Năng lực nội sinh là gì
Bài viết đề cập đến một trong những vấn đề được quan tâm của nền kinh tế hiện nay là việc chuyển nền kinh tế từ mô hình tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng, dựa vào khai thác các nguồn tài nguyên sẵn có, nguồn lao động rẻ và tăng qui mô vốn đầu tư sang mô hình tăng trưởng bền vững, luận giải tính cấp thiết của tăng trưởng bền vững đối với nền kinh tế nước ta hiện nay và chỉ ra vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng bền vững. Các mô hình tăng trưởng kinh tế nội sinh cho thấy để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững, cần phải đầu tư cho vốn vật chất, trước hết là đầu tư cho máy móc và thiết bị, đầu tư cho vốn con người và khu vực tri thức. Trong đó, đầu tư cho vốn con người và tri thức hiệu quả hơn theo nghĩa các khoản đầu tư cho vốn con người và tri thức tạo ra những tiền đề cho sự xuất hiện những tiến bộ khoa học công nghệ, đến lượt nó tiến bộ khoa học công nghệ sẽ là các tác nhân nội sinh của tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Mở đầu Tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và ổn định là một nhiệm vụ quan trọng của một quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao cho phép giải quyết những nhiệm vụ cơ bản của đất nước như bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao mức sống nhân dân, tăng cường an ninh quốc phòng và khẳng định vị thế của đất nước trong quan hệ quốc tế. Điều này giải thích tại sao tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề trung tâm trong các chính sách kinh tế và chiến lược phát triển của mọi quốc gia. Vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết hơn đối với các nước kém phát triển, bởi vì đây là con đường duy nhất để các nước này có thể thu hẹp khoảng cách và tiến tới đuổi kịp các nước Sự phát triển vốn con người - nguồn gốc nội sinh của tăng trưởng kinh tế Các nghiên cứu trên thế giới về các cơ sở phương pháp luận để bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế bền vững chỉ ra rằng vai trò chủ yếu để đảm bảo cho tăng trưởng bền vững là đầu tư hợp lý. Điều này lần đầu tiên được chỉ ra trong các nghiên cứu của Romer, Lucas và Rebelo. Theo Lucas (1988), đối với hệ thống kinh tế, tích luỹ vốn con người là nội sinh và cho phép giải thích một cơ chế cộng dồn tăng trưởng mà không cần phải viện đến một tăng trưởng ngoại sinh. Còn theo Romer (1990), tiến bộ kĩ thuật là nguồn gốc nội sinh của tăng trưởng, mà vốn con người lại là yếu tố hàng đầu cho việc sáng tạo ra tiến bộ khoa học công nghệ. Tác giả đưa ra khái niệm kho vốn con người và khái niệm kho tri thức hiện có trong một xã hội, kho tri thức này là một hàng hóa công cộng. Đóng góp quan trọng nhất của Romer và Lucas là các tác giả hình thành và đưa ra xu hướng mới cho tăng trưởng kinh tế dài hạn, gọi là học thuyết tăng trưởng kinh tế nội sinh [2; 3]. Các mô hình tăng trưởng kinh tế nội sinh được hình thành tùy thuộc vào nguồn gốc tăng trưởng kinh tế và đối tượng đầu tư. Hạn chế đầu tư vào vốn con người và khoa học công nghệ - Tăng trưởng kinh tế không bền vững và cản trở đổi mới sáng tạo Như vậy, vốn con người được thể hiện trong bản thân con người bằng tiềm năng mang lại thu nhập trên cơ sở những khả năng bẩm sinh về thể lực và trí lực, cũng như những kiến thức và kỹ năng nhận được trong quá trình xã hội hóa, giáo dục và hoạt động thực tiễn của con người, có khả năng tích lũy và nhân lên. Vốn con người được hình thành trước hết từ đầu tư nâng cao trình độ và chất lượng cuộc sống của dân cư, trong đó đặc biệt quan trọng là đầu tư cho giáo dục, y tế, khoa học, văn hóa, nghệ thuật,... Nghĩa là việc đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ tạo điều kiện phát triển vốn con người. Nhưng việc đầu tư cho vốn cố định của các ngành hướng vào sự phát triển vốn con người trong ba năm gần đây không có gì thay đổi. Nhịp độ tăng vốn đầu tư vào các ngành hướng tới sự phát triển vốn con người trong các năm 2014-2016 có xu hướng giảm. Năm 2014 mức tăng vốn đầu tư vào các ngành này là 123%, năm 2015 chỉ còn 105%, và năm 2016 cũng chỉ đạt 117%. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này là do trong cả thời kỳ này tỷ trọng của vốn đầu tư vào các ngành hướng tới sự phát triển vốn con người của nước ta không thay đổi và chỉ giữ ở mức 7% tổng đầu tư xã hội, tương đương 2 - 3% GDP. Bảng 1: CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU 2013-2015
Kết luận và một số khuyến nghị Tóm lại, vấn đế mấu chốt để Việt Nam ra khỏi tình thế hiện nay là vốn. Cần phải nhấn mạnh rằng ở các nền kinh tế phát triển đầu tư cho khoa học công nghệ được Nhà nước đặc biệt quan tâm, nhưng cùng với Nhà nước, các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế cũng dành nhiều vốn cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ áp dụng cho từng sản phẩm của mình.Ở Việt Nam, theo Bộ trưởng Bộ Khoa học công nghệ Nguyễn Quân thì Tỷ lệ đầu tư cho KHCN từ ngân sách nhà nước tính trên GDP của Việt Nam là 0,5%, không thấp so với thế giới. Nhưng mức đầu tư của xã hội và doanh nghiệp ngoài nhà nước cho KHCN còn rất thấp, khoảng 0,3-0,4% GDP. Như vậy, tổng đầu tư của Việt Nam cho KHCN hằng năm vẫn dưới 1% GDP[7]. Tài liệu tham khảo: 1. Di-a-lốp X.A.(1994), Cơ sở lý thuyết về vốn con người, NXB. XPBYEF, Moscow. PGS.,TS. Đỗ Văn Đức Học viện Ngân hàng |