Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương

Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
doc

Một số bạn mới ít tuổi đã bắt chước hút thuốc. Khi được nhắc nhở các bạn ấy nói: Thuốc lá có thể có hại, nhưng cũng có...

1 0 12
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
doc

Lí tưởng là nguồn sáng và sức mạnh trong đời. Anh/chị hãy nêu suy nghĩ của mình về ý kiến trên?

2 0 0
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
pdf

Luận văn Thạc sĩ Văn học: Sự chuyển biến trong Văn học nửa cuối thế kỷ XIX qua ba tác giả Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuy...

140 0 10
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
doc

Cảm nhận của anh (chị) về hai câu thơ sau: "Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy/ Mất ổ đàn chim dáo dác bay"

2 0 1
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
pdf

Tư duy mới mẻ, táo bạo và khát vọng hành động của nhà chí sĩ cách mạng thể hiện trong bài Lưu biệt khi xuất dương Phan B...

3 0 0
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
doc

Ban-dắc đã từng nói: Lịch sự và khiêm tốn chứng tỏ con người có văn hóa. Hãy bàn luận ý kiến trên?

2 0 2
Lập dàn ý phân tích bài thơ Thương vợ Trần Tế Xương
doc

Trình bày suy nghĩ: "Nếu bạn muốn sống một đời mà không phạm chút sai lầm nào, làm gì được nấy thì đó hoặc là bạn ảo tưở...

