Khối u là gì

Khối u trong bệnh ung thư còn gọi là các khối u ác tính, không chỉ lớn lên về kính thước mà còn tạo thành các rễ cắm vào khu vực xung quanh, phá hoại các vùng này. Người ta gọi đây là tính chất xâm lấn của ung thư. Hình ảnh con cua với càng, chân bám rộng xung quanh mô tả tính chất này đã trở thành biểu tượng của bệnh ung thư. 

Trong bệnh ung thư, các tế bào sinh sôi thành một khối mà chúng ta có thể nhìn [trực tiếp hoặc qua các phương tiện] hoặc sờ thấy được mà chúng ta vẫn gọi là khối u. Đa số bệnh ung thư có khối u, tuy nhiên không phải bệnh ung thư nào cũng tạo thành khối u. Các bệnh bạch cầu [ung thư máu hay bệnh máu trắng] thường không tạo khối u vì các tế bào máu ác tính sinh sôi và lưu hành trong dòng máu. Các tế bào bị ung thư còn gọi là các tế bào ác tính có khả năng tách ra khỏi khối u ban đầu, trôi dạt đến các nơi khác trong cơ thể, sinh sôi tiếp ở đó tựa như ong tách khỏi đàn và đến nơi khác tạo một tổ ong mới. Tính chất này gọi là di căn.  

Khối u là ung thư?

Không phải mọi khối u đều là ung thư. Có những khối u không phải là ung thư và cũng có loại ung thư không có u. Những khối u không phải ung thư thường là u lành như u nang buồng trứng, u xơ tử cung, u xơ mỡ dưới da. Những ung thư không có u như các bệnh ung thư máu [các bệnh bạch cầu hay còn gọi bệnh máu trắng]. Việc phân biệt giữa u lành và u ác [ung thư] cần có thầy thuốc chuyên khoa và đôi khi phải kết hợp nhiều phương pháp như khám bệnh, chẩn đoán hình ảnh [chụp Xquang, siêu âm..., các xét nghiệm máu, nước tiểu, soi tế bào, chẩn đoán khi mổ và đặc biệt là mô bệnh học]. Mô bệnh học là phương pháp quan sát tổn thương hoặc u bằng mắt thường và kính hiển vi để chẩn đoán bệnh.

Các ung thư có gì khác nhau?

- Ung thư không phải là một bệnh mà có tới hơn 100 loại khác nhau. Trên cơ thể có bao nhiêu loại mô thì có bấy nhiêu loại ung thư. Các bệnh ung thư đều có những đặc điểm chung nhưng mỗi loại mang những đặc điểm khác nhau: về nguyên nhân, vị trí xuất phát, tốc độ phát triển, cách phát triển, tuổi bắt đầu bị bệnh, giới, mức độ hay gặp.

- Có những bệnh ung thư rất hay gặp trong khi có những bệnh rất hiếm xảy ra. Giữa các vùng địa lý, chủng tộc, phong tục, mức sống, lối sống, nghề nghiệp, mức độ hay gặp của mỗi bệnh cũng khác nhau. Ngoài ra còn khác nhau về phương pháp điều trị, khác nhau về hậu quả của bệnh.

Theo Chương trình phòng chống ung thư Quốc gia

  • Phẫu thuật, xạ trị, hoặc cả hai

  • Hóa trị đôi khi cũng được chỉ định

Các phương pháp điều trị chính cho ung thư đầu và cổ là phẫu thuật Phẫu thuật Ung thư và xạ trị. Xạ trị ung thư Các phương pháp này có thể được sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp cùng với hoá trị. Nhiều khối u không kể vị trí có đáp ứng như nhau đối với phẫu thuật và xạ trị, cho phép xác định lựa chọn điều trị dựa theo các yếu tố khác như sở thích của bệnh nhân hoặc tiền sử mắc bệnh theo vị trí cụ thể.

Tuy nhiên, ở một số vị trí, có một ưu điểm vượt trội của một phương thức. Ví dụ, phẫu thuật tốt hơn đối với bệnh giai đoạn đầu liên quan đến khoang miệng vì liệu pháp xạ trị có khả năng gây ra hoại tử xương hàm dưới. Phẫu thuật nội soi đã trở nên phổ biến hơn trong một số bệnh ung thư ở đầu cổ, nó có tỷ lệ chữa khỏi tương tự hoặc hơn phẫu thuật mở hoặc xạ trị, và biến chứng của phương pháp này ít hơn đáng kể. Phương pháp nội soi thường được sử dụng cho phẫu thuật thanh quản và thường sử dụng laser để cắt bỏ. Phương pháp nội soi cũng đang được sử dụng trong điều trị các khối u xoang.

