Dịch vật nghĩa là gì
Khi đã mắc các bệnh truyền nhiễm, cơ thể người bệnh sẽ có đáp ứng miễn dịch dịch thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Đó được gọi là quá trình tạo thành miễn dịch. Tùy theo loại bệnh và cơ thể người mà miễn dịch được hình thành với mức độ, thời gian tồn tại miễn dịch bảo vệ khác nhau. Bệnh truyền nhiễm hay còn gọi là bệnh lây, đây là dạng bệnh rất phổ biến. Nguyên nhân gây ra bệnh truyền nhiễm là do vi sinh vật (như vi khuẩn, virus, nấm hay ký sinh trùng) gây ra, bệnh có khả năng lây truyền trong cộng đồng bằng nhiều đường khác nhau và có thể trở thành vùng dịch với số người mắc nhiều. Tuy nhiên, khi đã mắc các bệnh truyền nhiễm, cơ thể người bệnh sẽ có đáp ứng miễn dịch dịch thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào. Đó được gọi là quá trình tạo thành miễn dịch. Tùy theo loại bệnh và cơ thể người mà miễn dịch được hình thành với mức độ, thời gian tồn tại miễn dịch bảo vệ khác nhau. Bệnh truyền nhiễm được phân loại theo đường lây và chia ra 5 nhóm bệnh. Cụ thể:
Bệnh truyền nhiễm do các vi sinh vật gây ra 2.1. Đặc điểm chung của bệnh truyền nhiễm Thông thường, đặc điểm chung của bệnh truyền nhiễm như sau:
2.2. Giai đoạn phát triển của bệnh truyền nhiễm
Điều trị bệnh truyền nhiễm bằng các loại thuốc khàng sinh Điều trị bệnh truyền nhiễm phải điều trị đặc hiệu, cơ chế bệnh sinh, điều trị triệu chứng và chế độ chăm sóc dinh dưỡng. Cụ thể:
Thường xuyên rửa tay sát khuẩn để phòng chống bệnh truyền nhiễm Các bệnh truyền nhiễm có thể nhập vào cơ thể thông qua: Da, hít phải vi trùng trong không khí; ăn thức ăn bị ô nhiễm hoặc nước; bị côn trùng cắn hoặc bị muỗi đốt; quan hệ tình dục không an toàn. Do vậy, để phòng ngừa bệnh, mọi người nên thực hiện theo các phương pháp sau để giảm nguy cơ lây nhiễm cho bản thân hoặc người khác:
Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec với hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế hiện đại cùng đội ngũ chuyên gia, bác sĩ nhiều năm kinh nghiệm trong khám điều trị bệnh. Do đó, khi có bất cứ vấn đề gì về sức khỏe người bệnh hoàn toàn có thể yên tâm thăm khám và điều trị tại Bệnh viện. XEM THÊM: (TG) - , từ xưa đến nay vẫn là... chửi. Đó là hiện tượng "thốt ra những lời thô tục, cay độc để xúc phạm, làm nhục người khác" (, Trung tâm Từ điển học, NXB Đà Nẵng, 2020).
