất s�ng phẳng sẵn c� của người d�n nơi đ�y đ� khiến chữ sếp bị biến dạng để trở th�nh chữ s�p, thậm ch� c�n thay bằng đại ca. Đặc biệt, chữ t�i vốn được sử dụng ở ng�i thứ nhất một c�ch hạn chế hay c� ch�t nghi�m trang trong hầu hết c�c trường hợp ở Bắc Bộ v� Trung Bộ, khi đi v�o Nam Bộ v� nhất l� T�y Nam Bộ th� n� đ� bị thay thế bằng biến thể của n� l� tui. �Trong ca dao n�i chung, đại từ t�i, vốn mang t�nh chỉ định c� thể cao, �t xuất hiện. Thế nhưng, trong ca dao Đồng bằng s�ng Cửu Long lại c� nhiều m� h�nh xưng h� m� ng�i thứ nhất lại mạnh dạn d�ng tui� [Nguyễn Văn Nở 2000].

C� thể n�i rằng, với lối sống giản dị, ph�ng kho�ng v� c� ch�t ngang t�ng của người Việt miền T�y Nam Bộ, những cặp đại từ xưng h� mang t�nh trang nghi�m hay tỏ � k�nh trọng đối phương một c�ch kh�ch s�o đ� trở n�n khập khiễng, ngượng nghịu. Đối với những trường hợp đ�, người ta thường tạo ra những biến thể bằng c�ch thay đổi nguy�n �m theo quy luật chung [đổi nguy�n �m rộng th�nh nguy�n �m hẹp, như � → i, � → u, a → ơ, như cơm nếp → cơm n�p, thối → th�i, mai → mơi] [Nguyễn Kim Thản 1984: 142]; thay đổi thanh điệu [thay thanh một [kh�ng dấu], thanh hai [huyền], thanh s�u [nặng] th�nh thanh ba, tức thanh hỏi]. V� vậy, ngo�i cặp đại từ xưng h� em � s�p, em � đại ca, tui � �ng / b�, đối với đại từ xưng h� ng�i thứ ba l� �ng ấy / b� ấy / anh ấy / chị ấy / cậu ấy, em ấy�, người ta c�n đơn giản ho� c�ch gọi n�y bằng c�ch giản lược từ chỉ ng�i thứ ba l� �ấy�, đồng thời, thay thanh điệu th�nh thanh thứ ba, tức l� hiện tượng hỏi ho� đại từ ng�i thứ ba: ổng / bả / ảnh / chỉ / cẩu / ẻm� Thậm ch�, ch�ng ta c�n c� thể bắt gặp hiện tượng gộp ba �m tiết lại th�nh một �m tiết bằng c�ch hỏi ho� đối với �m tiết giữa v� tắc thanh hầu đối với �m tiết đầu ti�n: thằng cha ấy → chả, con mẹ ấy → mẻ. Đ�y l� hiện tượng sử dụng đại từ xưng h� tương đối phổ biến trong d�n gian người Việt miền T�y Nam Bộ, d� rằng đ�y bị xem l� c�ch thể hiện sự bất k�nh tột độ trong văn ho� giao tiếp của người Việt Bắc Bộ v� Trung Bộ.

2.3. T�nh trọng họ ngoại

Trong văn ho� v�ng Bắc Bộ v� Trung Bộ, do cư d�n nơi đ�y độc t�n Nho gi�o trong thời gian l�u d�i [thời kỳ nh� L� � Bắc Bộ v� nh� Nguyễn � Trung Bộ] n�n quan niệm trọng nam khinh nữ lu�n được đề cao. Người con trai l� trụ cột của gia đ�nh, v� v� thế, d�ng họ nội chiếm ưu thế hơn.

