Nhật bản quản lý về văn hóa như thế nào năm 2024

thức món Yakisoba, Ramen,... bạn có thể sẽ thoải mái ăn bát mì của mình mà không cần phải lo lắng quá nhiều. Khác hẳn với Việt Nam hay Trung Quốc là khi ăn chúng ta hạn chế nói truyện và phát ra tiếng động, thì ở đây là điểu được cho phép và nó là sự tôn trọng cho chính người đầu bếp làm ra món ăn đó. b. Shusi: Sushi không chỉ là một món ăn nổi tiếng nhất ở Nhật Bản mà còn đang được yêu thích trên toàn thế giới. Việc tìm hiểu về cách thưởng thức Sushi là một điều thực sự cần thiết nên làm khi bạn muốn tiếp cận với văn hóa ở Nhật Bản trước khi ghé thăm quốc gia du lịch này. Cách ăn món Sushi truyền thống của Maki và Nigiri là sử dụng ngón tay, nhưng khi ăn Sashimi bạn lại phải sử dụng đũa để thưởng thức. Bên cạnh đó, điều đáng chú ý là chỉ phần cá được chạm vào phần nước sốt khi bạn chấm, còn phần cơm thường sẽ không được ngâm trong nước sốt vì như vậy sẽ làm món Sushi bị mặn. Khi ăn Sashimi, mọi người có thể sẽ trộn nước tương và wasabi với nhau. Cũng giống với Việt Nam có nhiều món ăn đồ sống như: sứa, cá gỏi,.. là một trong các nét văn hóa và món ăn đặc biệt mang bản sác của từng nước. 3. Giao tiếp: Các kiểu chào hổi ở Nhật: Trong văn hóa giao tiếp truyền thông của người Nhật Bản, có những quy tắc và lễ nghi mà mọi người đều phải làm theo. Đặc biệt, tất cả lời chào của người Nhật bao giờ cùng đi kèm với một cái cúi chào sau cùng. Dựa theo địa vị xã hội và mối quan hệ xã hội với người tham gia giao tiếp mà người Nhật sử dụng các quy tắc và lễ nghi cũng như cách cúi mình mình khác nhau. ● Kiểu cúi chào bình thường: Trong kiểu chào này, thân mình cúi xuống 20-30 độ và giữ nguyên 2-3 giây. Nếu đang ngồi trên sàn nhà mà muốn chào thì đặt hai tay xuống sàn, lòng bàn tay úp sấp cách nhau 10-20cm, đầu cúi thấp cách sàn nhà 10-15cm ● Kiểu Saikeirei: Kiểu chào này thường sử dụng trước bàn thờ trong các đền của Thần đạo, chùa của Phật giáo, trước Quốc kỳ, trước Thiên Hoàng. Để thự hiện kiểu cúi chào Saikeirie, chúng ta cúi xuống từ từ và rất thấp để biểu thị sư kính trọng sâu sắc ● Kiểu khẽ cúi chào: Trong kiểu chào này, thân và đầu hơi cúi trong khoảng một giây và hai tay để bên hông. Người Nhật thường chào nhau vài lần trong ngày, nhưng chỉ lần đầu thì phải chào thi lễ cò những lần sau chỉ cần khẽ cúi chào. ● Khác với ở Việt Nam hay Trung quốc là đều bắt tay nhau để chào hỏi cho cả niềm vui hay chúc mừng hay chia tay. Còn ở phương Tây, thì có thể ngoài bắt tay thì có thể ôm hoặc hôn thùy thuộc vào mối quan hệ đó. 4. Nếp sống con người Nhật Bản: ● Phần lớn người Nhật chuộng lối sống đơn giản

