Mối quan hệ giữa an sinh xã hội và chính sách xã hội

Mục lục bài viết

  • 1. Khái niệm an sinh xã hội
  • 2. Đối tượng nghiên cứu của an sinh xã hội
  • 3.Nội dung nghiên cứu của an sinh xã hội
  • 4. Các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội
  • 5. Vai trò của an sinh xã hội

1. Khái niệm an sinh xã hội

An sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho các công dân trong xã hội, là sự bảo đảm của xã hội, nhằm bảo tồn nhân cách cùng giá trị của cá nhân, đồng thời tạo lập cho con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ.

2. Đối tượng nghiên cứu của an sinh xã hội

An sinh xã hội là nguyện vọng, ước muốn của mọi con người, mọi dân tộc, mọi thời đại và là sự tất yếu của xã hội. Các nhà nước tiến bộ, đặc biệt là nhà nước dân chủ, với tư cách là đại diện cho quyền lợi của nhân dân đã biết thể chế hoá nguyện vọng đó thành "pháp luật an sinh" và tạo cơ chế, chính sách, bộ máy Nhà nước quản lý và thực hiện an sinh xã hội, biến an sinh xã hội từ ước muốn của nhân dân thành "nền an sinh xã hội quốc gia" hay "hệ thống an sinh xã hội quốc gia". Như vậy, có thể thấy rõ rằng, phát triển hệ thống an sinh xã hội là một tất yếu của lịch sử xã hội loài người, mang tính khách quan, nhưng ở mỗi nước, mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, an sinh xã hội mang tính chất chủ quan, phản ánh đầy đủ, rõ nét, tập trung ý chí của giai cấp cầm quyền.

Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của an sinh xã hội của nhiều nước trên thế giới thuộc nhiều chế độ xã hội khác nhau đã chứng minh rằng, an sinh xã hội của nước nào đó có bền vững hay không phụ thuộc nhiều vào tính khách quan của hệ thống pháp luật an sinh xã hội của nước đó. Nói cách khác, các cơ chế, chính sách, giải pháp an sinh xã hội tốt nếu chúng được xây dựng dựa trên những nền tảng của những quy luật khách quan của các khoa học tự nhiên, khoa học về sự tồn tại và phát triển của con người và khoa học xã hội; quy luật kinh tế - xã hội, chi phối hoạt động sống, hoạt động sản xuất và tiêu dùng, đầu tư và tích luỹ.

Như vậy, phát triển an sinh xã hội trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu nguyện vọng của đông đảo thành viên trong xã hội, đồng thời nó cũng thể hiện ý chí của giai cấp lãnh đạo, vừa phản ánh quy luật khách quan trong quá trình phát triển của xã hội loài người.

Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của loài người, an sinh xã hội không chỉ dừng lại trong nhận thức của con người như một nhu cầu nguyện vọng cần được đáp ứng mà trong nhận thức, tư duy, an sinh xã hội đã trở thành một quyền của con người cần được đáp ứng và bảo vệ, nó gắn liền với quyền của con người. Đây có thể coi là sự phát triển mới trong nhận thức lý luận của xã hội hiện đại. Chính vì sự thay đổi nhận thức, tư duy này mà cộng đồng quốc tế, cũng như các quốc gia đều đã rất quan tâm đến việc phát triển hệ thống an sinh xã hội để ứng phó với các rủi ro có thể diễn ra, nhằm bảo đảm an toàn cho các thành viên trong xã hội trước các nguy cơ rủi ro đó và vấn đề này được xác định như là một chức năng, trách nhiệm của nhà nước.

3.Nội dung nghiên cứu của an sinh xã hội

An sinh xã hội là một khái niệm có nội hàm rộng và biến đổi theo thòi gian và không gian; từ ngày sơ khai hình thành cho đến thời đại phong kiến nó chỉ là những hình thức trợ giúp tự phát của các bộ tộc, của cộng đồng cho những người có hoàn cảnh khó khăn không tự bảo đảm được cuộc sống của mình do già cả, ốm đau, bệnh tật, khuyết tật, không có sức lao động hoặc các rủi ro khác do thiên tai, dịch bệnh, mất mùa và sau này là sự trợ giúp của nhà thờ, nhà chùa.

Nhưng cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của loàý. người thì những nguy cơ rủi ro diễn ra ngày càng nhiều hơn, đa dạng hơn, dẫn đến số lượng người gặp phải nguy cơ rủi ro ngày càng lớn hơn; trước tình hình đó Nhà nước cũng đã phải tham gia vào việc cứu trợ cho những người không may mắn, gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Ngày nay, trong xã hội việc trợ giúp xã hội cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn nêu trên còn có sự tham gia của các tổ chức phi Chính phủ, các doanh nghiệp mà ngày nay chúng ta thương gọi chung là sự trợ giúp của cộng đồng là một hiện tượng mang tính phổ biến.