Từ thế kỷ XVII trở đi, người Việt ở Bắc Bộ v� Trung Bộ [đa số l� cư d�n ở Quảng Ng�i] đ� bắt đầu sinh cơ lập nghiệp v�ng đất nay l� Nam Bộ. Với h�nh trang chỉ l� bản th�n c�ng với c�c dụng cụ gia đ�nh, những di d�n n�y vứt bỏ lại nơi qu� cha đất tổ của m�nh những r�ng buộc, những c�u nệ, khu�n ph�p� kh�ng hợp với bản chất của những con người ngh�o khổ, h�n mọn n�y. Ch�nh v� thế, những lu�n l� v� quan niệm của Nho gi�o dần dần bị nhạt dần theo qu� tr�nh Nam tiến, trong đ� c� quan niệm trọng nam khinh nữ. C� thể n�i rằng, những người đ�n b� di d�n n�y thật sự đ� t�m lại được quyền sống v� mưu cầu hạnh ph�c của m�nh chỉ khi họ sẵn s�ng s�t c�nh b�n những người đ�n �ng, c�ng trải qua những gian kh� ở v�ng đất mới. Thậm ch�, người đ�n b� c�n chiếm ưu thế nhiều hơn đ�n �ng, họ trở th�nh biểu tượng của sự trung trinh, đảm đang v� c� c� t�nh, trong khi người đ�n �ng lại �t được đề cao [đ�n �ng Trung Bộ v� Bắc Bộ vốn chủ yếu được đề cao qua sức học v� khả năng l�m quan, trong khi Nam Bộ lại l� v�ng đất xem nhẹ danh phận]. Do vậy, để thể hiện sự k�nh trọng trong khi xưng h�, người Việt miền T�y Nam Bộ thường tr�nh d�ng những từ xưng h� chỉ b�n d�ng họ nội.

Do vậy, đối với phụ nữ lớn hơn một cấp, người cấp dưới tự xưng l� con v� gọi d� hay d� hai m� kh�ng phải l� xưng ch�u gọi c� như trong c�ch giao tiếp của người Trung Bộ hay Bắc Bộ. Đối với phụ nữ lớn hơn hai cấp, người cấp dưới tự xưng l� con v� gọi l� b� ngoại hay n�i tắt l� ngoại. �Kh�ng gọi l� b� nội v� như thế l� kh�ng k�nh trọng [Thạch Phương, Hồ L�, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: 240]. Đối với đ�n �ng lớn hơn hai cấp, người ta cũng xưng con gọi ngoại hoặc �ng, nhất thiết kh�ng gọi l� nội hay �ng nội, v� c�ch gọi cha nội, �ng nội tương tự như c�ch gọi �ng tướng, �ng Trời con, ch�ng h�m nghĩa sự khinh bạc, xem thường hay c� � tr�u đ�a. �Những c�ch gọi cha, b� nội, �ng nội, �ng cố nội, b� cố nội đối với những người kh�ng xứng với những c�ch xưng h� ấy th� chỉ c� nghĩa l� coi thường họ, hoặc kh�ng c� thiện cảm, thậm ch� �c cảm đối với họ m� th�i� [Thạch Phương, Hồ L�, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: 241].

Trong khi đ�, để gọi người đ�n �ng lớn hơn một cấp, người ta thường gọi l� ch� hay b�c m� kh�ng gọi l� cậu. Điều n�y tưởng chừng như m�u thuẫn với nguy�n tắc chung nhưng c� thể được l� giải như sau: người phụ nữ chủ về t�nh cảm, do vậy, cần nhấn mạnh đến vai tr� của họ ngoại để dẫn dắt t�nh cảm trong quan hệ x� giao được tự nhi�n hơn; người đ�n �ng lớn hơn hai cấp [h�m nghĩa l� người gi�], mang t�nh �m, thi�n về t�nh cảm hơn sức mạnh v� l� tr�, do vậy, việc gọi �ng ngoại hay ngoại cũng c� � nghĩa tương tự; trong khi người đ�n �ng chỉ lớn hơn một cấp [h�m nghĩa l� người trẻ], mang t�nh dương, thi�n về sức mạnh v� l� tr� hơn t�nh cảm, do vậy, việc gọi cậu đối với người kh�ng c� quan hệ huyết thống lại l� một điều ki�ng kỵ, v� n� h�m nghĩa ch�m biếm, coi thường.

