Chuyên gia đánh giá quân sự việt nam năm 2024

Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước và là một mặt hoạt động quốc phòng nhằm thực hiện mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc bằng biện pháp hòa bình. Quán triệt và triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng, những năm qua, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo triển khai tích cực, đồng bộ, với nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt được kết quả toàn diện trên cả bình diện song phương và đa phương, góp phần củng cố, phát triển quan hệ của Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế; tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để xây dựng Quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng, khắc phục hậu quả chiến tranh; thúc đẩy hợp tác với các nước láng giềng; nâng cao vị thế, vai trò, uy tín của đất nước, Quân đội trên trường quốc tế.

Trong những năm qua, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu, trở thành một trong những trụ cột của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, góp phần xây dựng nền quốc phòng toàn dân; phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp - nền tảng vững chắc để thực hiện kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; tranh thủ hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; nâng cao vai trò, vị thế, uy tín của đất nước nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng trên trường quốc tế.

Về quan hệ song phương, ta tiếp tục xử lý tốt quan hệ quốc phòng với các nước, đặc biệt là với các nước láng giềng, các nước lớn, góp phần xây dựng lòng tin, tạo thế đan xen chiến lược, bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Đến nay, Bộ Quốc phòng Việt Nam đã mở rộng và thiết lập quan hệ hợp tác với trên 100 quốc gia, trong đó có đầy đủ 05 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn. Các đối tác chủ chốt gồm: 03 nước quan hệ đối tác hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện (Cuba, Lào, Campuchia); 05 nước quan hệ đối tác chiến lược toàn diện (Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ); 13 nước quan hệ đối tác chiến lược; 12 nước quan hệ đối tác hợp tác toàn diện; 03 tổ chức quốc tế (Liên hợp quốc, EU, Tổ chức Thủy đạc quốc tế). Việt Nam đã cử 33 cơ quan Tùy viên quốc phòng trực tiếp và kiêm nhiệm tại 41 nước và Liên hợp quốc; ký kết 426 văn bản hợp tác quốc phòng với các đối tác; có 52 quốc gia đặt cơ quan tùy viên quốc phòng, tùy viên quân sự tại Việt Nam.

Với các nước láng giềng liền kề, ta đã tổ chức thành công 07 lần giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới với Trung Quốc, 01 lần với Lào, 01 lần với Campuchia và chuẩn bị tổ chức Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia cấp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng lần thứ nhất vào trung tuần tháng 12 năm 2023; Giao lưu Hải quân, Cảnh sát biển Việt Nam và những người bạn với 06 nước, nhất là hàng chục cuộc giao lưu Biên giới các cấp của Bộ đội Biên phòng với lực lượng bảo vệ biên giới các nước tiếp giáp, cơ chế phối hợp tổ chức tuần tra chung trên bộ, trên biển; diễn tập phòng, chống tội phạm xuyên biên giới; diễn tập quân y; tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa cụm dân cư hai bên biên giới và các hoạt động khám, chữa bệnh, hỗ trợ cho nhân dân ở hai bên biên giới, v.v.

Về đối ngoại quốc phòng đa phương, Quân đội đã tích cực tham gia có trách nhiệm và chủ động đóng góp xây dựng, đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực tại các cơ chế hợp tác về quốc phòng, an ninh của khu vực và quốc tế, như: Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN Mở rộng (ADMM+), Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN (ARF), Đối thoại Shangri-La, Hội nghị an ninh quốc tế Moscow, Diễn đàn Hương Sơn - Bắc Kinh, Đối thoại Quốc phòng Seoul, v.v. Đến nay, Việt Nam đã tham gia đầy đủ, liên tục tất cả các cơ chế hợp tác quân sự, quốc phòng do ASEAN dẫn dắt; tham gia đầy đủ ở cấp phù hợp với các diễn đàn an ninh quốc tế lớn trong khu vực; tham gia có trách nhiệm vào các tổ chức đa phương quốc tế và khu vực. Đặc biệt, đối ngoại quốc phòng đa phương đã có sự chuyển biến mạnh về tư duy từ “tham dự” sang “chủ động đóng góp xây dựng, định hình luật chơi chung”, đảm nhận và chủ trì thành công nhiều hoạt động hợp tác thực chất1; tích cực cử lực lượng Quân đội tham gia các hoạt động thực tế trong khuôn khổ ASEAN.

Trong khuôn khổ Liên hợp quốc, Quân đội đã tham mưu với Đảng, Nhà nước chủ động, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế về các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, hỗ trợ nhân đạo, cứu trợ thảm họa, được Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Sự tham gia của Việt Nam được mở rộng cả về hình thức, quy mô, lực lượng và địa bàn. Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã cử trên 780 lượt cán bộ, nhân viên, trong đó có 97 lượt cá nhân, 02 đội công binh và 05 bệnh viện dã chiến cấp 2 làm nhiệm vụ tại các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đặc biệt, Việt Nam là quốc gia đi đầu về số quân nhân nữ tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình, với tỷ lệ là 16,6% (tỷ lệ trung bình của các nước là gần 10%).

