So sánh chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

HomeBài viếtChủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là gì?

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Việc giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học gắn liền với việc phân chia các học thuyết triết học thành hai tr­ờng phái triết học cơ bản là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

 a. Chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có tr­ớc, ý thức có sau; thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan, độc lập với ý thức con ng­ời và không do ai sáng tạo ra; còn ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ óc con ng­ười; không thể có tinh thần, ý thức nếu không có vật chất.

Chủ nghĩa duy vật đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại và cho đến nay, lịch sử phát triển của nó luôn gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn, tồn tại d­ới nhiều hình thức khác nhau.

+ Chủ nghĩa duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ nh­ quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit...

+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình thế kỷ XVII - XVIII: Do ảnh h­ởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của ph­ơng pháp t­ duy siêu hình, máy móc - ph­ơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nh­ng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh­ quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII.

+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đ­ợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học tr­ớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đ­ơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đ­ợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tr­ớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực l­ợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

 b. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức, tinh thần có tr­ớc và quyết định giới tự nhiên. Giới tự nhiên chỉ là một dạng tồn tại khác của tinh thần, ý thức.

Chủ nghĩa duy tâm đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại với hai hình thức chủ yếu là:

 + Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của cảm giác, ý thức con ng­ời, khẳng định mọi sự vật, hiện t­ợng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể. Ví dụ quan niệm của Beccơly.

+ Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức, nh­ng đó không phải là ý thức cá nhân mà là tinh thần khách quan có tr­ớc và tồn tại độc lập với con ng­ời, quyết định sự tồn tại  của tự  nhiên, xã hội và t­ duy. Nó th­ờng đ­ợc mang những tên gọi khác nhau nh­ ý niệm, ý niệm tuyệt đối, tinh thần tuyệt đối hay lý tính thế giới.Ví dụ quan niệm của Platon, Hêghen.

Cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm đều có nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật là các lực l­ợng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng; nguồn gốc nhận thức của nó là mối liên hệ với khoa học. Còn nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm là các lực l­ợng xã hội, các giai cấp phản tiến bộ; nguồn gốc nhận thức của nó là sự tuyệt đối hóa một mặt của quá trình nhận thức [mặt hình thức], tách nhận thức, ý thức khỏi thế giới vật chất.

Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t­ duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t­ t­ởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.

c. Bên cạnh các nhà triết học nhất nguyên luận[duy vật hoặc duy tâm] giải thích thế giới từ một nguyên thể hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có các nhà triết học nhị nguyên luận. Họ xuất phát  từ cả hai nguyên thể vật chất và tinh thần để giải thích mọi hiện t­ợng của thế giới. Theo họ, thế giới vật chất sinh ra từ nguyên thể vật chất, thế giới tinh thần sinh ra từ nguyên thể tinh thần. Họ muốn dung hòa giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, nh­ng cuối cùng họ rơi vào chủ nghĩa duy tâm khi thừa nhận ý thức hình thành và phát triển tự nó, không phụ thuộc vào vật chất.


Đọc và thảo luận TRIẾT HỌC KỲ THÚ trên Telegram

Chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật là hai lý thuyết vô cùng quan trọng trong các lý thuyết được sử dụng để mô tả các sự kiện xã hội. Hai mô hình triết học không độc quyền hoặc tương hỗ lẫn nhau vì có nhiều điểm tương đồng. Do sự chồng chéo này, vẫn còn sự nhầm lẫn trong việc phân biệt giữa hai mô hình tư duy xã hội học. Trong bài viết dưới đây, Khacnhaugiua.vn sẽ cố gắng giúp bạn phân biệt được sự khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Tham khảo ngay nhé!

1. Khái niệm

Điểm khác nhau đầu tiên giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm nằm ở bản chất khái niệm của chúng.

Theo đó, Chủ nghĩa duy tâm là một triết lý được ghi nhận cho nhà triết học Hy Lạp vĩ đại Plato. Đặc điểm trung tâm của triết lý này là sự khẳng định rằng thực tế không là gì ngoài những gì được xây dựng bởi tâm trí của chúng ta đối với chúng ta. 