2.4. T�nh dung hợp văn ho�

Miền T�y Nam Bộ l� v�ng đất của sự cộng sinh từ những nh�m người kh�c nhau, trong đ�, chủ thể quan trọng nhất ch�nh l� người Việt từ miền Trung Bộ v� Bắc Bộ. B�n cạnh người Việt di cư, người Ph�p v� Mỹ trong qu� tr�nh tiếp x�c văn ho� cũng để lại những đặc trưng ri�ng, như c�ch gọi ba [từ chữ papa], m� [từ chữ mama] thay cho c�ch gọi truyền thống l� cha, mẹ hay thầy, u. Người Khmer bản địa v� đo�n người Hoa vượt biển lưu tr� tại v�ng viễn T�y Việt Nam cũng để lại dấu ấn văn ho� ri�ng. Trong số những tộc người thiểu số ấy, người Hoa gốc Quảng Đ�ng, Triều Ch�u v� Ph�c Kiến c� t�c động mạnh mẽ hơn cả đến văn ho� người Việt.

C�ch sử dụng đại từ xưng h� ng�i thứ hai như chế [chị [g�i]], hia [anh [trai]], t�a [cha, đại từ n�y đặc biệt đ� trở th�nh một đại từ thay thế cho tuyệt đại đa số c�c trường hợp gọi cha hay bố, ba ở miền T�y Nam Bộ trong thế kỷ XX, v� hiện nay vẫn c�n được sử dụng phổ biến ở c�c tỉnh c� nhiều người Hoa sinh sống hoặc gần với khu vực c� người Hoa sinh sống, như Bạc Li�u, S�c Trăng, C� Mau], n� [bạn], � [d�], t�i c� [anh] v� cặp đại từ xưng h� ng�i số một v� số hai l� qua [t�i, ta đối với trường hợp l� trưởng bối] � bậu [m�nh, em, n�ng], đ� trở th�nh một trong những đặc trưng để nhận định mức độ th�m nhập v� gắn kết của văn ho� Trung Hoa trong l�ng văn ho� Việt Nam. Đặc biệt, nếu chế, hia, t�a, n�, �, t�i c� chỉ phổ biến ở c�c tỉnh viễn T�y của đất nước l� S�c Trăng v� Bạc Li�u, th� cặp đại từ xưng h� qua � bậu đ� vượt kh�ng gian v� lan toả rộng r�i khắp cả miền T�y Nam Bộ, n� cũng được sử dụng kh� phổ biến ở Đ�ng Nam Bộ v� một �t ở Trung Bộ.

Theo B�nh Nguy�n Lộc, cặp đại từ n�y c� lẽ xuất ph�t từ tiếng Mạ, theo Nguy�n Nguy�n th� c� lẽ n� xuất ph�t từ tiếng Mường, nhưng theo L� Ngọc Trụ th� c�ch giải th�ch cho rằng cặp đại từ n�y xuất ph�t từ tiếng Triều Ch�u l� c� lẽ dễ chấp nhận hơn cả. Trong b�i viết của m�nh, Phan Tấn T�i t�n th�nh quan điểm n�y v� cho rằng: Nếu �qua� đ� l� �t�i� từ �m Triều Ch�u th� �bậu� cũng rất c� thể do �m Triều Ch�u m� ra. Tuy B�nh Nguy�n Lộc c� đưa ra gốc từ tiếng Mạ nhưng sau khi b�n luận với người Triều Ch�u, th� được biết trong tiếng Triều Ch�u c� tiếng �pa_u� hay �pấu� hay �b�� [giọng đọc kh�c nhau t�y v�ng: Bạc Li�u, Nam Vang, S�i G�n] l� vợ, hoặc đ�n b� [�] Từ pa_u [pấu, b�] n�y chỉ khi gh�p v�o một chữ nữa mới ph�n r� ng�i thứ như �cha pấu�, �cha pa_u�, �chao b�� [=vợ t�i] �deo pa_u� [= vợ y�u] như ta d�ng H�n Việt �tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền th� ...�. Từ ngữ gh�p của chữ pau [pấu, b�] chỉ c� � nghĩa rất b�nh thường� [Phan Tấn T�i 2010].