  • Hạn chế mua đồ không cần thiết
  • Chỉ giữ lại những vật dụng cần thiết hàng ngày ● Tất coi trọng những mối quan hệ xung quanh
  • SUMO và tinh thần võ sỹ đạo: a. Xem SUMO: Võ sĩ Sumo là một trong các biểu tượng văn hóa đặc trưng của Nhật Bản và đấu vật Sumo đang được xem là một thể thao quốc gia thuộc xứ sở hoa anh đào. Ở thế kỷ thứ 8, Sumo đã bắt đầu như một cách để cầu mong cho mùa vụ màu mỡ và sau đó đã phát triển thành một trò chơi phổ biến, trong đó có 2 người sẽ thi đấu trong 1 vòng tròn. Người dành chiến thắng là người có thể triệt được hạ đối thủ bằng sự nhanh nhẹn và sức đẩy, buộc họ phải bước ra khỏi vòng của cuộc chơi. Sumo là một truyền thống khá lâu đời của Nhật Bản, liên quan đến phong tục và quần áo về cổ xưa. Nhiều truyền thống về cổ xưa đã được bảo tồn trong hình thức thi đấu Sumo này và thậm chí là môn thể thao này còn mang nhiều nghi lễ khá đặc biệt, như sử dụng muối để tẩy uế từ Thần đạo chẳng hạn. Ngày nay những trận đấu Sumo vẫn được tổ chức nhưng nó đang dần dần bị mai một, tuy vậy đây vẫn là một nét văn hóa đặc sắc riêng của Nhật Bản. b. Tinh thần võ sỹ đạo: Tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa Nhật Bản, là nguồn gốc sức mạnh và ý chí cũng như kỷ luật tuyệt vời của người Nhật. Ngày nay tinh thần này vẫn đang là niềm tự hào của người Nhật và được cả thế giới nể phục.
  • Cách mà người Nhật đối mặt với thiên nhiên: Nhật Bản có nhiều trận động đất và sóng thần, và đó là một chủng tộc cố gắng cùng tồn tại với sự đe dọa của thiên nhiên, đây có thể nói là bản chất của văn hóa Nhật Bản. Mặt khác, ở phương Tây, cách suy nghĩ khác với ở Nhật Bản vì thái độ mà con người đối mặt và kiểm soát các mối đe dọa xảy ra một cách tự nhiên. Cái này có chút gì đó tương đồng với con người Việt Nam (Người Miền Trung) trong việc ứng phó với thiên tai hằng năm, mặc dù tổn thất rất nhiều cả về người và của.
  • Giao thoa văn hóa: Văn hóa Nhật Bản đã đạt được sự phát triển của riêng mình trong khi chịu ảnh hưởng của các nước khác. Nhật Bản đã chấp nhận nhiều nền văn hóa và công nghệ từ các nước láng giềng như Trung Quốc và Hàn Quốc kể từ thời đại Jomon. Mặc dù có sức ảnh hưởng lớn nhưng Nhật Bản vẫn có sự phát triển độc đáo riêng biệt. Nguyên nhân có thể là do nhiều chủng tộc cùng tồn tại trong khu vực rộng lớn của quần đảo Nhật Bản, và các chủng tộc sống ở biển, núi và đồng bằng đã ban cho nhau sự khôn ngoan. Nhật Bản cũng là bậc thầy tiếp nhận ngay các nền văn hóa nước ngoài. Tuy nhiên, văn hóa được kết hợp hoặc không kết hợp với trí tuệ của người Nhật và mỗi chủng tộc, hoặc được cải thiện vì lợi ích của họ. Do đó, mặc dù các dân tộc khác nhau từ Hokkaido đến Okinawa đều thụ động trong việc chấp nhận văn hóa của các quốc gia khác, nhưng Nhật Bản có sức mạnh để sống hòa hợp và không đánh mất mình cho dù có bao nhiêu ảnh hưởng từ các quốc gia khác. Có vẻ như văn hóa Nhật Bản, được kết nối với thời đại hiện nay, vẫn được lưu giữ từ xa xưa.
  • Nhật Bản là nơi giao thoa văn hoá phương Đông – phương Tây
    • trước đây Nhật bản đón tết theo âm lịch, nhưng từ 1973 đến nay lại đón tết dương lịch. => vì có nhiều công ty nước ngoài hợp tác, nên khi dùng lịch tết dương sẽ đem lại nhiều lợi ích về kinh tế hơn.
  • vừa có lịch dương, vừa có lịch riêng, tính theo thời kỳ của đất nước.
  • các lễ họi tính thưo dương lịch, nhưng vẫn trùng với các ngày âm lịch/ hoặc lấy ngày giống.
  • Đất nước Nhật có nhiều ngày nghỉ lễ và nhiều lễ hội lớn.
  • theo từng năm sẽ giao động số ngày nghỉ lễ khác nhau nhưng hầu như tháng nào người Nhật Bản cũng được nghỉ lễ nửa đến 1 ngày.
  • các lễ hội lớn thường tập trung vào mùa hè và mùa xuân, mang đậm văn hoá dân tộc. => thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến tham dự (vd: lễ hội hoa anh đào nổi tiếng).

