Quyết định quan trọng của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 15 thắng 1 1959 là gì

Câu hỏi trên thuộc đề trắc nghiệm dưới đây !

Số câu hỏi: 40

 Lợi dụng sự thất bại và khó khăn của thực dân Pháp ở miền Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ muốn thay chân Pháp biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, làm bàn đạp tấn công miền Bắc, ngăn chặn làn sóng đấu tranh cách mạng ở khu vực Đông Nam Á. Sau khi dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, chúng liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, bình định miền Nam với chính sách “tố cộng”, “diệt cộng”, “đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật”, ra đạo luật 10/59, thực hiện khẩu hiệu “thà giết nhầm còn hơn bỏ sót”, thẳng tay đàn áp các phong trào đấu tranh của nhân dân ta. “Chỉ trong 4 năm [từ 1955-1958], ở Nam Bộ chỉ còn khoảng 5.000 so với 60.000 đảng viên trước đó. Ở đồng bằng Liên khu V, có khoảng 40% tỉnh ủy viên, 60% huyện ủy viên, 70% chi ủy viên bị địch giết hại, 12 huyện không còn cơ sở đảng”[1]. Chế độ thống trị của Mỹ-Diệm ở miền Nam lúc bấy giờ là một chế độ độc tài, hiếu chiến. Chúng ngang nhiên phá hoại Hiệp định Giơnevơ, mưu tính chia cắt lâu dài nước ta. Đứng trước những diễn biến phức tạp đó, lịch sử đặt ra cho Đảng Lao động Việt Nam một yêu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng miền Nam tiến lên giành thắng lợi.

         Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng [7/1954] nhận định: “Hiện nay, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương. Cho nên, mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”.[2] Từ đó, Đảng ta chỉ đạo “phải tích cực xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng cách mạng thì mới có thể có điều kiện nắm lấy thời cơ thuận lợi và giành lấy thắng lợi cuối cùng”[3]. Trải qua nhiều hội nghị, chủ trương của Đảng về chiến lược cách mạng giải phóng miền Nam từng bước được hình thành.

         Trong tình hình mới, nhiệm vụ của Đảng đối với cách mạng miền Nam là “lãnh đạo nhân dân đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc lập. Đồng thời, phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng; chống những hành động tiến công của địch”[4]. Mục đích của cách mạng miền Nam “là phải đánh đổ chính quyền Mỹ-Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập để giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc”[5]. Trước yêu cầu đó, tháng 10/1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập do đồng chí Lê Duẩn - Ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư. Tháng 12/1956, đường lối cách mạng miền Nam được thông qua, trong đó khẳng định “để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và tự cứu mình là con đường cách mạng ngoài con đường cách mạng không có con đường nào khác”[6]. Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương khóa II [12/1957] nhấn mạnh “khi ta đồng thời chấp hành hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm”[7].

         Trên cơ sở nhận định tình hình miền Nam dưới chế độ Mỹ-Diệm, Nghị quyết Hội nghị lần thứ mười lăm của Đảng [01/1959] đã vạch rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[8]. Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp đấu tranh chính trị và vũ trang để đánh đổ chính quyền thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ ở miền Nam. Hội nghị nhận định “đế quốc Mỹ là đế quốc hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... và thắng lợi cuối cùng nhất định về ta”[9]. Nghị quyết nêu rõ cần tăng cường công tác mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam vững mạnh đủ sức lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi.

         Sự ra đời của Nghị quyết 15 có ý nghĩa vô cùng to lớn, đáp ứng đúng yêu cầu của lịch sử, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. Nghị quyết 15 chính là ngọn lửa châm ngòi cho phong trào “Đồng khởi” trên quy mô lớn tại các tỉnh Nam Bộ và Khu V nhất tề đứng lên. Tiêu biểu như cuộc khởi nghĩa ở Bắc Ái [2/1959], Trà Bồng [8/1959], Tua Hai [1/1960], đặc biệt là phong trào nổi dậy ở tỉnh Bến Tre. Phong trào “Đồng khởi” như tức nước vỡ bờ lan nhanh ra khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và Trung Trung Bộ. Đến cuối năm 1960, về cơ bản cách mạng đã làm tan rã trên 2/3 bộ máy chính quyền địch ở nông thôn, “làm chủ được 600 trong tổng số 1298 xã, trong đó có 116 xã được hoàn toàn giải phóng. Ở các tỉnh đồng bằng ven biển Trung Bộ, có 904 trong tổng số 3829 thôn được giải phóng. Tây Nguyên có tới 3200 trong tổng số 5721 thôn không còn chính quyền ngụy”[10]. Dưới sự chỉ đạo kịp thời, sáng suốt của Đảng cùng với thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” đã tạo điều kiện thuận lợi cho các lực lượng cách mạng phát triển nhanh chóng. Công tác xây dựng đảng, phát triển đảng viên được đẩy mạnh. Hàng nghìn chi bộ được khôi phục, phát triển ở tất cả các đảng bộ miền Tây, miền Trung và miền Đông Nam Bộ. Số lượng đảng viên tăng nhanh từ 7.641 đảng viên [cuối năm 1959] đã tăng lên 12.946 đảng viên [cuối năm 1960]. Sự khôi phục nhanh chóng của các tổ chức cơ sở đảng đã tạo chuyển biến mạnh mẽ và động lực quan trọng cho các lực lượng chính trị, vũ trang miền Nam phát triển. “Ở miền Đông Nam Bộ, đã xây dựng được 40 trung đội tập trung và 60 đội tự vệ vũ trang; miền Trung Nam Bộ có 36 trung đội và 68 đội tự vệ xã; miền Tây Nam Bộ xây dựng được 37 trung đội và 150 đội tự vệ xã”[11]. Có thể thấy, phong trào “Đồng khởi” đã giáng đòn chí tử vào chế độ Mỹ-Diệm, đẩy chúng rơi vào tình thế bị động lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng miền Nam. Phong trào “Đồng khởi” thắng lợi đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Từ trong khí thế đó, ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, góp phần quy tụ, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc.

         Thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” chính là “biểu hiện cụ thể, sinh động của sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết 15 vào thực tiễn đấu tranh của các cấp ủy Đảng và nhân dân miền Nam […] đưa cách mạng thoát khỏi thế hiểm nghèo, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên, tạo tiền đề quan trọng cho quân và dân ta đánh bại các chiến lược quân sự của Mỹ trong những năm tiếp theo của cuộc kháng chiến”[12] góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

[1] Lê Mậu Hãn [Chủ biên], Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tập III, Nxb Giáo dục, H.2007, tr.159-160

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, h.2001. tr.172

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.82-83

[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, H.2006, tr.205

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.787

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.785

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 18, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.771-772

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.81

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, H.2002. tr.85

[10] Đinh Xuân Lâm [Chủ biên], Nguyễn Xuân Minh, Trần Bá Đệ, Lịch sử 12, Nxb Giáo dục, H.2006, tr.131

[11] Phong trào Đồng khởi-50 năm nhìn lại, Nxb Chính trị quốc gia, H.2010, tr.52

[12] Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Phong trào Đồng khởi miền Nam 1960-Bước ngoặt chiến lược của cuộc kháng chiến chống mỹ, cứu nước, Tạp chí  Lịch sử Đảng, số 350 [1/2020], tr.11

Cuối năm 1958 đầu năm 1959, cách mạng miền nam đứng trước những thử thách ác liệt. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Ðảng, nhân dân miền nam đã từ đấu tranh chính trị, tiến lên đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang tự vệ, giành được nhiều thắng lợi. Song, với chính sách tố Cộng, diệt Cộng, Mỹ - Diệm đã gây cho ta những tổn thất nặng nề. Chỉ tính từ tháng  7-1955 đến tháng 2-1956, chúng đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên. Từ 1955 đến 1958, riêng ở Nam Bộ, địch đã giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt 446.000 người.

Tháng 12-1958, chúng đầu độc  hàng nghìn tù chính trị ở trại giam Phú Lợi, làm chết nhiều chiến sĩ cách mạng. Tháng 4-1959, Ngô Ðình Diệm tuyên bố "đặt miền nam trong tình trạng khẩn cấp". Tháng 5-1959, Quốc hội của chính quyền Sài Gòn thông qua Luật 10/59 lê máy chém đi khắp các vùng nông thôn và thành thị miền nam, công khai giết hại những người yêu nước, tàn sát đồng bào ta hết sức man rợ.

Tình hình trên chỉ ra rằng, với chính sách khủng bố, đàn áp tàn bạo của chính quyền phát-xít Ngô Ðình Diệm, nhất là với các biện pháp tố Cộng, diệt Cộng ngày càng quyết liệt, thì phương châm đấu tranh chính trị đơn thuần cũng như đấu tranh chính trị kết hợp với vũ trang tự vệ như trước đó không còn phù hợp với thực tế tình hình. Ðiều này đòi hỏi Ðảng phải có sự chuyển hướng chỉ đạo kịp thời để duy trì và phát triển phong trào cách mạng, đáp ứng đòi hỏi bức xúc của cán bộ, đảng viên và đồng bào yêu nước miền nam và cũng là đòi hỏi cấp bách của lịch sử đặt ra lúc bấy giờ, nhằm đưa sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước của nhân dân ta vượt qua thử thách hiểm nghèo.

Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Ðảng triệu tập Hội nghị lần thứ 15. Dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị đã kiểm điểm tình hình trong nước từ khi Hiệp định Geneva được ký kết và đề ra nhiệm vụ đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta. Phân tích đặc điểm, tình hình nước ta từ khi hòa bình được lập lại, Hội nghị chỉ ra hai mâu thuẫn cơ bản mà cách mạng Việt Nam phải giải quyết. Ðó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc, giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản mại bản ở miền nam với dân tộc Việt Nam, nhân dân cả nước Việt Nam và mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền bắc.