Ngay từ đầu thế kỷ XIX, người Việt miền T�y Nam Bộ đ� sử dụng cặp đại từ xưng h� n�y, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cặp đại từ n�y đ� thay thế cho c�c cặp đại từ kh�c trong hầu hết c�c trường hợp. C� khi người ta c�n d�ng những biến thể kh�c để sử dụng trong những t�nh huống kh�c nhau: qua � bậu, qua � em� Cặp đại từ xưng h� mang đặc trưng của t�nh dung hợp sẵn c� của người Việt n�y đ� đi s�u v�o c�c h�nh thức nghệ thuật như văn chương, cải lương, kịch n�i hay ca kh�c mang �m hưởng d�n gian T�y Nam Bộ:

�Bậu sang ph� Rạch Miễu

Qua lẽo đẽo theo sau

Đội b�ng trăng tr�n đầu

Tưởng như �o c� d�u��

[Ca kh�c Phải l�ng con g�i Bến Tre � Thơ: Phan Huy Tấn, lời: Lu�n Ho�n]

Đặc biệt, trong văn học d�n gian, cặp đại từ n�y chiếm một số lượng đ�ng kể: 79 từ bậu v� 28 từ qua xuất hiện trong 925 c�u ca dao của T�y Nam Bộ được sưu tầm ở trang web e-cadao.com, chiếm đến 11.56%. �Ngo�i c�ch sử dụng những cặp từ xưng h� thường thấy trong ca dao n�i chung, ch�ng ta c�n thấy những c�ch n�i ri�ng mang đậm t�nh địa phương v� phản �nh lời ăn, c�ch n�i, nếp nghĩ của cư d�n v�ng cực Nam của Tổ quốc. Nổi bật nhất l� cặp từ xưng h� �qua- bậu� v� những biến thể của cặp xưng h� n�y� [Nguyễn Văn Nở 2000].

3. Lời ăn tiếng n�i l� một lĩnh vực gắn liền với lối suy nghĩ của con người. Ở miền T�y Nam Bộ, c�ch sử dụng c�c đại từ xưng h� phần n�o cũng thể hiện được t�nh c�ch, ho�n cảnh sống của người Việt. Đ� l� một lớp từ được g�i gh�m lại từ nơi n� được sinh ra v� được mang đến miền đất mới bằng những con người mang t�m thức mới. Do đ�, một mặt n� vẫn thể hiện đầy đủ t�nh chất chung của lối xưng h� truyền thống, một mặt lại được thay đổi để ph� hợp hơn trong ho�n cảnh tồn tại ở miền đất T�y Nam.

Trần Duy Khương

Khoa Ngữ văn, ĐH Thủ Dầu Một

T�I LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn C�ng B�nh, L� Xu�n Diệm, Mạc Đường 1990: Văn ho� & cư d�n đồng bằng s�ng Cửu Long. NXB Khoa học X� hội
  2. Nguyễn Kim Thản 1984: �Về tiếng n�i v�ng đồng bằng s�ng Cửu Long�. In trong L� Anh Tr� 1984: Mấy đặc điểm văn ho� đồng bằng s�ng Cửu Long [cb]. NXB Viện Văn ho�
  3. Thạch Phương, Hồ L�, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh 1992: Folk culture of the Viet people in Southern Vietnam. � H� Nội: NXB Khoa học X� hội
  4. Nguyễn Văn Nở. C�ch xưng h� trong ca dao trữ t�nh đồng bằng s�ng Cửu Long. In trong Kỷ yếu học ngữ Trẻ 2000

//www.ctu.edu.vn/colleges/education/bmnv/nvno.html9.html

  1. Phan Tấn T�i 2010: Qua v� bậu trong văn thơ miền Nam

Tại sao người miền Nam gọi anh Cả l� �anh Hai�?

Ng�n ngữ l� loại h�nh văn ho� phi vật thể, phản �nh văn ho� v�ng, miền rất r� n�t. C�ch xưng h� �anh Cả� ở miền Bắc so với �anh Hai� ở miền Nam l� điển h�nh.

//baocamau.com.vn/van-hoa-xa-hoi/tai-sao-nguoi-mien-nam-goi-anh-ca-la-anh-hai--38050.html

Ng�n ngữ l� loại h�nh văn ho� phi vật thể, phản �nh văn ho� v�ng, miền rất r� n�t. C�ch xưng h� �anh Cả� ở miền Bắc so với �anh Hai� ở miền Nam l� điển h�nh.