Mô hình hofstede

  1. Khoảng cách quyền lực Yếu tố này liên quan đến thực tế là tất cả các cá nhân trong xã hội không bình đẳng - nó thể hiện thái độ của văn hóa đối với những bất bình đẳng giữa chúng ta. Khoảng cách quyền lực là cách một xã hội ứng xử với sự bất bình đẳng về quyền lực giữa con người trong xã hội. Một xã hội có sự chênh lệch về quyền lực lớn có nghĩa là mức độ bất bình đẳng tương đối cao và luôn tăng lên theo thời gian. Nhật bản với số điểm trung bình là 54, là một xã hội phân cấp biên giới. Vâng, người Nhật luôn ý thức về vị trí phân cấp của họ trong bất kỳ môi trường xã hội nào và hành động tương ứng. Tuy nhiên, nó không phân cấp như hầu hết các nền văn hóa châu Á khác. Một số người nước ngoài trải nghiệm Nhật Bản cực kỳ phân cấp vì kinh nghiệm kinh doanh của họ về quá trình ra quyết định chậm chạp: tất cả các quyết định phải được xác nhận bởi mỗi lớp phân cấp và cuối cùng là quản lý cấp cao ở Tokyo. Việt Nam đạt điểm cao về chiều này (điểm 70), điều đó có nghĩa là mọi người chấp nhận một trật tự thứ bậc trong đó mọi người đều có một vị trí và không cần biện minh thêm. Hệ thống phân cấp trong một tổ chức được coi là phản ánh sự bất bình đẳng vốn có, tập trung hóa là phổ biến, cấp dưới mong muốn được nói phải làm gì và ông chủ lý tưởng là một người chuyên quyền nhân từ. Những thách thức đối với các nhà lãnh đạo không được đón nhận.
  2. Chủ nghĩa cá nhân Chủ nghĩa cá nhân hay là sự đề cao tính cá nhân và tính tập thể trong một quốc gia, một xã hội. Trong các xã hội theo chủ nghĩa cá nhân, mối quan hệ giữa con người tương đối lỏng lẻo, mỗi người có xu hướng chỉ quan tâm đến lợi ích của bản thân mình. Những xã hội này ưa thích tính cá nhân hơn sự đoàn kết tập thể. Cạnh tranh được đưa ra làm tiêu chuẩn để đo lường và ai cạnh tranh tốt nhất sẽ giành được phần thưởng. Các nước phương Tây như: Australia, Canada, Anh, Hoa Kỳ... là những đất nước đặc trưng theo chủ nghĩa cá nhân.

Nhật Bản đạt 46 điểm trên khía cạnh Chủ nghĩa cá nhân, đây là một con số cao hơn nhiều so với các nước xung quanh như Trung Quốc, Hàn Quốc và Việt Nam. Xã hội Nhật Bản cũng cho thấy nhiều đặc điểm của một xã hội tập thể: như sự tôn trọng với các quyết định của tập thể và khía cạnh đạo đức khi mọi người có cảm giác xấu hổ, mất mặt vì điều do một thành viên trong nhóm mình gây ra. Tuy nhiên, nó chặt chẽ như hầu hết những người hàng xóm châu Á khác. Giải thích cho điều này là xã hội Nhật Bản không có hệ thống gia đình mở rộng, tạo thành một cơ sở của các xã hội tập thể hơn. Nhật Bản đã là một xã hội gia trưởng và tên và tài sản gia đình được thừa kế từ cha cho con trai lớn nhất. Các em trai hoặc chị sẽ phải rời khỏi nhà và thành lập gia đình riêng của mình. Người Nhật có kinh nghiệm tập thể theo tiêu chuẩn phương Tây và có kinh nghiệm cá nhân theo tiêu chuẩn châu Á. Họ riêng tư và dè dặt hơn hầu hết những người châu Á khác. chẳng hạn như gia đình

trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Nghiện công việc là một biểu hiện phổ biến khác về nam tính của người Nhật. Phụ nữ ở Nhật thường ở nhà chăm lo con cái và nhà cửa. Họ khó có thể thăng tiến trong công ty ở Nhật Bản với các tiêu chuẩn cao về nam tính, về thời gian làm việc chăm chỉ và kéo dài.