Bộ Quốc phòng đã chủ động, tích cực vận động hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh. Đến nay, Việt Nam đã hợp tác với 16 quốc gia và tổ chức quốc tế và huy động được trên 650 triệu USD để khắc phục hậu quả chất độc dioxin, bom mìn; trong đó, Hoa Kỳ đã cam kết tiếp tục hỗ trợ đủ kinh phí cho khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin tại sân bay Biên Hòa. Theo thống kê, tổng diện tích tồn lưu bom mìn, vật nổ sau chiến tranh khoảng 5,6 triệu ha, khối lượng đất bị nhiễm dioxin cần xử lý gần 01 triệu mét khối. Đến nay, chúng ta đã rà phá được gần 485.000 ha đất bị ô nhiễm bom mìn, vật nổ trên toàn quốc, hoàn thành xử lý dioxin sân bay Đà Nẵng; đang xử lý tẩy độc đất ô nhiễm dioxin giai đoạn 1 tại sân bay Biên Hòa (đạt khoảng 13%); hoàn thành xử lý toàn bộ đất nhiễm dioxin tại sân bay A Sho/Thừa Thiên Huế.

Những thành tựu quan trọng của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng thời gian qua khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là trong xử lý các quan hệ quốc tế và làm sâu sắc thêm bài học về nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết; kết hợp linh hoạt giữa hợp tác và đấu tranh, xử lý tốt mối quan hệ quốc phòng với các nước trong và ngoài khu vực, đặc biệt là các nước lớn, tạo thế đan xen lợi ích, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa xung đột và nguy cơ chiến tranh, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Chuyên gia đánh giá quân sự việt nam năm 2024
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến trao Quyết định của Chủ tịch nước cho 7 sĩ quan làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc

Trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo; môi trường chính trị, an ninh thế giới, khu vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn. Cục diện thế giới đa cực, đa trung tâm diễn ra phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, toàn diện. Biển Đông vẫn tiềm ẩn nhiều bất trắc, khó lường; các thách thức an ninh phi truyền thống tiếp tục gia tăng đe doạ an ninh, ổn định của nhiều nước. Trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước ngày càng được củng cố, nâng cao; sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đứng trước nhiều vận hội mới, nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch đẩy mạnh các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam, công kích, chia rẽ quan hệ giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới. Tình hình trên đòi hỏi toàn quân phải tiếp tục vận dụng và phát huy vai trò tiên phong của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực để phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để hoàn thành tốt các mục tiêu trên, công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng cần tập trung thực hiện đồng bộ một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới. Trước hết, tập trung quán triệt và triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại được xác định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 34-NQ/TW, ngày 09/01/2023 của Bộ Chính trị về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng; Kết luận số 53-KL/TW, ngày 28/4/2023 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo; đồng thời, bám sát định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước những chủ trương, giải pháp chiến lược liên quan đến hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Trên cơ sở quan điểm, phương châm, nguyên tắc đối ngoại của Đảng, thực hiện linh hoạt, sáng tạo, có hiệu quả các nguyên tắc, phương châm đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới, chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định trong mọi tình huống. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực; kiên trì chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ theo phương châm “thêm bạn, bớt thù”; kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng; gắn đối ngoại quốc phòng với chiến lược tổng thể của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân; giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh trên thực địa của các lực lượng, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xâm phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam; tăng cường củng cố tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, thực hiện nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Hiện nay, cùng với đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phải luôn đặt trong việc giải quyết tốt mối quan hệ rộng lớn giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của đất nước, để vừa tận dụng được những cơ hội, vừa tránh được các tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập quốc tế, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Việc khai thác lợi ích từ hội nhập quốc tế phụ thuộc nhiều vào sự ổn định, phát triển trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ quốc tế. Môi trường toàn cầu, hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho đất nước phát triển nhưng cũng là điều kiện để các thế lực thù địch nhân danh “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do tôn giáo”,… can thiệp vào công việc nội bộ của ta, thực hiện “diễn biến hòa bình”, kích động, xúi giục các hoạt động bạo loạn lật đổ, đe dọa an ninh quốc gia. Vì vậy, cần tỉnh táo, kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, xử lý các mối quan hệ, xác định rõ và luôn kiên định lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu tối thượng trong quá trình hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Đồng thời, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị; đa phương hóa, đa dạng hóa và kiên định chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam. Cùng với đó, cần chủ động nghiên cứu, đánh giá và xác định đúng đắn quan hệ đối tác - đối tượng trong từng tình huống cụ thể để có những giải pháp ứng phó phù hợp, góp phần triển khai hiệu quả nhiệm vụ hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu dự báo, tham mưu chiến lược về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng cần tăng cường công tác nắm tình hình, nâng cao năng lực nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược, nhất là các xu thế, động thái mới ở khu vực và thế giới, cạnh tranh chiến lược, tập hợp lực lượng, can dự của các nước lớn, tình hình Biển Đông, biên giới lãnh thổ. Trong đó, chú trọng đánh giá, phân tích những thuận lợi, khó khăn, tác động trực tiếp đến quốc phòng, an ninh của đất nước và nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng, làm cơ sở tham mưu giúp Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng xây dựng, hoạch định chiến lược, chính sách đối ngoại quốc phòng và các biện pháp xử lý kịp thời, đúng đắn mối quan hệ với các nước, các tổ chức quốc tế, phù hợp với bối cảnh quốc tế, khu vực và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thường xuyên phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các ban, bộ, ngành, địa phương và lực lượng có liên quan trong nghiên cứu dự báo và tham mưu chiến lược về đối ngoại quốc phòng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong phân tích, đánh giá tình hình, không để bị động, bất ngờ.

