Imromac là gì

Anh bắt đầu chữa Covid-19 bằng thuốc dexamethasone có sẵn

17 tháng 6 2020

Nguồn hình ảnh, Matthew Horwood/Getty Images

Một phác đồ điều trị cứu sống được mạng người đối với các bệnh nhân ốm nặng, phải nhập viện do Covid-19, bắt đầu được áp dụng tại Anh Quốc kể từ hôm nay, sau các kết quả nghiên cứu đột phá trong thử nghiệm tại Anh.

Dexamethasone - một loại steroid giá thành rẻ và dễ kiếm - cho thấy tác dụng giúp giảm nguy cơ tử vong ở các bệnh nhân phải dùng máy thở hoặc phải thở oxi.

Các quan chức y tế của Anh nói chất này sẽ được sử dụng "ngay lập tức".

Anh Quốc không gặp khó khăn gì trong việc cung ứng loại thuốc này.

Trong một lá thư khẩn cấp do bốn quan chức y tế cao cấp nhất của Anh gửi tới các bác sỹ thuộc hệ thống y tế công, NHS, những người đứng đầu ngành y tế nói rằng dexamethasone có "một vị trí rõ ràng trong việc theo dõi kiểm soát tình trạng các bệnh nhân phải nhập viện do Covid-19".

Bộ trưởng Y tế Matt Hancock nói trước Hạ viện rằng 240.000 liều thuốc này hiện "đang có sẵn và đang được đặt hàng".

"Nó không phải là phương thức chữa trị nhưng là thứ tốt nhất mà chúng ta có vào lúc này," ông nói thêm.

'Bước đột phá to lớn'

Loại thuốc chữa viêm tấy này đã được dùng thử như một phần trong thử nghiệm lớn nhất thế giới về tác dụng của các cách điều trị đã được biết đến, nhằm tìm xem liệu có thứ gì thích hợp cho việc chống lại virus corona hay không.

Trong thử nghiệm do một nhóm từ Đại học Oxford dẫn dắt này, khoảng 2.000 bệnh nhân trong bệnh viện đã được cho dùng dexamethasone và so sánh với tình trạng của 4.000 người không dùng.

Với những người phải dùng máy thở, thuốc này giúp giảm nguy cơ tử vong từ 40% xuống 28%.

Với những người cần được cấp dưỡng khí, nó giúp giảm tỷ lệ tử vong từ 25% xuống 20%.

Các nhà nghiên cứu nói điều này tương đương với việc trong số tám bệnh nhân phải dùng máy thở sẽ có thêm một người được cứu sống, và sẽ có thêm một người được cứu sống trong mỗi 20-25 người cần thở oxi.

Vào hôm thứ Hai 15/6, có 385 người mắc Covid-19 phải dùng máy thở trong các bệnh viện ở Anh và hàng trăm người khác nhiều khả năng phải cần được trợ giúp dưỡng khí.

Họ đều có thể trở thành các ứng viên thử nghiệm cách điều trị bằng dexamethasone.

Thuốc này hoạt động bằng cách kiềm chế phản ứng của hệ miễn dịch trong cơ thể đối với Covid-19, là điều có thể gây nguy hiểm hơn so với chính mức độ nguy hiểm do virus gây ra.

Trưởng thanh tra, Giáo sư Peter Horby nói đây là "loại thuốc duy nhất cho đến cho thấy giúp giảm được mức độ tử vong - và nó làm giảm đáng kể".

"Đó là một bước đột phá to lớn," ông nói thêm.

Tuy nhiên, thuốc này không thể đem dùng để điều trị cho những ai mắc virus corona nhưng không nhập viện. Việc sử dụng thuốc hiện vẫn đang được nghiên cứu trên trẻ em.

Vốn được dùng để giảm viêm tấy trong một loạt các trường hợp khác, như viêm khớp, hen suyễn và một số bệnh về da, thuốc khi đem điều trị sẽ chỉ tốn khoảng 5 bảng cho mỗi bệnh nhân một ngày.

Thuốc này cũng có sẵn trên toàn cầu.

Cục máu đông là kết quả của một loạt các hiện tượng xảy ra trong quá trình cầm máu với 3 giai đoạn chính là: co mạch, kết tập tiểu cầu, đông máu. Cục máu đông được hình thành trong cơ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra các cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, thuyên tắc khối tĩnh mạch... và đều để lại hậu quả nặng nề cho bệnh nhân, thậm chí có thể gây tử vong. Do vậy, việc sử dụng thuốc chống đông máu trong dự phòng và điều trị các bệnh do nguyên nhân huyết khối đóng vai trò rất quan trọng.

Có 3 nhóm thuốc chống đông máu chính được sử dụng trên lâm sàng với bản chất và cơ chế tác dụng khác nhau.

Heparin

Trong thực tế điều trị hiện nay có 2 loại heparin: heparin thường [trọng lượng phân tử trung bình 12.000 - 15.000] và heparin trọng lượng phân tử thấp [trọng lượng trung bình 5.000].

Đường dùng: Heparin không hấp thu qua đường uống và bị phân hủy ở đường tiêu hóa. Do vậy các heparin phải tiêm dưới da, tiêm tĩnh mạch, không tiêm bắp.