Ngược lại, trong các nền văn hoá nữ tính sẽ chú trọng hơn đến sự chăm sóc, phúc lợi, chất lượng cuộc sống, các mối quan hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau. Các nước Scandinavia, cả Nam giới và Nữ giới đều chú trọng vào việc duy trì vai trò, sự phụ thuộc và quan tâm đến những người kém may mắn hơn. Hệ thống phúc lợi phát triển cao và nhà nước thường có chế độ trợ cấp rất tốt cho giáo dục. Một xã hội nữ tính là nơi mà chất lượng cuộc sống được coi là tiêu chuẩn để đánh giá sự thành đạt.

Việt Nam đạt 40 điểm về chiều này và do đó được coi là một xã hội nữ tính. Ở các quốc gia nữ tính, trọng tâm là tập trung vào hoạt động để sống, các nhà quản lý cố gắng đồng thuận và đưa ra nhiều chính sách xã hội tốt, mọi người coi trọng sự bình đẳng, đoàn kết và chất lượng trong cuộc sống làm việc của họ. Xung đột được giải quyết bằng thỏa hiệp và đàm phán. Các ưu đãi như thời gian rảnh và tính linh hoạt được ưa chuộng. Tập trung vào hạnh phúc và hưởng thụ bên các mối quan hệ của mình.

  1. Mức độ e ngại rủi ro

Sự e ngại rủi ro thể hiện mức độ mà con người có thể chấp nhận rủi ro và sự không chắc chắn trong cuộc sống của họ. Một xã hội có mức độ e ngại rủi ro cao, sẽ có nhiều tổ chức bảo hiểm để tối thiểu hoá rủi ro và đảm bảo an toàn tài chính. Các công ty tập trung tạo ra việc làm ổn định và thiết lập các quy định để điều chỉnh các hoạt động của nhân viên cũng như tối thiểu hoá sự không minh bạch. Các nhà lãnh đạo thường phải mất nhiều thời gian để ra quyết định vì phải xem xét hết mọi khả năng xảy ra rủi ro. Bỉ, Pháp và Nhật Bản là những nước có mức độ e ngại rủi ro tương đối cao.

Điểm số 92 Nhật Bản cho thấy là một trong những quốc gia có mức độ e ngại rủi do cao nhất trên trái đất. Điều này là do Nhật Bản liên tục bị đe dọa bởi thiên tai từ động đất, sóng thần, bão đến các vụ phun trào núi lửa. Nhật Bản đã học cách tự chuẩn bị cho mọi tình huống không chắc chắn, các kế hoạch khẩn cấp và biện pháp phòng ngừa không chỉ cho những thảm họa tự nhiên bất ngờ mà còn cho mọi khía cạnh khác của xã hội. Có thể nói ở Nhật Bản, bất cứ điều gì bạn làm đều được dự đoán tối đa và quy định thành các tục lệ, nghi thức bắt buộc. Cuộc sống mang tính nghi thức rất cao và bạn có rất nhiều nghi lễ. Tại đám cưới, đám tang, trong công sở, tại cuộc gặp quan trọng và các sự kiện xã hội khác, những gì mọi người mặc và cách mọi người nên cư xử được quy định rất chi tiết trong các sách xã giao.

Người Nhật thường không muốn làm những việc không có tiền lệ. Nhật Bản tốn rất nhiều thời gian và nỗ lực vào nghiên cứu tính khả thi và tất cả các yếu tố rủi ro phải được xử lý trước khi bất kỳ dự án nào có thể bắt đầu. Các nhà quản lý yêu cầu tất cả các sự kiện và số liệu chi tiết trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào.

Những xã hội có mức độ e ngại rủi ro thấp thường giúp các thành viên làm quen và chấp nhận sự không chắc chắn. Các nhà quản lý rất nhanh nhạy và tương đối thoải mái khi chấp nhận rủi ro nên họ ra quyết định khá nhanh. Con người chấp nhận cuộc sống mỗi ngày xảy đến và làm việc bình thường vì họ không lo lắng về tương lai. Họ có xu hưóng dung hoà được các hành động và quan điểm khác biệt so với bản thân họ vì họ không cảm thấy sợ sệt. Ấn Độ, Ireland, Jamaica và Hoa Kỳ là những ví dụ tiêu biểu nhất cho các quốc gia có mức độ e ngại rủi ro thấp.

Việt Nam đạt 30 điểm về mức độ e ngại rủi ro được đánh giá có sự bao dung, ít quy tắc và chấp nhận đổi mới đi đôi với sai sót nhiều lần hơn. Xã hội duy trì một thái độ thoải mái hơn, chấp nhận nhiều sự sai lệch so với chuẩn mực. Trong các xã hội thể hiện UAI thấp, mọi người tin rằng không

nên có nhiều quy tắc hơn mức cần thiết. Lịch trình thường linh hoạt, chính xác và đúng giờ không phải là yếu tố bắt buộc. Các lý do diễn giải cho sự chậm trễ, sai sót thường dễ được chấp nhận.