Vào những năm đầu của thế kỷ XX khi nền đại công nghiệp phát triển thay thế những công trường thủ công, sự hình thành giới chủ và giới thợ ngày càng rõ nét hơn, những người làm công ăn lương với lực lượng ngày càng lớn hơn và được gọi là giai cấp công nhân cũng đã chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển như Cộng hòa liên bang Đức, Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Na Uy, Phầm Lan, Đan Mạch, Mỹ, Canada... Với sự giúp đỡ của những nhà trí thức tiến bộ, giới thợ, tức là giai cấp công nhân đã ý thức được vai trò của mình và họ thành lập các nghiệp đoàn để bảo vệ quyền lợi của giới thợ mà ngay nay gọi là Công đoàn và các nghiệp đoàn này cũng đã làm nhiệm vụ trợ giúp những người bị ốm đau, tai nạn lao động và những người bị thất nghiệp tạm thời.

Cùng với quá trình phát triển nền kinh tế cạnh tranh ấy đã diễn ra những cuộc khủng hoảng vào những năm cuối của thập niên 20 của thế kỷ XX, nhiều doanh nghiệp bị phá sản dẫn đến số lượng công nhân bị mất việc làm lớn, các nghiệp đoàn cũng không đủ sức trợ giúp các thành viên của nghiệp đoàn và họ đã đấu tranh, kêu gọi giới chủ, Nhà nước cùng chung tay góp sức giúp đỡ những người lao động không may bị ốm đau, tai nạn lao động, và mất việc làm. Trong bối cảnh ấy mà hình thức an sinh xã hội thứ hai ra đời đó là bảo hiểm xã hội, trong đó có bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm tử tuất, bảo hiểm ốm đau, thai sản, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, bảo hiểm thất nghiệp...

Sau đó thì các hình thức khác của an sinh xã hội cũng từng bước được hình thành do nhu cầu cần được bảo vệ an toàn của con người trước các nguy cơ rủi ro, vì vậy mà đến nay an sinh xã hội được kểt cấu với nhiều họp phần khác nhau, trong tập bài giảng an sinh xã hội này chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất của an sinh xã hội làm tiền đề cho việc nghiên cứu các phần tiếp theo của an sinh xã hội, bao gồm:

Khái niệm an sinh xã hội và các khái niệm có liên quan

Các mô hình an sinh xã hội ở các nước trên thế giới

Những vấn đề cơ bản của an sinh xã hội

Nghiên cứu mô hình an sinh xã hội ở Việt Nam trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tìm ra những đặc điểm chung, phổ biến ở tất cả các nền an sinh xã hội khác và đặc điểm riêng có tính cá biệt, đặc thù của Việt Nam do điều kiện kinh tế, xã hội, văn hoá và truyền thống dân tộc chi phối.

4. Các nguyên tắc cơ bản của an sinh xã hội

Một xã hội phát triển phải là một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, một xã hội vì hạnh phúc của con người, lấy con người làm mục tiêu, là động lực cho sự phát triển; như vậy, xã hội càng phát triển, cuộc sống của con người càng được cải thiện, càng bớt rủi ro và nếu có gặp rủi ro thì vẫn bảo đảm được cuộc sống và cũng dễ dàng vượt qua rủi ro với sự trợ giúp của Nhà nước, xã hội, cộng đồng và gia đình.

Để bảo đảm định hướng nêu trên, việc phát triển an sinh xã hội phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau đây:

4.1. Hướng tới bao phủ mọi thành viên trong xã hội

Hướng tới "bao phủ" mọi thành viên xã hội để bảo vệ an toàn cuộc sống cho họ khi có những biến cố rủi ro xảy ra làm suy giảm về kinh tế hoặc làm mất khả năng bảo đảm về kinh tế. Bởi về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn, mọi thành viên trong xã hội đều có nguy cơ phải đối phó với rủi ro, chỉ có điều mức độ rủi ro ở từng người có thể khác nhau mà thôi, nếu không tham gia vào một hình thức nào đó của các chính sách an sinh xã hội thì nguy cơ rủi ro càng cao. Tuy nhiên, việc hướng tới bao phủ tất cả thành viên xã hội không phải chỉ bằng một lưới an sinh xã hội nào đó mà phải bằng cả một hệ thống lưới an sinh khác nhau và cũng không phải lúc nào các thành viên xã hội cũng dùng đến những tấm lưới đó. Do vậy, cần thiết lập hệ thống tiêu chí xác định đối tượng tham gia vào các hợp phần của hệ thống an sinh xã hội phù hợp và mỗi loại đối tượng có quyền lợi và trách nhiệm khác nhau.