Rất nhiều người đặt c�u hỏi tại sao người miền Nam gọi �anh Cả�, �chị Cả� [người con trưởng, theo c�ch gọi miền Bắc] l� �anh Hai�, �chị Hai�? ��y l� một hiện tượng văn ho� c� thể l� giải từ phương ph�p tiếp cận li�n ng�nh: ng�n ngữ học, khoa học lịch sử, văn ho� d�n gian�

Chữ �cả� trong tiếng Việt c� nghĩa l� lớn, to lớn [cả giận, cả gan, cả v� lấp miệng em, ao s�u nước cả�], c�n c� nghĩa kh�c l� tất cả, bao gồm [cả lớp, cả nh�m, cả đời�]. Người miền Bắc gọi �anh Cả�, �chị Cả� nghĩa l� anh lớn, chị lớn, người được sinh ra đầu ti�n trong gia đ�nh. Trong khi đ�, người miền Nam kh�ng gọi �anh Cả�, �chị Cả� m� gọi l� �anh Hai�, �chị Hai�. Hiện tượng n�y đến nay c� một số c�ch hiểu phổ biến như sau:

C�ch hiểu thứ nhất c� nguồn gốc từ nguy�n tắc �tứ bất� [bốn kh�ng] của triều Nguyễn: �bất thiết Tể tướng, bất thủ Trạng nguy�n, bất lập Ho�ng hậu, bất phong ��ng cung�, nghĩa l� c�c vua triều Nguyễn kh�ng đặt chức Tể tướng, trong thi cử kh�ng lấy đỗ Trạng nguy�n, kh�ng lập Ho�ng hậu v� kh�ng phong ��ng cung Th�i tử. Trong đ� việc kh�ng lập Ho�ng hậu v� ��ng cung Th�i tử v� cho rằng vua Gia Long v� tiếc thương người vợ l� Tống Thị Lan v� con trai cả l� Nguyễn Ph�c Cảnh [Ho�ng tử Cảnh] n�n d�nh vị tr� n�y để tưởng nhớ người đ� mất, từ đ� trong d�n gian kh�ng ai d�m gọi con lớn l� con cả.

C�ch hiểu thứ hai cho rằng li�n quan đến yếu tố ki�ng kỵ, kỵ hu�, do tr�ng với c�ch gọi �Hương Cả� l� một chức vụ đứng đầu ở l�ng, x� thời Ph�p thuộc. Năm 1904, để quản l� c�c địa phương ở Nam Kỳ, thực d�n Ph�p cho th�nh lập Hội đồng Hương chức [Hội đồng x�, c�n gọi l� Ban Hội tề] gồm 12 chức vụ: Hương Cả, Hương Sư, Hương Chủ, Hương Trưởng, Hương Ch�nh, Hương Gi�o, Hương Quản, Hương Bộ, Hương Th�n, X� Trưởng, Hương H�o v� Ch�nh Lục Bộ. Trong đ� Hương Cả l� chức vụ cao nhất. Người d�n kh�ng d�m gọi con trai lớn của m�nh l� �thằng Cả� v� sợ phạm thượng.

C�ch hiểu thứ ba từ t�m l� sợ cọp, c� rất nhiều c�u chuyện kể về việc những lưu d�n thế hệ trước bị cọp bắt, cọp vồ ở khắp c�c v�ng đất Nam Bộ như: �ồng Nai, An Giang, C� Mau� Những người con trưởng, con cả trong gia đ�nh bị cọp ăn thịt dẫn đến nỗi sợ h�i trong d�n gian, kh�ng d�m gọi con trưởng l� con cả v� sợ xui rủi; thậm ch� gọi cọp l� �Hương Cả cọp� [c� thể c�n h�m � mỉa mai bọn Hương chức Hội tề hung dữ như cọp]. Giả thuyết n�y kh�ng mấy thuyết phục v� đối tượng bị cọp vồ rất nhiều, kh�ng ph�n biệt con trưởng hay con thứ�

Trong qu� tr�nh nghi�n cứu văn ho� d�n gian ở miền Trung, người viết t�m được chứng cứ kh�c c� thể x�c định c�ch gọi �anh Hai� đ� c� trước thời Khởi nghĩa T�y Sơn [năm 1771], l�c đ� Nguyễn Nhạc [l� anh cả trong ba anh em: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ] đ� được Nh�n d�n địa phương gọi l� �anh Hai Trầu�. Trong cuốn �Lễ hội Việt Nam�, b�i Lễ hội Quang Trung, c�c t�c giả L� Trung Vũ, L� Hồng L� cũng x�c định: �Tại l�ng Ki�n Mỹ c�n di t�ch Bến Trầu - nơi tương truyền ng�y xưa Nguyễn Nhạc thường đưa trầu từ ph�a thượng nguồn về b�n ở v�ng An Th�i, An Nhơn� cho n�n Nguyễn Nhạc c�n c� t�n l� anh Hai Trầu�.