  1. Định hướng lâu dài Khía cạnh định hướng dài hạn hay ngắn hạn này thể hiện mức độ con người và các tổ chức trì hoãn sự thoả mãn trong ngắn hạn để đạt được thành công trong dài hạn. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp và con người trong các nền văn hoá định hưóng dài hạn có xu hướng nhìn về lâu dài khi lập kế hoạch và cuộc sống. Họ chú trọng đến các kế hoạch cho khoảng thời gian trong nhiều năm hoặc thậm chí là nhiều thập kỉ. Khía cạnh dài hạn được thể hiện rõ nét trong các giá trị đạo đức của người châu Á, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam...

Một phần, những giá trị này là dựa trên các học thuyết của Khổng từ, triết gia nổi tiếng người Trung Quốc sống vào khoảng năm 500 trước công nguyên. Ngoài việc đưa ra các định hướng dài hạn, Khổng Tử cũng tán thành các giá trị văn hoá cốt lõi khác mà cho đến bây giờ vẫn đang áp dụng cho nhiều nền văn hoá của châu Á. Những giá trị đó bao gồm tính kỷ luật, sự trung thành, sự siêng năng, quan tâm đến giáo dục, sự tôn trọng gia đình, chú trọng đoàn kết cộng đồng và kiểm soát ham muốn cá nhân. Học giả trên thế giới đã công nhận các giá trị này là điều làm nên sự kì diệu của Á Đông, làm nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đáng kể và quá trình hiện đại hoá của các nước Đông Á trong suốt vài thập kỉ qua.

Nhật Bản với 88 điểm là một trong những xã hội định hướng dài hạn nhất. Cuộc sống đối với họ chỉ là một khoảnh khắc rất ngắn trong lịch sử của loài người. Bạn sống làm việc hết sức mình và đó là tất cả những gì bạn có thể làm. Nếu một người Nhật cả thấy mất định hướng, mất khả năng làm việc hoăc vô dụng đối với xã hội, họ thường tìm cách kết thúc cuộc sống của mình. Đây là lý do Nhật có số vụ tự tử cao nhất thế giới. Mọi người sống cuộc sống của họ và hướng tới đức hạnh và danh dự cao như là một phần thưởng hơn là một vị Chúa toàn năng hứa hẹn cho họ lên thiên đàng. Ở Nhật Bản, bạn thấy định hướng dài hạn về tỷ lệ đầu tư liên tục vào R&D ngay trong thời kỳ kinh tế khó khăn, ưu tiên tăng trưởng thị phần ổn định hơn là lợi nhuận hàng quý v.. Tất cả đều phục vụ cho độ bền của các công ty.

Việt Nam đạt 57 điểm, tuy không phải là một nền văn hóa ngắn hạn hoàn toàn nhưng cũng không quá coi trọng sự dài hạn. Nguyên nhân có thể một phần ảnh hưởng bởi các cuộc chiến tranh diễn ra liên tiếp trong lịch sử, các giá trị dài hạn chưa kịp xây dựng đã bị đập đi và xây dựng lại từ đầu khi một chế độ mới lên ngôi, điều này biến Việt Nam thành một nền văn hóa thực dụng. Trong các xã hội với định hướng thực dụng, mọi người tin rằng sự thật phụ thuộc rất nhiều vào tình huống, bối cảnh và thời gian. Chúng cho thấy khả năng thích ứng truyền thống dễ dàng cùng với các điều kiện thay đổi, xu hướng hội nhập mạnh mẽ để học hỏi phát triển trong thời gian nhanh nhất.

Ngược lại, Hoa Kỳ và hầu hết các nước phương Tây đều chú trọng đến định hướng ngắn hạn , các đích đến rõ ràng và cụ thể. Các định hướng ngắn hạn có tác dụng thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ của thế giới, đồng nghĩa với việc bất chấp các rủi ro về lâu dài, sự tàn phá, hủy hoại về môi trường. Văn hóa đề cao thành tích và chủ nghĩa cá nhân cũng là nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ ly hôn cao, ngại sinh con và suy thoái dân số diễn ra mạnh mẽ ở các nước phương Tây.