Từ đó, Hội nghị cho rằng: "Cách mạng Việt Nam do Ðảng ta lãnh đạo bao gồm hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam". Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau nhưng quan hệ hữu cơ với nhau, song song tiến hành, ảnh hưởng sâu sắc lẫn nhau, trợ lực mạnh mẽ cho nhau nhằm phương hướng chung là giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội [1].

Hội nghị đề ra nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh để giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, ra sức củng cố miền bắc và đưa miền bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Ðông-Nam Á và thế giới" [2].

Ðối với cách mạng Việt Nam ở miền nam, Hội nghị xác định: "Miền nam đã trở thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ. Chính quyền Ngô Ðình Diệm là chính quyền tay sai của đế quốc Mỹ, chế độ thực dân và nửa phong kiến ở miền nam là một chế độ phản động, tàn bạo và đen tối" [3]. Mâu thuẫn chủ yếu ở miền nam trong giai đoạn hiện nay là mâu thuẫn giữa dân tộc ta, nhân dân ta ở miền nam và bọn đế quốc xâm lược Mỹ cùng tập đoàn thống trị Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ, phong kiến và tư sản mại bản thân Mỹ phản động nhất. Vì vậy, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam ở miền nam được Hội nghị đề ra là:

- Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.

- Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Ðình Diệm, tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống của nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hòa bình ở Ðông-Nam Á và thế giới.

- Phương pháp cách mạng và phương thức đấu tranh là dùng bạo lực cách mạng từ đấu tranh chính trị tiến lên kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang; và dự kiến xu hướng phát triển từ khởi nghĩa của nhân dân có thể tiến lên cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ... Hội nghị chỉ rõ, con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền nam là "khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân [4]".

Hội nghị nhấn mạnh: "Vì chế độ thống trị của Mỹ - Diệm dựa vào vũ lực để tồn tại mà chúng ta thì phải dựa vào lực lượng quần chúng, lấy lực lượng quần chúng để đánh đổ chúng, cho nên muốn đạt được mục tiêu đó, cần phải có một quá trình đấu tranh lâu dài và gian khổ" [5]. Trong quá trình đó "hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Song do quân thù quyết dìm cách mạng trong máu lửa, do nhu cầu của phong trào cách mạng ở miền nam, cho nên trong một chừng mực nhất định và ở những địa bàn nhất định đã xuất hiện những lực lượng vũ trang tự vệ và vũ trang tuyên truyền để trợ lực cho đấu tranh chính trị. Ðó là một điều cần thiết" [6].

Trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm thực tiễn của đồng bào, chiến sĩ miền nam trong hơn bốn năm đấu tranh đầy hy sinh gian khổ và nghiên cứu cẩn trọng những kiến nghị khẩn thiết của nhiều cán bộ, đảng viên và một số cấp ủy, Bộ Chính trị đã dành nhiều công sức, trí tuệ chuẩn bị một giải pháp cơ bản cho cách mạng miền nam để trình ra Ban Chấp hành Trung ương. Do bối cảnh phức tạp, do tính chất đặc biệt quan trọng của vấn đề nghị bàn, Hội nghị đã tiến hành qua hai đợt. Ðợt 1 vào tháng 1-1959, sau đó tiếp tục nghiên cứu tình hình và họp đợt 2 vào tháng 7-1959, nhằm hoàn thiện những kết luận của đợt 1. Nghị quyết Hội nghị được chính thức thông qua trong đợt 2.

Nghị quyết Hội nghị T.Ư 15 là một mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Nghị quyết đã đề ra một cách toàn diện đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam. Nó đánh dấu bước phát triển mới về tư duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Ðảng ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhằm mục tiêu chiến lược giải phóng miền nam, thống nhất đất nước. Những quyết sách về đường hướng phát triển của cách mạng miền nam mà Hội nghị đưa ra phản ánh đúng tình thế chín muồi của cách mạng miền nam, đáp ứng được yêu cầu bức thiết của thực tế tình hình cách mạng miền nam lúc bấy giờ, phù hợp với nguyện vọng tha thiết của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền nam và phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền nam. 

Nghị quyết 15 như một luồng sinh khí mới thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh của quần chúng cách mạng mà đỉnh cao là phong trào đồng khởi cuối năm 1959 đầu năm 1960, đưa cách mạng miền nam vượt qua thử thách nghiêm trọng nhất, chuyển sang thế tiến công đập tan hình thức xâm lược, thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới mà đế quốc Mỹ dày công tạo dựng ở miền nam Việt Nam. Nghị quyết 15 và tiếp đó là Nghị quyết Ðại hội  toàn quốc lần thứ III của Ðảng [tháng 9-1960] đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam nói chung, đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam ở miền nam nói riêng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Nghị quyết cũng thể hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Ðảng ta. Nghị quyết 15 là một quyết định lịch sử.

----------------                   

[1], [2], [3]. Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 20, NXB CTQG, H, 2002, tr 62, 63, 71.

[4], [5], [6]. Văn kiện Ðảng toàn tập, tập 20, đd, tr 82, 84.

Video liên quan

Chủ Đề