Nếu xạ trị được chọn để điều trị ban đầu, nó sẽ được chiếu tia vào u nguyên phát và đổi khi cả hạch cổ 2 bên. Việc điều trị hạch hoặc bằng xạ trị hoặc phẫu thuật, được xác định tùy theo vị trí u nguyên phát, tiêu chuẩn mô học, và nguy cơ di căn hạch. Các tổn thương giai đoạn sớm thường không cần điều trị các hạch bạch huyết, trong khi các tổn thương giai đoạn tiến triển thị cần được điều trị. Các vùng đầu cổ có nhiều bạch huyết [họng miệng, trên dây thanh] thường đòi hỏi phải có xạ trị vào hạch cổ, bất kể giai đoạn khối u, trong khi vị trí có ít bạch huyết [như thanh quản] thường không cần xạ trị hạch bạch huyết cho giai đoạn sớm. Phương pháp xạ trị điều biến liều [IMRT] giúp tập trung liều bức xạ vào tổn thương, có khả năng làm giảm tác dụng phụ mà không ảnh hưởng đến việc kiểm soát khối u.

Khi bệnh giai đoạn tiến triển [giai đoạn III và IV] thường đòi hỏi phải điều trị đa phương thức, kết hợp một số liệu pháp: hóa trị, xạ trị và phẫu thuật. Khi khối u xâm lấn xương hoặc sụn đòi hỏi phải phẫu thuật cắt bỏ u nguyên phát và thường phải vét các hạch bạch huyết khu vực do nguy cơ lan rộng. Nếu u nguyên phát được điều trị bằng phẫu thuật, thì xạ trị sau phẫu thuật vào các hạch bạch huyết vùng cổ nếu chúng có nguy cơ cao như di căn nhiều hạch, phá vỡ vỏ bao. Xạ trị sau phẫu thuật thường được ưu thích hơn so với xạ trị trước phẫu thuật do các mô sau khi chiếu xạ thường khó lành lại hơn.

Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng việc bổ sung hoá trị liệu cho xạ trị vào hạch cổ giúp cải thiện sự kiểm soát vùng của bệnh ung thư và cải thiện thời gian sống thêm. Tuy nhiên, cách tiếp cận này gây ra các tác dụng có hại đáng kể, chẳng hạn như tăng chứng khó nuốt và độc tính với tủy xương, do đó việc quyết định bổ sung hoá trị phải được xem xét cẩn thận.

Ung thư biểu mô tế bào vảy tiến triển mà không có sự xâm lấn xương thường được điều trị với hóa trị liệu cùng với xạ trị. Mặc dù được hạn chế tối đa sự chiếu xạ vào mô lành, nhưng việc kết hợp hoá trị liệu với xạ trị sẽ tăng gấp đôi mức độ độc tính cấp tính, đặc biệt là khó nuốt. Tia xạ có thể được sử dụng đơn thuần cho những bệnh nhân suy nhược với bệnh tiến triển, những người không thể chịu đựng được biến chứng của hóa trị và có nguy cơ cao gây mất cảm giác toàn thân.

Tuy nhiên, hóa trị hầu như không bao giờ được sử dụng làm phương pháp điều trị chính trong điều trị. Hóa trị bước 1 được áp dụng cho các khối u nhạy cảm với hoá trị liệu, chẳng hạn như Burkitt lymphoma U lympho Burkitt , hoặc cho những bệnh nhân có di căn lan rộng [ví dụ: di căn gan. phổi]. Một số loại thuốc như cisplatin, fluorouracil, bleomycin, và methotrexate giúp giảm đau và co lại khối u ở những bệnh nhân không thể điều trị bằng các phương pháp khác. Đáp ứng ban đầu có thể tốt nhưng không bền, và phần lớn các trường hợp ung thư hầu có thể xuất hiện trở lại. Các loại thuốc điều trị đích như cetuximab ngày càng được sử dụng thay vì các loại thuốc hóa chất truyền thống cho những bệnh nhân chọn lọc, nhưng số liệu về hiệu quả cho đến nay vẫn còn hạn chế.