4.2. Đảm bảo tính bền vững về tài chính

Bất cứ một chính sách an sinh xã hội nào hay một họp phần nào đó của hệ thống an sinh xã hội cũng phải bảo đảm tỉnh bền vững về tài chính [nguồn thu/nguồn hình thành và chi]. Vì vậy phải thiết lập hệ thống thể chế về tài chính cho phù hợp và thực hiện cơ chế chia sẻ trách nhiệm xã hội, lấy số đông bù số ít như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên không phải hợp phần nào của hệ thống an sinh xã hội cũng lấy thu bù chi mà cũng có hợp phần chỉ có chi mà không có thu từ người hưởng lợi, nguồn hình thành chủ yếu từ thuế, phí và được gọi chung là từ Ngân sách nhà nước như chính sách trợ giúp đặc biệt và trợ giúp xã hội và các hình thức trợ giúp đột xuất khác.

4.3. Đảm bảo ổn định về thể chế tổ chức

Sự ổn định về thể chế tổ chức cho phép hệ thống an sinh xã hội hoạt động liên tục không gián đoạn, mặt khác cấu trúc của tổ chức phải hợp lý để bảo đảm đủ khả năng quản lý đối tượng tham gia, thực hiện các nghiệp vụ của hệ thống với chi phí hữu ích nhất, cấu trúc họp lý của tổ chức còn phải bảo đảm khả năng theo dõi, đánh giá quá trình thực hiện của hệ thống một cách trung thực, khách quan làm cơ sở cho việc hoàn thiện hệ thống thể chế về chính sách, tài chính và tổ chức thực hiện.

Đối với nước ta chưa có nhiều tổ chức chuyên nghiệp cung cấp dịch vụ về an sinh xã hội ngoại trừ hệ thống tổ chức sự nghiệp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế do nhà nước quản lý, mà hiện nay đang phân chia ra nhiều bộ phận khác nhau do các cơ quan khác nhau quản lý, điều hành hoạt động. Vì vậy, về lâu dài cần hình thành một đến hai hệ thống tổ chức điều hành hoạt động của hệ thống an sinh xã hội đó là hệ thống tổ chức bảo hiểm xã hội kiêm cả hoạt động về bảo hiểm thất nghiệp; bảo hiểm y tế, trong hệ thống ấy có thể có nhiều tổ chức của nhà nước và tư nhân tham gia hoạt động bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm y tế... nhưng nhà nước vẫn cần có hệ thống tổ chức của mình để tham gia vào các hoạt động này và phải giữ vai trò chủ đạo]. Hệ thống tổ chức quản lý điều hành hoạt động về trợ giúp đặc biệt và trợ giúp xã hội thì có thể dựa vào bộ máy quản lý nhà nước hiện có và xã hội hóa các hình thức cung cấp dịch vụ, giao cho khu vực tư nhân hoạt động. Nhưng về góc độ quản lý nhà nước thì nên quản lý theo chức năng của các Bộ là phù họp nhất.

4.4. Nhà nước phải là người bảo trợ cho hệ thống an sinh xã hội hoạt động hiệu quả và đúng pháp luật

Bên cạnh việc thực hiện vai trò quản lý nhà nước đối với hệ thống an sinh xã hội, Nhà nước còn đứng vai trò người thực hiện [trợ giúp đặc biệt, trợ giúp xã hội] người bảo trợ [bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp] khi hệ thống an sinh xã hội gặp rủi ro về tài chính. Trong nền kinh tế thị trường không phải chỉ có các cơ quan Nhà nước tham gia hoạt động trong hệ thống an sinh xã hội mà cũng có các thành phần kinh tế khác tham gia, vì vậy nhà nước không chỉ giữ vai trò quản lý mà cũng còn phải bảo trợ cho họ khi có những “rủi ro” đến với hệ thống an sinh xã hội, đặc biệt là bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

4.5 Tạo cơ chế, tạo môi trường và khuyến khích các cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc và bảo hiểm

Tạo cơ chế, tạo môi trường và khuyến khích các cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng, các tổ chức xã hội dân sự, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân tham gia vào các hoạt động trợ giúp xã hội trên tinh thần chia sẻ trách nhiệm xã hội và tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm y tế một cách bình đẳng, cùng có lợi.