1 0 0
VĂN MẪU LỚP 11 DÀN Ý PHÂN TÍCH BÀI THƠ THƯƠNG VỢ CỦA TÚ XƯƠNG Đề: Phân tích bài thơ Thương vợ của Tú Xương. DÀN Ý 1: 1. Mở bài - Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Học vị tú tài, lận đận mãi trên con đường khoa cử: "Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy". Chỉ sống 37 năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Quê ở làng Vị Xuyên, thành phố Nam Định. "Ăn chuối ngự, đọc thơ Xương" là câu nói tự hào của đồng bào quê ông. - Tú Xương để lại khoảng 150 bài thơ Nôm, vài bài phú và văn tế, trong đó, có bài trào phúng, có bài trữ tình, có bài vừa trào phúng vừa trữ tình. Giọng thơ trào phúng của Tú Xương vô cùng cay độc, dữ dội mà xót xa. Ông là nhà thơ trào phúng bậc thầy trong nền văn học cận đại của dân tộc. - Bài thơ ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, của người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc chồng con. 2. Thân bài a. Hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo - Câu 1, 2 giới thiệu bà Tú là người giỏi buôn bán, tần tảo "quanh năm" buôn bán kiếm sống ở "mom sông" cảnh đầu chợ bến đò, buôn thúng bán mẹt. Chẳng có cửa hàng cửa hiệu. Vốn liếng chẳng có là bao. Thế mà vẫn "Nuôi đủ năm con với một chồng". Chồng đậu tú tài, không là quan cũng không phải là cùng đinh "Ăn lương vợ". Một gia cảnh "Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi". Các số từ "năm" (con), "một" (chồng) quả là đông đủ. Bà Tú vẫn cứ "nuôi đủ", nghĩa là ông Tú vẫn có "Giày giôn anh dận, ô Tây anh cầm". Câu thứ hai rất hóm hỉnh! - Câu 3, 4 mượn hình ảnh con cò trong ca dao, tạo thành "thân cò" - thân phận lam lũ, vất vả "lặn lội". Cò thì kiếm ăn nơi đầu ghềnh, cuối bãi, bà tú thì lặn lội... khi quãng vắng, nơi mom sông. Cảnh lên đò xuống bến, cảnh cãi vã giành giật bán mua "eo sèo mặt nước buổi đò đông" để kiếm bát cơm manh áo cho chồng, con. Hình ảnh "thân cò" rất sáng tạo, vần thơ trở nên dân dã, bình dị. Hai cặp từ láy "lặn lội" và "eo sèo" hô ứng, gợi tả một cuộc đời nhiều mồ hôi và nước mắt. - Câu 5, 6 tác giả vận dụng rất hay thành ngữ: "một duyên hai nợ" và "năm nắng mười mưa". Ba tiếng đối ứng thượng, hạ: "âu đành phận", "dám quản công" như một tiếng thở dài vừa có đức hi sinh vừa có sự cam chịu số phận, có cả tấm lòng chịu đựng, lo toan vì nghĩa vụ người vợ, người mẹ trong gia đình. Tú Xương có tài dùng số từ tăng cấp (1-2-5-10) để nói lên đức hi sinh thầm lặng cao quý của bà Tú: "Một duyên hai nợ âu đành phận, Năm nắng mười mưa dám quản công". Tóm lại, bà Tú là hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, là hội tụ của bao đức tính tốt đẹp: tần tảo, gánh vác, đảm đang, nhẫn nại,... tất cả lo toan cho hạnh phúc chồng con. Nhà thơ bộc lộ lòng cảm ơn, nể trọng. b. Nỗi niềm nhà thơ - Câu 7 là một tiếng chửi, đúng là cách nói của Tú Xương vừa cay đắng vừa chua chát "Cha mẹ thói đời ăn ở bạc". "Cái thói đời" đó là xã hội dở tây dở ta, nửa phong kiến, nửa thực dân: khi mà đạo lí suy đồi, lòng người đảo điên. Tú Xương tự trách mình là kẻ "ăn ở bạc" vì thi mãi chẳng đỗ, chẳng giúp ích gì cho vợ con. Suốt đời vợ con phải khổ, như có bài thơ ông tự mỉa: "Vợ lăm le ở vú - Con tấp tểnh đi bồi - Khách hỏi nhà ông đến - Nhà ông đã bán rồi". - Câu 8 thấm thía một nỗi đau chua xót. Chỉ có Tú Xương mới nói được rung động và xót xa thế: "Có chồng hờ hững cũng như không?". "Như không" gì? Một cách nói buông thõng, ngao ngán. Nỗi buồn tâm sự gắn liền với nỗi đau thế sự. Một nhà nho bất đắc chí! 3. Kết bài Bài thơ Thương vợ có cái hay riêng. Hay từ nhan đề. Hay ở cách vận dụng ca dao, thành ngữ và cả tiếng chửi. Chất thơ mộc mạc, bình dị mà trữ tình đằm thắm. Trong khuôn phép một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, từ thanh điệu, niêm luật đến vần thơ và phép đối được thể hiện một cách chuẩn mực, tự nhiên, thanh thoát. Tác giả vừa tự trách mình, vừa biểu lộ tình thương vợ, biết ơn vợ. Bà Tú là một hình ảnh đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong một gia đình đông con, nhiều khó khăn về kinh tế. Vì thế nhiều người cho rằng câu thơ "Nuôi đủ năm con với một chồng" là câu thơ hay nhất trong bài "Thương vợ". DÀN Ý 2: I/Mở bài Tú Xương là nhà thơ hiện thực trào phúng xuất sắc của nền văn học Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX đồng thời cũng là tác giả của những vần thơ trữ tình đằm thắm , thiết tha . Thương vợ là một sáng tác tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương. Bài thơ đã khắc họa chân dung bà Tú vất vả đảm đang , giàu đức hi sinh và bộc lộ sự cảm thông , lòng yêu thương trân trọng ngợi ca người vợ của nhà thơ . II/Thân bài 1/ Giới thiệu chung Trong thơ trung đại Việt Nam , các nhà thơ nhà nho ít khi viết về cuộc sống tình cảm đời tư của mình , càng hiếm khi viết về người vợ . Thơ văn xưa coi trọng mục đích giáo huấn , dùng văn thơ để dạy đời , tỏ chí văn dĩ tải đạo , thi dĩ ngôn chí , với những đề tài phổ biến như : chí làm trai , nợ công danh , chí kinh bang tế thế hoặc những ưu tư về thời cuộc Cũng trong xã hội xưa , vị thế cảu người phụ nữ ít được coi trọng , thậm chí còn bị coi rẻ . Tú Xương thì khác . Ông có nhiều bài thơ viết về vợ với những câu đầy thương mến , hóm hỉnh : Có một cô lái , nuôi một thầy đồ , Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ Đây là lời đáp của bà Tú khi được ông Tú hỏi về câu đối vừa mới viết : Thưa rằng hay thực là hay , Không hay sao lại đỗ ngay tú tài , Xưa nay em vẫn chịu ngài Trong một loạt bài thơ Tú Xương viết về vợ , Thương vợ được coi là tác phẩm tiêu biểu hơn cả . Bài thơ thể hiện cả hai mặt trong thơ Tú Xương , vừa ân tình vừa hóm hỉnh . Thương vợ được làm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng ngôn ngữ rất sinh đọng tự nhiên , mang đậm sắc thái dân gian , mang nét riêng độc đáo của thơ Tú Xương . 2/ Hai câu đề : Quanh năm buôn bán ở mom sông , Nuôi đủ năm con với một chồng . Câu thơ mở đầu cất lên thật tự nhiên , dường như không chút gọt giũa mà nói được bao điều về hình ảnh và công việc làm ăn của bà Tú . Từ quanh năm diễn tả sự triền miên về thời gian , từ ngày này sang ngày khác , tháng này qua tháng khác và năm nào cũng vậy , bất kể mưa nắng , sớm trưa . Trong khoảng thời gian không ngơi nghỉ đó , bà Tú phải miệt mài với công việc buôn bán . Đó chỉ là kiểu buôn thúng bán mẹt , lời lãi chẳng được bao nhiêu ở chốn đầu sông cuối bãi . Hai từ mom sông cụ thể hóa không gian làm việc của vợ ông Tú , đó là nơi có thế đất hiểm trở , là doi đất nhô ra , ba bề là nước , khá chênh vênh nguy hiểm . Tú Xương đã quan sát , thấu hiểu cho nỗi vất vả của người vợ . Bởi vậy , ẩn sau mỗi lời thơ nôm na bình dị là một niềm cảm thông , thương mến sâu lắng . Với người vợ , một lời cảm thông như vậy của chồng cũng đủ để bù đắp cho bao nỗi đắng cay . Câu thơ thứ hai nêu lên căn nguyên sự vất vả của bà Tú . Bà phải gánh trên vai một trách nhiệm nặng nề nuôi đủ năm con với một chồng . Phải chăm sóc , nuôi nấng một đàn con đông đảo năm đứa đã đủ cực nhọc lắm rồi . Vậy mà bà còn phải nuôi thêm cả đức ông chồng . Ai cũng biết ông Tú tài cao nhưng phận thấp , thành ra ông chí khí uất . Tám lần ông đi thi chỉ mong bia đá bảng vàng nhưng rút cục đi không lại trở về không bởi thơ văn ông quá sắc sảo . Ông lại phải hằng ngày chứng kiến bao cảnh trái tai gai mắt con khinh bố, vợ chửi chồng , bao điều lố lắng của xã hội dở ta dở tây đương thời . Tú Xương luôn day dứt về sự đời ô trọc . Cảnh chung niêm riêng khiến ông Tú rất kĩ tính , khó tính . Ấy vậy mà bà Tú vẫn nuôi đủ . Công lao to lớn của bà nằm ở hai chữ nuôi đủ này . Bà Tú thắt lưng buộc bụng , tần tảo quanh năm không chỉ đáp ứng đủ nhu cầu về vật chất của một đại gia đình đông đảo mà bà còn phải sống lựa , chăm lo cho nhu cầu tinh thần vốn cao sang , tài tử của ông Tú . Sự đảm đang , khéo léo cảu bà thể hiện ở việc lựa ông Tú mà sống , khéo chiều sự khó tính khó nết của ông sao cho trong ấm ngoài êm . Hai câu thơ đầu đã đặc tả sự nhẫn nại , đảm đang của bà Tú trước gánh nặng gia đình . Qua đó nhà thơ gián tiếp bày tỏ sự biết ơn đối với người vợ tần tảo của mình . 