Bốn là, nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng song phương và đa phương, đưa quan hệ hợp tác với các nước đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả. Tiếp tục thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ quốc phòng song phương, nhất là với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước ASEAN và các nước bạn bè truyền thống, trên nguyên tắc bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, bình đẳng, cùng có lợi, tuân thủ luật pháp quốc tế; gia tăng tin cậy chính trị, mức độ đan xen lợi ích; xử lý hài hòa quan hệ với các nước lớn, phù hợp với tình hình thực tiễn đặt ra. Trong quá trình triển khai, cần kiên định với những vấn đề mang tính nguyên tắc, nhưng khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt trong ứng xử, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến”; xác định rõ “đối tác, đối tượng” để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, gia tăng hợp tác, tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc rơi vào thế phải “chọn bên” “chọn phe”. Tăng cường các biện pháp xây dựng lòng tin chiến lược, hiểu biết lẫn nhau; kiên trì giải quyết các bất đồng và xung đột bằng các biện pháp hòa bình, trên tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Đa dạng hóa các hình thức, nội dung đối ngoại quốc phòng; triển khai hiệu quả các nội dung hợp tác đã ký kết, tập trung thúc đẩy các cơ chế tham vấn, đối thoại, hợp tác trên các lĩnh vực phù hợp với thế mạnh của từng đối tác và nhu cầu của Việt Nam.

Thực hiện tích cực, có hiệu quả Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 08/8/2018 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030. Tích cực, chủ động đóng góp xây dựng và hoạch định chính sách, đề xuất các sáng kiến và tham gia có trách nhiệm, hiệu quả vào các cơ chế, diễn đàn an ninh khu vực và quốc tế, nhất là cơ chế hợp tác quốc phòng trong khuôn khổ ASEAN, do ASEAN giữ vai trò chủ đạo, góp phần xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN, đóng góp tích cực vào duy trì hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới. Tiếp tục đẩy mạnh tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc theo Nghị quyết số 130/2020/QH14 theo hướng mở rộng lĩnh vực, địa bàn và quy mô.

Năm là, tích cực, chủ động nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại. Toàn quân thực hiện nền nếp, chất lượng công tác thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước theo Kết luận số 57-KL/TW, ngày 15/6/2023 của Bộ Chính trị về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới. Kết hợp đồng bộ nhiều lực lượng, biện pháp, kịp thời thông tin cho cán bộ, chiến sĩ, nhân dân, đồng bào Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối đối ngoại, chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Đảng, Nhà nước ta, những thành tựu phát triển của đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam; làm cho thế giới biết đến Việt Nam không chỉ là một đất nước yêu chuộng hòa bình, đang phát triển mạnh mẽ, mà còn là một quốc gia có trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực, vì hòa bình, phát triển và thịnh vượng. Qua đó, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, tạo sự đồng thuận, ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân ta; kịp thời đấu tranh ngăn chặn những thông tin độc hại, tư tưởng sai trái, luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch lợi dụng chủ trương hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng để chia rẽ Đảng, Nhà nước, Quân đội với Nhân dân.

Cùng với đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến đối ngoại quốc phòng, bảo đảm phù hợp với hệ thống pháp luật, thông lệ quốc tế, đáp ứng cả yêu cầu trước mắt và lâu dài. Tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân ủy Trung ương về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo; xây dựng Luật về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị làm công tác đối ngoại quốc phòng trong toàn quân với các ban, bộ, ngành, địa phương có liên quan trong triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại quốc phòng.

Thượng tướng, PGS, TS. HOÀNG XUÂN CHIẾN, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng ____________________

1 - Đồng chủ trì Nhóm chuyên gia ADMM+ về Hành động mìn nhân đạo chu kỳ 2014 - 2017 cùng Ấn Độ; về gìn giữ hòa bình chu kỳ 2021 - 2023 cùng Nhật Bản.