Cơ chế và tác dụng chống đông máu: Heparin có tác dụng chống đông máu nhanh cả bên trong và ngoài cơ thể. Tác dụng của heparin tùy thuộc vào chiều dài chuỗi polysaccharid, tức là phụ thuộc vào trọng lượng phân tử heparin.

Ứng dụng lâm sàng: Heparin được dùng dự phòng và điều trị các bệnh do huyết khối: dự phòng huyết khối tĩnh mạch sâu; điều trị thuyên tắc do huyết khối; dự phòng thành lập cục máu đông trong chạy thận nhân tạo; kết hợp trong điều trị hội chứng mạch vành cấp.

Heparin trọng lượng phân tử thấp: Mặc dù heparin thường là một thuốc đã được sử dụng từ lâu và có ưu điểm là giá thành rẻ. Nhưng hiện nay, nó đã dần được thay thế bằng các heparin trọng lượng phân tử thấp [enoxaparin, nadroparin] trong một số trường hợp do những ưu điểm nổi bật của chúng. Enoxaparin tiện dụng hơn do có thể tiêm dưới da, trong khi heparin thường phải tiêm tĩnh mạch; thời gian bán thải của enoxaparin dài hơn heparin thường 2 - 3 lần nên chỉ cần dùng 1 lần/ngày. Enoxaparin tác dụng chọn lọc lên yếu tố xa nên tác dụng ổn định, có thể dùng liều cố định theo cân nặng; còn heparin thường phải điều chỉnh liều theo tác dụng chống đông. Hơn nữa, hiệu quả của enoxaparin bằng hoặc hơn heparin thường, mà tác dụng phụ như chảy máu hay giảm tiểu cầu cũng ít gặp hơn.


Hình ảnh máu đông trong lòng mạch máu [X]

Thuốc kháng vitamin K

Nguồn gốc: Là chất chống đông máu tổng hợp, dẫn xuất của coumarin [Coumadin, Sintrom] và indandion [Pindione, Prerviscan].

Đường dùng: Là thuốc chống đông máu đường uống, thuốc hấp thu nhanh qua đường tiêu hóa nhưng tác động chậm, chỉ có tác động sau khi uống 48 - 120 giờ.

Cơ chế và tác dụng chống đông máu: Do thuốc có cấu trúc gần giống vitamin K nên cản trở việc khử vitamin K - epoxid thành vitamin K trong tế bào gan, là một chất cần cho việc tổng hợp các yếu tố đông máu.

Ứng dụng lâm sàng: Thuốc kháng vitamin K được dùng để điều trị tiếp theo heparin khi cần điều trị kháng đông kéo dài.

Thuốc chống kết tập tiểu cầu

Đường dùng: Nhóm này gồm các thuốc dùng theo đường uống.

Cơ chế tác dụng: Thuốc ngăn ngừa sự hình thành nút chặn tiểu cầu nên có tác dụng chống đông máu từ giai đoạn cầm máu sơ cấp.

Có 5 nhóm thuốc chống kết tập tiểu cầu chính được sử dụng trên lâm sàng hiện nay:

Aspirin là thuốc kinh điển có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm nhưng nhiều năm gần đây, nó được dùng như một thuốc chống kết tập tiểu cầu với liều thấp 100 mg/ngày.

Clopidogrel [Plavix] là dẫn xuất thienopyridin đã được chứng minh trên số lượng lớn bệnh nhân có hiệu quả và độ an toàn cao trong phòng ngừa các biến cố huyết khối ở động mạch.

Ticlopidin [Ticlid] có cấu trúc hóa học tương tự như clopidogrel, do đó có cơ chế tác dụng giống clopidogrel. Về hiệu quả điều trị, 2 thuốc này là tương tự nhau, nhưng ticlopidin kém an toàn hơn vì tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng không mong muốn là giảm bạch cầu hạt cao 3,2% [trong khi clopidogrel chỉ là 0,15%, aspirin là 0,21%].

Dipyridamol [Agrenox, Persantin] có cơ chế tác dụng chưa rõ ràng hay được sử dụng phối hợp với aspirin.

Và cuối cùng là Trifusal [Disgren], một chất thuộc nhóm salicylat có cấu trúc gần giống aspirin. Thuốc có tác dụng chọn lọc trên cyclooxygenase của tiểu cầu, do đó ức chế sự tạo thành thromboxan A2, là chất gây kết tập tiểu cầu mạnh nhất. Có nghiên cứu chỉ ra rằng thuốc có hiệu quả tương đương aspirin trong phòng ngừa các biến cố do huyết khối động mạch và tỷ lệ bệnh nhân gặp tác dụng phụ chảy máu nặng thấp hơn.

Ứng dụng lâm sàng: Các thuốc chống kết tập tiểu cầu được dùng để phòng ngừa dài hạn các biến cố do huyết khối động mạch ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim, đau thắt ngực không ổn định, tai biến mạch máu não. Thuốc cũng được sử dụng với những bệnh nhân bị hội chứng mạch vành cấp.

Việc sử dụng các thuốc chống đông máu trong điều trị cần phải chú ý tới các tác dụng không mong muốn xảy ra với bệnh nhân mà phổ biến nhất là gây chảy máu. Ngoài ra, việc sử dụng thuốc chống đông máu cũng phải bảo đảm cân đối giữa hiệu quả điều trị và khả năng kinh tế của người bệnh.

DS. Ngô Trang
suckhoedoisong.vn

Chủ Đề