Vì điều trị ung thư đầu cổ và cổ rất phức tạp nên việc lập kế hoạch điều trị đa chuyên ngành là điều cần thiết. Lý tưởng nhất là mỗi bệnh nhân phải được hội đồng hội chẩn thảo luận bao gồm các thành viên của tất cả các chuyên khoa điều trị, cùng với các các bác sĩ chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh, Giải phẫu bệnh, để có thể đạt được sự đồng thuận về việc điều trị tốt nhất. Một khi phác đồ điều trị đã được xác định, phối hợp tốt nhất là một nhóm bao gồm các bác sĩ phẫu thuật tai mũi họng, thẩm mỹ, phẫu thuật đầu mặt cổ, xạ trị và bác sĩ nội khoa ung thư, giải phẫu bệnh, nha sĩ và chuyên gia dinh dưỡng.

Các bác sĩ phẫu thuật tạo hình có vai trò ngày càng quan trọng bởi vì việc sử dụng các vạt mô cuống dời cho phép tái tạo chức năng và thẩm mỹ các khuyết hổng để cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của bệnh nhân sau các phẫu thuật trước đó. Các trang thiết bị thường dùng được sử dụng để tái tạo bao gồm xương sườn [thường được sử dụng để tái tạo hàm dưới], cánh tay xuyên tâm [thường sử dụng cho lưỡi và sàn miệng], và đùi phía trước bên [thường được sử dụng cho tái tạo thanh quản hoặc hầu họng].

Xử trí khối u tái phát sau khi điều trị là phức tạp và có những biến chứng tiềm ẩn. Khi xuất hiện một khối hoặc tổn thương loét có phù nề hoặc đau ở vị trí nguyên phát sau khi điều trị gợi ý tồn tại một khối u tái phát. Những bệnh nhân này cần chụp CT [có lát cắt mỏng] hoặc chụp MRI.

Đau là một triệu chứng thường gặp ở bệnh nhân ung thư đầu cổ và phải được giải quyết một cách thoả đáng. Phẫu thuật triệu chứng hoặc xạ trị có thể tạm thời làm giảm đau, và trong số 30 đến 50% bệnh nhân, hóa trị liệu có thể tạo ra sự cải thiện trung bình tới 3 tháng. Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế Giới, quản lý đau theo từng bước là rất quan trọng. Đau dữ dội được điều trị tốt nhất cùng với một chuyên gia về giảm đau và chăm sóc giảm nhẹ.

Đau, ăn khó, nghẹt thở do chất tiết, và các vấn đề khác khiến cho việc điều trị triệu chứng đầy đủ là điều cần thiết. Các hướng dẫn bệnh nhân Chỉ thị trước về chăm sóc như vậy cần được làm rõ sớm.

Tất cả các phương pháp điều trị ung thư đều có thể xảy ra những biến chứng và di chứng nhất định. Bởi vì nhiều phương pháp điều trị có tỷ lệ chữa khỏi tương đương nhau, sự lựa chọn phương thức chủ yếu là do sự khác biệt về các di chứng.

Mặc dù người ta thường nghĩ rằng phẫu thuật gây ra nhiều tác động nhất, nhiều phẫu thuật có thể được thực hiện mà không làm thay đổi đáng kể hình dạng hoặc chức năng. Các phương pháp và kỹ thuật tái tạo phức tạp bao gồm sử dụng các bộ phận giả, miếng ghép, vạt cuống vùng, vạt phức hợp tự do có thể khôi phục lại chức năng và diện mạo gần như bình thường.

Các tác dụng phụ của hóa trị bao gồm mệt mỏi, buồn nôn và nôn, viêm niêm mạc, rụng tóc, viêm dạ dày ruột, suy giảm chức năng miễn dịch và tạo máu, nhiễm trùng.

Xạ trị đối với ung thư vùng đầu và cổ có một số tác dụng phụ. Tuyến nước bọt bị phá hủy vĩnh viễn với tia xạ liều khoảng 40 Gy, dẫn đến chứng khô miệng Khô miệng , làm tăng đáng kể nguy cơ mắc các bệnh răng miệng. Các kỹ thuật xạ trị mới hơn, như xạ trị điều biến liều [IMRT], có thể giảm thiểu hoặc loại bỏ liều độc hại đối với tuyến nước bọt ở một số bệnh nhân nhất định.

Xạ trị cũng có thể gây viêm niêm mạc miệng và viêm da, két quả là dẫn đến xơ hóa da. Mất vị giác [ageusia] và khứu giác [dysosmia] hay xuất hiện nhưng thường chỉ là thoáng qua.

Video liên quan

Chủ Đề