Chủ nghĩa duy tâm khẳng định rằng thực tế không là gì ngoài những gì được xây dựng bởi tâm trí của chúng ta đối với chúng ta. 

Chủ nghĩa duy tâm quan trọng hàng đầu đối với ý thức của con người và làm cho nó rõ ràng rằng đó là một thế giới tin tưởng và thực tế là những gì tâm trí của chúng ta làm cho chúng ta tin tưởng. Để nắm được mối quan hệ nhân quả giữa các sự kiện xã hội học, trạng thái tâm trí của con người là công cụ tốt nhất. Đó là tiền đề của một người duy tâm rằng tâm trí con người đi trước mọi thứ khác. 

Trong khi đó, Lucretius, nhà triết học vĩ đại, cho rằng vật chất tạo nên mọi thứ trong vũ trụ có tầm quan trọng hàng đầu và vấn đề đó hình thành không chỉ con người mà cả quá trình ý thức và suy nghĩ của họ. 

Chủ nghĩa duy vật có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên khi các nhà triết học như Leucippus và Democritus tin rằng mọi thứ xảy ra là do sự cần thiết, và không có gì là tình cờ. Ngay cả những cảm giác và cảm xúc của con người là kết quả của các nguyên tử chạm vào nhau. Tuy nhiên, ngay cả những người theo chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng con người có một ý chí tự do và luôn tìm kiếm hạnh phúc [vẫn là mục tiêu chính của tất cả chúng ta].

2. Hình thức thể hiện

Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm có hình thức thể hiện hoàn toàn khác nhau. Đó chính là điểm khác biệt tiếp theo của hai chủ nghĩa này.

Cho đến nay, chủ nghĩa duy vật đã được thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: chủ nghĩa duy vật chất phác, chủ nghĩa duy vật siêu hình và chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Cụ thể, chủ nghĩa duy vật chất phác là kết quả nhận thức của các nhà triết học duy vật thời cổ đại. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể và những kết luận của nó mang nặng tính trực quan nên ngây thơ, chất phác. Tuy còn rất nhiều hạn chế, nhưng chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại về cơ bản là đúng vì nó đã lấy giới tự nhiên để giải thích giới tự nhiên, không viện đến Thần linh hay Thượng đế.

Chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Tiếp theo, chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản thứ hai của chủ nghĩa duy vật, thể hiện khá rõ ở các nhà triết học thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII và đỉnh cao vào thế kỷ thứ XVII, XVIII. Đây là thời kỳ mà cơ học cổ điển thu được những thành tựu rực rỡ nên trong khi tiếp tục phát triển quan điểm chủ nghĩa duy vật thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật giai đoạn này chịu sự tác động mạnh mẽ của phương pháp tư duy siêu hình, máy móc – phương pháp nhìn thế giới như một cỗ máy khổng lồ mà mỗi bộ phận tạo nên nó luôn ở trong trạng thái biệt lập và tĩnh tại. 

Tuy không phản ánh đúng hiện thực nhưng chủ nghĩa duy vật siêu hình cũng đã góp phần không nhỏ vào việc chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo, điển hình là thời kỳ chuyển tiếp từ đêm trường trung cổ sang thời phục hưng.

Cuối cùng, chủ nghĩa duy vật biện chứng là hình thức cơ bản thứ ba của chủ nghĩa duy vật, do C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó được V.I.Lênin phát triển. 

Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học trước đó và sử dụng khá triệt để thành tựu của khoa học đương thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa duy vật siêu hình và là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ phản ánh hiện thực đúng như chính bản thân nó tồn tại mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp những lực lượng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy

Trong khi đó, chủ nghĩa duy tâm chia thành hai phái: chủ nghĩa duy tâm chủ quan và chủ nghĩa duy tâm khách quan.