Rõ ràng, chửi là một hành động ngôn từ không bình thường. Mọi nhà ngôn ngữ đều xếp chửi vào nhóm những ngôn từ "phản chuẩn", "kém văn hoá". Nhưng thử hỏi, có ai trên đời này lại không bao giờ thốt ra lời chửi rủa? Nguyễn Thị Tuyết Ngân, trong bài "Đặc trưng ngôn ngữ - văn hoá trong các lối chửi của người Việt" (, Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, 1993) có nói: "Chửi là hiện tượng mà, có lẽ, dân tộc nào cũng có và có từ rất lâu đời. Trong một số loại hình văn hoá dân gian (truyện cổ tích, thành ngữ) đã thấy có những yếu tố của hiện tượng này". Trần Thị Hoàng Yến (trong luận án tiến sĩ với đề tài , bảo vệ tại Trường Đại học Vinh, 2014) cũng cho rằng: "Trên thực tế, hành động chửi vẫn tồn tại và phát triển trong lời nói ở những giai tầng xã hội khác nhau, cả những người có trình độ văn hoá thấp đến những người có trình độ văn hoá cao, cả nam lẫn nữ, cả người cao tuổi lẫn người ít tuổi". Theo Nguyễn Thị Tuyết Ngân (1993), "Chửi là một hiện tượng văn hoá ngôn từ phản chuẩn, bày tỏ một cách chủ động phản ứng bất bình nhằm làm giảm căng thẳng tinh thần của người chửi và hạ uy tín người bị chửi". Như vậy, chửi xuất phát từ một nhu cầu tự thân của người chửi. Ai đó cảm thấy bất bình trước hiện thực, nhất là khi quá bức xúc khi chính mình bị xúc phạm hay bị tổn thương mất mát về vật chất (mất gà, mất chó, mất của... chẳng hạn) thì sẽ tìm cách "xả cơn giận" bằng việc chửi. Tất nhiên, không phải cứ "quá bức xúc, quá bực bội" đều thốt ra câu chửi. Và cũng không phải mọi lời chửi đều giống nhau. Tiếng Việt có khá nhiều từ ngữ phản ánh sự đa dạng, phong phú và sinh động của hành động chửi: . Nhưng chửi gì thì chửi, mục đích của người chửi là dùng lời lẽ thô tục để làm nhục, làm mất thể diện người khác. Điều này sẽ dẫn đến nguy cơ xung đột vì người bị chửi có thể phản ứng lại. Cũng có thể họ chửi lại. Cũng có thể sẽ xảy ra bạo lực (đánh nhau, thậm chí dẫn đến hậu quả nghiêm trọng, như gây thương tích, chết người). Người chửi thường dùng những lời lẽ xấu xa, cay độc nhất để miệt thị làm mất mặt đối tượng. Ngôn từ đưa ra, theo Nguyễn Thị Tuyết Ngân, chia thành 4 nhóm lớn: 1) Những từ thuần Việt chỉ các bộ phận sinh dục nam và nữ (riêng những từ Hán Việt tương ứng không có chức năng này); 2) Những từ chỉ tên những súc vật có đặc tính xấu: (khỉ đột, tiều/tườu, nỡm, bú dù), (dê cụ), ...; 3) Những từ chỉ một thứ "giả người", chưa đủ tiêu chuẩn người: ; 4) Những từ chỉ người với sắc thái đánh giá âm tính, vi phạm chuẩn mực xã hội (a. về nghề nghiệp: ...; b. về sinh lí: ,...; c. về trí tuệ: ...; d. về tín ngưỡng: ...; e. về đạo lí: ...; g. về pháp luật: ...). Ngoài ra, "trong tiếng Việt còn có nhóm từ chửi đặc biệt, đó là lớp các tên riêng liên quan đến tục chửi "tên cái": , v.v. (cho đến các từ thay thế như )". Tức là tất cả những gì có thể làm ảnh hưởng tới tư cách và nhân cách với người bị chửi, với mục đích hạ uy tín "ngay và luôn", tới mức cao nhất với người bị chửi. Như vậy, qua từ ngữ chửi, cách chửi, lối chửi, người ta đã cố tình vi phạm các quy cách chuẩn mực trong giao tiếp thường gặp, bỏ qua mọi yếu tố nghi thức lịch sự tối thiểu. Bình thường là "xưng khiêm hô tôn" (xưng khiêm nhường, gọi tôn kính) nhưng khi "xắn quần, tốc váy" lên để chửi thì sẽ là "xưng tôn hô khiêm" (xưng thì tự đề cao mình, nhưng gọi lại hạ thấp người khác). Họ sẵn sàng xưng là và gọi đối tượng bằng những cái tên thấp hèn như (và sau đó, có thể sẽ cho "cái quân khốn nạn" đó ăn đủ mọi thứ cặn bã trên đời này). Đó là lối chửi đời thường. Trong văn học, người ta cũng đưa hành vi chửi vào các văn bản mang tính nghệ thuật (Nguyễn Khuyến từng viết: ; Tố Hữu cũng viết: ...). Tuy nhiên, trong thơ văn nói chung, người ta sử dụng một cách hạn chế và mức độ cũng nhẹ hơn nhiều. PGS. TS. Phạm Văn Tình |