Kinh nghiệm của nước Mỹ cho thấy cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế tuy mang tính chất bắt buộc, nhưng chủ yếu lại là khu vực tư nhân tham gia cung cấp, Nhà nước chỉ bao cấp cho hai nhóm đối tượng là người cao tuổi và người khuyết tật, tuy vậy hệ thống dịch vụ y tế và bảo hiểm y tế của mỹ vẫn đạt chất lượng rất cao, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng.

5. Vai trò của an sinh xã hội

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực bên cạnh "cơ hội" cũng có nhiều "thách thức", "rủi ro"; khi nói đến cơ hội, đến sự thuận lợi mang lại từ hội nhập quốc tế thường là cơ hội cho phát triển kinh tế, ngược lại sự thách thức, rủi ro lại là vấn đề xã hội như bất bình đẳng gia tăng, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội, nghèo đói, bần cùng hoá và ô nhiễm môi trường. Do vậy, kinh tế thị trường càng phát triển mạnh thì vai trò của nhà nước về an sinh xã hội càng lớn, có như vậy mới đảm bảo sự hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội trong từng bước đi, trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.

An sinh xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước, sự quản lý này thể hiện thông qua hệ thống luật pháp, chính sách và các chương trình của một quốc gia. Mục đích của nó là giữ gìn sự ổn định về xã hội, chính trị của đất nước, mà quan trọng hàng đầu là ổn định xã hội, giảm sự bất bình đẳng xã hội, bất bình đẳng về giới, phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội tạo nên sự đồng thuận xã hội giữa các giai tầng xã hội, giữa các nhóm xã hội trong quá trình phát triển. Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, kinh tế thị trường càng phát triển, kinh tế tăng trưởng càng cao thì xu hướng phân hoá giàu nghèo, phân tầng xã hội và bất bình đẳng càng gia tăng. Để tạo ra sự phát triển bền vững, đòi hỏi Nhà nước càng phải phát triển mạnh mẽ hệ thống an sinh xã hội để "điều hoà" các "mâu thuẫn xã hội" đã phát sinh, đang phát sinh và sẽ phát sinh. Hệ thống an sinh xã hội sẽ giúp cho việc điều tiết tốt hơn và hạn chế các nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn xã hội, bất ổn của xã hội. Hệ thống an sinh xã hội sẽ áp dụng các giải pháp điều tiết phân phối lại thu nhập, điều tiết sự phân phối lại giữa các khu vực kinh tế, các vùng kinh tế, các nhóm dân cư làm giảm bớt sự bất bình đẳng trong quá trình cùng tồn tại và phát triển. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách an sinh xã hội điều tiết phân phối của cải xã hội, cân đối, điều chỉnh nguồn lực để tăng cường cho các vùng nghèo, vùng chậm phát triển, tạo nên sự phát triến hài hoà giữa các vùng, giảm bớt sự chênh lệch giữa các vùng; mở rộng chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội làm giảm bất bình đắng giữa các nhóm dân cư.

An sinh xã hội còn có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro, phòng ngừa từ xa, sự phòng ngừa rủi ro này có ý nghĩa quan trọng cho việc ổn định cuộc sống của mọi thành viên trong xã hội khi rủi ro xảy ra. Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng chi phí cho phòng ngừa rủi ro sẽ thấp hon rất nhiều chi phí cho hạn chế và khắc phục rủi ro, nếu đem so sách hai loại chi phí này thì chi phí cho các chính sách, chương trình mang tính chất phòng ngừa sẽ đem lại hiệu quả kinh tế rất cao. Ví dụ vấn đề phòng ngừa HIV/AIDS, phòng ngừa tàn tật, dịch bệnh, phòng ngừa thảm hoạ thiên tai... Có những rủi ro biết trước nó sẽ diễn ra trong cuộc đời như già yếu, không còn khả năng lao động, phòng ngừa sự cố này Nhà nước phải tạo môi trường cho các thành viên xã hội tiết kiệm từ khi còn trẻ thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội hoặc bảo hiểm tuổi già, đến khi về già họ có khả năng đối phó với rủi ro đó là có lương hưu hoặc tiền bảo hiểm tuổi già...Nếu họ không có thu nhập để bảo đảm cuộc sống thì trách nhiệm của nhà nước, cộng đồng, gia đình phải chăm lo cho họ.