Chủ nghĩa duy tâm chủ quan thừa nhận tính thứ nhất của ý thức con người. Trong khi phủ nhận sự tồn tại khách quan của hiện thực, chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định mọi sự vật, hiện tượng chỉ là phức hợp những cảm giác của cá nhân, của chủ thể.

Chủ nghĩa duy tâm khách quan cũng thừa nhận tính thứ nhất của ý thức nhưng theo họ đấy là là thứ tinh thần khách quan có trước và tồn tại độc lập với con người. Thực thể tinh thần khách quan này thường mang những tên gọi khác nhau như ý niệm, tinh thần tuyệt đối, lý tính thế giới, v.v..

3. Tư tưởng bản nguyên thế giới 

Đây chính là điểm khác nhau tiếp theo giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Theo đó, với sự ra đời của vật lý lượng tử, một số nhà khoa học tin rằng khái niệm vật chất chỉ đơn thuần thay đổi, trong khi những người khác tin rằng vị trí thông thường không còn được duy trì. 

Chủ nghĩa duy vật cho rằng ngay cả những cảm giác và cảm xúc của con người là kết quả của các nguyên tử chạm vào nhau. 

Chẳng hạn, Werner Heisenberg nói, “Bản thể luận của chủ nghĩa duy vật dựa trên ảo tưởng rằng loại tồn tại,” thực tế “trực tiếp của thế giới xung quanh chúng ta, có thể được ngoại suy trong phạm vi nguyên tử. Tuy nhiên, phép ngoại suy này là không thể… các nguyên tử không phải là vật.” Ông cho rằng “nguyên tử và những hạt cơ bản tự chúng không có thật; chúng hình thành một thế giới của tiềm năng và khả năng hơn là một đối tượng hoặc sự kiện”. 

Max Planck còn đi xa hơn khi ông cho rằng “Không có vật chất nào hết. Tất cả mọi vật chất phát sinh và tồn tại chỉ vì một lực khiến hạt cơ bản của một nguyên tử rung động và giữ cho hệ thống hạt cơ bản của nguyên tử gắn kết với nhau. Chúng tôi phải giả định rằng đằng sau cái lực này tồn tại một Tâm trí có ý thức và thông minh. Tâm trí này là ma trận của mọi vật chất”. 

Tương tự như vậy, một số triết gia cảm thấy rằng những sự phân đôi này đòi hỏi phải chuyển từ chủ nghĩa duy vật sang chủ nghĩa vật lý. Những người khác sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa duy vật” và “chủ nghĩa duy vật lý” thay thế cho nhau.Ngày nay có những học giả tin rằng thực tại của chúng ta chỉ là một mô phỏng trên máy tính của nền văn minh tiên tiến nào đó.

Khái niệm về vật chất đã thay đổi để đáp ứng với những khám phá khoa học mới. Do đó, chủ nghĩa duy vật không có nội dung xác định độc lập với lý thuyết cụ thể về vật chất mà nó dựa vào. Theo Noam Chomsky, bất kỳ thuộc tính nào cũng có thể được coi là vật chất, nếu người ta định nghĩa vật chất sao cho nó có thuộc tính đó.

Trong khi đó, thế giới quan duy tâm cho rằng: ý thức là cái có trước và là cái sản sinh ra giới tự nhiên. Nó là cái có trước và cũng là cái có quyết định đối với thế giới của con người và vật chất. Trong thế giới quan duy tâm lại tồn tại cả thế giới quan duy tâm khách quan và thế giới quan duy tâm chủ quan. Hai hình thức này lại khác nhau trong quan niệm về tinh thần. Chủ quan coi tinh thần là ý chí, tình cảm, tư tưởng còn khách quan lại coi tinh thần là ý niệm, một ý niệm tuyệt đối.

Trên đây là một số điểm khác nhau giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm được Khacnhaugiua.vn tổng hợp lại được. Hy vọng thông qua bài viết, các bạn độc giả sẽ có được những thông tin cần thiết. Nếu có bất kỳ thắc mắc nào cần được giải đáp, vui lòng gửi câu hỏi về cho Khacnhaugiua.vn nhé!

Video liên quan

Chủ Đề