Như vậy c�c giả thuyết li�n quan đến triều Nguyễn [từ năm 1802] hay thời Ph�p thuộc [từ năm 1858] l� kh�ng thuyết phục, v� c�ch gọi �anh Hai� thay cho �anh Cả� đ� xuất hiện từ trước năm 1771.

Ngược d�ng lịch sử, trở lại thời ch�a Ti�n Nguyễn Ho�ng c�ng với binh sĩ, tuỳ t�ng v� Nh�n d�n ở một số địa phương miền Bắc v�o khai ph� v�ng đất phương Nam, c� thể giả thuyết c�ch gọi �anh Hai� xuất ph�t từ thời kỳ n�y. Sử s�ch ghi rằng trong đo�n qu�n Nam tiến l�c đ�, hầu như kh�ng c� ai l� �anh Cả�, v� x�c định c�ng cuộc �mang gươm đi mở c�i� l� �sinh ly, tử biệt� n�n c�c gia đ�nh phải để người con trưởng ở lại để phụng dưỡng cha mẹ v� chăm s�c mộ phần tổ ti�n; những người ra đi đều l� con thứ, kể cả Nguyễn Ho�ng cũng l� con trai thứ.

Về sự kiện n�y, s�ch ��ại Việt sử k� to�n thư�, quyển XVI, c� ch�p: �Th�ng 10 [Mậu Ngọ, tức năm 1558], Th�i sư Trịnh Kiểm v�o chầu, d�ng biểu xin sai con thứ của Chi�u Hu�n Tĩnh c�ng l� �oan quận c�ng Nguyễn Ho�ng đem qu�n v�o trấn thủ xứ Thuận Ho� để ph�ng giặc ph�a đ�ng c�ng với Trấn quận c�ng ở Quảng Nam cứu viện cho nhau. Mọi việc của xứ n�y, kh�ng cứ lớn hay nhỏ, v� c�c ngạch thuế đều giao cả cho, hằng năm đến kỳ hạn th� thu nộp�.

S�ch �Việt Nam sử lược� của Trần Trọng Kim [1919] cũng ghi: ��ng Nguyễn Kim c� hai người con l� Nguyễn U�ng v� Nguyễn Ho�ng cũng l�m tướng lập được nhiều c�ng. Người anh l� Nguyễn U�ng được phong l�m Lang quận c�ng, người em l� Nguyễn Ho�ng được phong l� Th�i u� �oan quận c�ng. Nhưng v� Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền m�nh, b�n kiếm chuyện m� giết Nguyễn U�ng đi. C�n Nguyễn Ho�ng cũng sợ Trịnh Kiểm c� � �m hại, chưa biết l�m thế n�o mới ra Hải Dương hỏi �ng Nguyễn Bỉnh Khi�m. �ng ấy bảo rằng �Ho�nh sơn nhất đ�i, vạn đại dung th�n� [nghĩa l� một d�y Ho�nh Sơn [chỗ đ�o Ngang, Quảng B�nh] kia c� thể y�n th�n được mu�n đời].

Nguyễn Ho�ng mới n�i với chị l� b� Ngọc Bảo [vợ Trịnh Kiểm] xin Trịnh Kiểm cho v�o trấn ph�a Nam. Năm Mậu Ngọ [1558] đời vua Anh T�ng, Trịnh Kiểm mới t�u vua cho Nguyễn Ho�ng v�o trấn đất Thuận Ho�. Bấy giờ những người họ h�ng ở huyện Tống Sơn c�ng những qu�n l�nh ở đất Thanh, Nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo đi��.

Nhiều thế hệ cư d�n miền Bắc v�o Nam khai ph� theo ch�nh s�ch của Nguyễn Ho�ng đ� � thức được c�ng cuộc tha hương sẽ kh� c� ng�y quay trở lại. V� vậy, những người d�n Nam tiến n�y đều l� những �anh Hai�, �anh Ba�� V� cuộc mưu sinh tr�n v�ng đất mới, v� muốn tho�t khỏi sự tr�i buộc của luật lệ phong kiến khắt khe, họ phải ra đi nhưng trong l�ng vẫn canh c�nh nhớ về qu� cha đất tổ.

Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ trong b�i thơ �Nhớ Bắc� [viết năm 1940] c� những c�u thơ diễn tả t�m trạng n�y:

�Ai đi về Bắc ta theo với

Thăm lại non s�ng giống Lạc - Hồng

Từ thuở mang gươm đi mở c�i

Ng�n năm thương nhớ đất Thăng Long�

�ể tưởng nhớ qu� hương, c�c thế hệ d�n cư miền Nam đ� gi�nh vị tr� �anh Cả� cho những người c�n lại ở đất Bắc, n�n những người con trưởng sau n�y được gọi l� �anh Hai�, �chị Hai�, l�u dần th�nh th�i quen, th�nh phong tục, th�nh truyền thống đạo l� của d�n tộc.

Hiện tượng n�y c� nguy�n nh�n từ truyền thống Nho học v� đạo l� xem trọng chữ Hiếu, người con trai cả c� vai tr� rất lớn trong gia đ�nh: �quyền huynh thế phụ�, khi cha mẹ mất th� người anh cả c� tr�ch nhiệm g�nh v�c việc gia đ�nh, thờ c�ng tổ ti�n, nu�i dạy c�c em n�n người� Khi cha mẹ c�n sống cũng kh�ng được đi xa �Phụ mẫu tại, bất khả viễn du�.

Cũng cần n�i th�m rằng, người d�n miền Nam đ� s�ng tạo rất nhiều từ những �gi� trị văn ho� gốc của miền Bắc, việc g�nh v�c gia đ�nh, phụng dưỡng tổ ti�n của cư d�n miền Nam kh�ng c�n l� vị tr� độc t�n của người con trưởng, m� thường giao người con �t. Từ đ� c� quan niệm �gi�u �t ăn, ngh�o �t chịu�. Người con �t trở th�nh trụ cột trong gia đ�nh, lo phụng dưỡng cha mẹ gi�, thờ c�ng tổ ti�n; nhiều người thứ �t cũng được đặt t�n �t, thậm ch� c�n s�ng tạo: �t T�m, �t Ch�n, �t Mười, �t Th�m, �t Nữa, �t Ch�t, �t Hết�

Li�n quan đến c�ch xưng h� của người miền Nam c�n c� c�ch gọi theo thứ của người đối diện, thể hiện th�i độ t�n trọng, tr�nh gọi t�n thật, nhất l� đối với người lớn tuổi. V� dụ, người ta thường gọi: ch� Hai, ch� Ba, ch� �t� hoặc anh Hai, anh Ba, anh Tư� ��y c� lẽ l� s�ng tạo của người miền Nam do ảnh hưởng văn ho� ứng xử phương T�y trong những năm bị thực d�n Ph�p, đế quốc Mỹ cai trị, người phương T�y thường gọi họ trong giao tiếp [�ng Nguyễn, �ng Trần�] để thể hiện sự t�n trọng, thay v� gọi t�n [Nguyễn Văn A, Trần Văn B; �ng A, �ng B�].

Ng�n ngữ trong đời sống của người miền Nam đ� trải qua qu� tr�nh lịch sử, giao lưu, tiếp biến văn ho� h�ng trăm năm, x�t dưới g�c độ văn ho� l� �đặc sản� của địa phương, thể hiện bản sắc văn ho� v�ng miền, g�p phần l�m cho nền văn ho� Việt Nam th�m phong ph�, đa dạng nhưng đậm đ� bản sắc d�n tộc./.

Huỳnh Thăng

Post ng�y: 12/08/18

Sự khác nhau của cách xưng hô, tên gọi đồ vật giữa miền Bắc và miền Nam

Chủ nhật, ngày 05/09/2021 15:39

Khi giao tiếp, ngôn ngữ hai miền Bắc – Nam có nhiều sự khác biệt thú vị khiến nhiều người rơi vào cảnh dở khóc dở cười.

Để tránh được những sự cố, hiểu lầm đáng tiếc khi giao tiếp, hệ thống đã tổng hợp sự khác nhau của tên gọi đồ vật, cách xưng hô giữa các miền, mời quý độc giả tham khảo!

Video liên quan

Chủ Đề