An sinh xã hội trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến giảm thiểu rủi ro, hạn chế tính dễ bị tổn thương và khắc phục hậu quả của rủi ro thông qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm giúp cho các thành viên xã hội ổn định cuộc sống, tái hoà nhập cộng đồng thông qua "sức bật" của các lưới an sinh xã hội hoặc bảo đảm cho họ có mức sống ở mức tối thiểu không bị rơi vào bần cùng hoá.

Hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định; vì việc đầu tư trong nước hoặc nước ngoài, các nhà đầu tư không chỉ chú ý đến các yếu tố kinh tế mà còn chú ý đến các yếu tố của an sinh xã hội và sự ổn định về mặt xã hội. Một xã hội ổn định giúp các nhà đầu tư yên tâm đầu tư phát triển lâu dài, tạo cho kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, ngược lại một xã hội không ổn định sẽ dẫn đến đầu việc tư ngắn hạn, làm ăn theo kiểu "chộp giật" làm cho kinh tế tăng trưởng không bền vững. Mặt khác, bản thân sự phát triển hệ thống an sinh xã hội hiện đại cũng là một lĩnh vực dịch vụ "có thu" tạo nguồn tài chính cho phát triển kinh tế của đất nước, đặc biệt là lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.​

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá về kinh tế, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia sẽ gia tăng và chi phối ảnh hưởng lẫn nhau trong quá trình phát triển. Việt Nam cũng sẽ không nằm ngoài xu thế tất yếu đó, trong bối cảnh đó thì Nhà nước sẽ có 2 chức năng quan trọng nhất:

Quản lý Nhà nước về kinh tế, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng và bảo đảm cho nền kinh tế thị trường vận hành theo những quy luật vốn có của nó và giảm thiểu rủi ro cho mọi thành viên trong xã hội. Đối với nước ta, còn phải đảm bảo chi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có lợi cho người nghèo, người thu nhập thấp;

Quản lý xã hội, bảo đảm sự ổn định xã hội và chính trị thông qua phát triển hệ thống chính sách xã hội mà trong đó hệ thống an sinh xã hội là cốt lõi. Bởi kinh tế càng tăng trưởng, phân hóa giàu nghèo càng có xu hướng gia tăng và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội; một hệ thống an sinh xã hội tốt sẽ góp phần giảm thiểu việc phân hóa giàu nghèo, giảm thiểu mâu thuẫn xã hội, giữ vững ổn định về chính trị. Chính những điều này lại góp phần thúc đẩy việc đầu tư cho sản xuất và tăng trưởng kinh tế.

Ngoài hai chức năng quan trọng nêu trên, Nhà nước còn có chức năng bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ vững chủ quyền độc lập quốc gia. Phương pháp tiếp cận phân chia chức năng của Nhà nước như trên cũng không có sự khác biệt nhiều với cách phân chia trước đây theo học thuyết của Mác và Lê- Nin là chức năng bảo vệ đất nước và xây dựng đất nước, chỉ có điều trong bối cảnh mới, điều kiện mới, thì đặt chức năng nào là quan trọng lên trên mà thôi. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta coi nhẹ chức năng bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, bối cảnh mới.

Hai chức năng của Nhà nước hiện đại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển, nhưng xét cho cùng trong bối cảnh toàn cầu hóa, tư nhân hóa, kinh tế phát triển ở trình độ cao và với quan điểm lấy con người làm trung tâm của sự phát triển và tiếp cận từ góc độ quyền con người thì chức năng quản lý xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội lại giữ vị trí quan trọng nhất, chi phối chức năng quản lý Nhà nước về kinh tế.

Từ các cách tiếp cận khác nhau nhưng đều đi đến nhận định vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc phát triển hệ thống an sinh xã hội phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế thị trường, và đó sẽ là một trong những chức năng quan trọng hàng đầu của Nhà nước. Nhà nước không chỉ tạo cơ chế, môi trường thuận lợi cho việc phát triển an sinh xã hội mà còn cung cấp nguồn lực cho việc thực hiện các dịch vụ về an sinh xã hội. Một số nghiên cứu gần đây của các tổ chức quốc tế cho rằng^Việt Nam cần sớm thúc đẩy phát triển hệ thống an sinh xã hội một cách tổng thể vào thời điểm thuận lợi như hiện nay, nếu triển khai chậm thì việc điều chỉnh các thể chế chính sách, tài chính và tổ chức cán bộ sẽ gặp khó khăn hơn và tốn nhiều công sức hơn. Vì việc xây dựng mới đỡ tốn kém hơn là phải phá đi cái cũ và xây cái mới.​

Video liên quan

Chủ Đề