3/Hai câu thực Lăn lội thân cò khi quãng vắng , Eo sèo mặt nước buổi đò đông . Hai câu thơ đã cụ thể hơn tính chất , đặc thù công việc cảu bà Tú . Cách đảo ngữ lặn lội thân cò , eo séo mặt nước tô đậm chân dung cực nhọc , lam lũ , bươn chải của bà . Nhà thơ mượn hình ảnh ẩn dụ thân cò trong ca dao để ví von với thân phận , cuộc đời người vợ của mình . Con cò trong ca dao cực khổ , bất hạnh vô cùng : Cái cò lặn lội bờ sông Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non Cái cò đi đón cơn mưa Tối tưm mù mịt ai đưa cò về Cái cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao Nhà thơ đã đồng nhất thân phận bà Tú với thân phận của những người lao động vất vả , lam lũ . Thân cò còn gợi dáng vẻ bé nhỏ , gầy gò , đáng thương tội nghiệp của người vợ ông Tú . Bà Tú bé nhỏ yếu ớt thế mà phải một mình thân gái dặm trường , đi làm qua những nơi quãng vắng . Khi khỏe thì không sao nhưng khi trái gió rở trời , sảy chân bất kì thì không biết bà Tú sẽ gặp nguy hiểm chừng nào . Thế mới thâm thía câu Buôn có bạn , bán có phường . Câu thơ mang sức nặng của tấm lòng thương cảm mà ông Tú dành cho vợ . Bà Tú không chỉ dấn thân những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những chuyến đò đông , phải chịu những tiếng eo sèo, những lời qua tiếng lại cò kè mặc cả , có lườm nguyt chê bôi xô bồ . Đò đông gợi ra sự hiểm nguy , xô đẩy , chen chúc . vậy là cô gái nhà dòng vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân quên đi lời mẹ dặn Sông sâu chớ lội đò đầy chớ qua , phải lăn lôn giữa chốn đời phàm tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình . Hai câu thơ chú trọng vào việc miêu tả nỗi vất vả , sự đảm đang của bà Tú . Ẩn sau câu chữ vẫn là tấm lòng nhà thơ với cái nhìn thương cảm , ái ngại , biết ơn , trân trọng . 4/Hai câu luận Một duyên hai nợ âu đành phận , Năm nắng mười mưa dám quản công . Hai câu luận là lời ông Tú nhập thân vào bà Tú để than thở giùm vợ . Nhà thơ dùng nghệ thuật đối , các khẩu ngữ và những thành ngữ dân gian một duyên hai nợ , năm nắng mười mưa , âu đành , dám quản để bộc lộ nỗi lòng ấy . Duyên và nợ là hai khái niệm đối lập nhau . Theo cách hiểu dân gian , duyên là đieuf tốt đẹp , là sự hòa hợp tự nhiên , còn nợ là gánh nặng , là trách nhiệm mà con người ta bị vướng mắc phải . Duyên là sự may mứn , còn nợ là sự rủi ro . Ở đây , khi lấy ông Tú , may mắn bà Tú chỉ hưởng có một mà rủi ro lại gấp đôi , tức là sung sướng thì ít ỏi mà khổ cực thì lại nhiều . Dù vậy , bà coi đó là cái phận , cái định mệnh mà ông trời đã áp đặt sẵn cho mình . Vì thế , bà cam chịu , chấp nhận , không kêu ca mà âm thầm chịu đựng . Bà sẵn sàng vượt qua năm nắng mười mưa những nỗi khó khăn tăng cấp chồng chất , bà dám quản công , tự nguyện gánh vác trách nhiệm chăm lo gia đình . Hai câu thơ như một tiếng thở dài của bà Tú . Dù vất vả trăm điều nhưng bà vẫn âm thầm chịu đựng , vượt lên . Phảo chăng đó cũng chính là đức hi sinh vẻ dẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam ? 5/Hai câu kết . Cha mẹ thói đời ăn ở bạc Có chồng hờ hững cũng như không Hai câu thơ vẫn là lời Tú Xương nhập thân vào bà Tú để chửi , để rủa chính thói đời bạc bẽo , trách cứ sự vô tích sự của mình . Thói đời là những nếp cư xử ,hành động xấu chung mà người đời hay mắc phải . Thói đời mà Tú Xương muốn nói đến ở đây là tư tưởng trọng nam khinh nữ , là thói vô tâm cảu các ông chồng với vợ . Thói xấu ấy cũng đã thấm vào người ông Tú , khiến ông ăn ở bạc với vợ , sống thiếu trách nhiệm , đổ mọi gánh nặng lên đôi vai người vợ . Như vậy , ông Tú không chỉ chửi chung thói đời mà còn chửi chính bản thân mình . Đây là lời chửi mang đặc trưng riêng của Tú Xương . Nhà thơ dùng lời ăn tiếng mói của dan gian cha mẹ một cách chửi có gọng điệu chanh chua nanh nọc , gay gắt , quyết liệt , lôi cả gốc rễ tông giống của vấn đề ra mà chửi . Đó chính là biểu hiện của cá tính sắc sảo Tú Xương . Câu thơ cuối cùng là một lời rủa . Nhà thơ thay vợ mà rủa rằng có chồng mà chồng hờ hững thì còn tệ hơn cả không có chồng . Có thể hiểu câu đó nghĩa là ông chồng mà sống vô tích sự , vô trách nhiệm với gia đình thì ông ta sống cũng như chết rồi . Hai câu thơ cuối là một cách chuộc lỗi đặc biệt của nhà thơ với vợ . Lời thơ giản dị pha lẫn nụ cười trào phúng mà vẫn chân chất , thấm thía tấm lòng thương vợ đáng quy trọng . III/ Kết bài . Thương vợ là bài thơ ngắn gọn , súc tích , có ngôn ngữ giản dị , giọng thp ân tình , hóm hỉnh đã khắc họa chân dung bà Tú người vợ tảo tần đảm đang , chịu thương chịu khó , giàu dức hi sinh vì chồng con , mang vẻ đẹp truyền thống cảu người phụ nữ Việt Nam . Tác phẩm cũng bộc lộ sự cảm thông , trân trọng biết người vợ sâu sắc của nhà thơ Tú Xương . Đây là bài thơ tiêu biểu cho bút pháp trữ tình trong thơ Tú Xương .