Sự khác biệt cơ bản giữa quan điểm Mác xít và quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước

Lý luận về nguồn gốc của nhà nước

Sự khác biệt cơ bản giữa quan điểm Mác xít và quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước
Bởi HILAW.VN Cập nhật 05/10/2021
0
Chia sẻ

Quan niệm mác xít về nguồn gốc và bản chất nhà nước.vận dụng lý luận này trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam

  • doc
  • 21 trang
Quan niệm mác xít về nguồn gốc và bản chất nhà
nước.Vận dụng lý luận này trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
A. MỞ ĐẦU
Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay còn gọi là Lý
luận về Nhà nước và Pháp luật của Chủ nghĩa Mác- Lê nin là hệ thống
những kiến thức của chủ nghĩa Mác-Lênin về những quy luật phát sinh,
phát triển đặc thù, những đặc tính chung và biểu hiện quan trọng nhất của
nhà nước nói chung và nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói riêng. Tập trung
vào phân tích nguồn gốc và bản chất của nhà nước, Lý luận của những
người Mác-xít đi sâu nghiên cứu về nhà nước một cách tổng thể những
vấn đề chung nhát về bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước, hình
thức nhà nước, bộ máy nhà nước và làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các bộ
phận trong thượng tầng kiến trúc chính trị-pháp lý với các tổ chức xã hội,
giữa nhà nước với cá nhân. Từ đó, Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng
Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo vào
hoàn cảnh cụ thể nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở
VN. Từ đó, trong bài tiểu luận này em xin trình bày một số lý luận triết
học về đề tài: “Quan niệm mác xít về nguồn gốc và bản chất nhà
nước.Vận dụng lý luận này trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”

B. NỘI DUNG
I. QUAN ĐIỂM MÁC XÍT VỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT NHÀ NƯỚC

1. Nguồn gốc ra đời nhà nước:
Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa có chọn lọc
những hạt nhân hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, lần đầu tiên đã giải
thích đúng đắn nguồn gốc xuất hiện nhà nước. Dựa trên quan điểm duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử đã chứng minh nhà nước không phải là
hiện tượng vĩnh cửu, bất biến. Nhà nước là phạm trù lịch sử, có quá trình
phát sinh, phát triển, tiêu vong. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội loài
người phát triển đến một giai đoạn nhất định và sẽ tiêu vong khi những
điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó mất đi.
Chế độ cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc - bộ lạc và quyền lực xã
hội
1

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chế độ cộng sản nguyên thuỷ
là hình thái kinh tế - xã hội đầu tiên của xã hội loài người. Trong xã hội
chưa phân chia giai cấp, chưa có nhà nước. Nhưng trong xã hội này lại
chứa đựng những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước. Bởi vậy, việc
nghiên cứu những đặc điểm của xã hội cộng sản nguyên thuỷ làm tiền đề
cần thiết cho việc lý giải nguyên nhân xuất hiện của nhà nước và hiểu rõ
bản chất của nó là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đặc điểm của xã hội cộng sản nguyên thuỷ phải xuất phát
từ cơ sở kinh tế của nó. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ được xây dựng trên
nền tảng của phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ mà đặc trưng là
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và phân phối bình đẳng của cải.
Trong chế độ cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động còn thô sơ, sự hiểu biết về thế
giới tự nhiên của người lao động còn lạc hậu, vì thế con người để kiếm
sống và bảo vệ mình phải dựa vào nhau cùng chung sống, cùng lao động,
cùng hưởng thành quả của lao động chung. Trong điều kiện đó nên không
ai có tài sản riêng, không có người giàu, người nghèo, xã hội chưa phân
chia thành giai cấp và không có đấu tranh giai cấp.
Từ chế độ kinh tế như vậy đã quyết định tổ chức xã hội của xã hội cộng
sản nguyên thuỷ. Hình thức tổ chức xã hội và cách thức quản lý của xã
hội cộng sản nguyên thuỷ rất đơn giản. Tế bào của xã hội cộng sản
nguyên thuỷ là thị tộc. Thị tộc là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài
của xã hội loài người, được xuất hiện khi xã hội đã phát triển tới một
trình độ nhất định.
Với tư cách là hình thức tổ chức và quản lý xã hội, thị tộc là một tổ chức
lao động và sản xuất, một bộ máy kinh tế xã hội. Thị tộc được tổ chức
trên cơ sở huyết thống, ở giai đoạn đầu do những điều kiện về kinh tế,
hôn nhân chi phối, vì thế thị tộc được tổ chức theo chế độ mẫu hệ. Dần
dần cùng với sự phát triển của kinh tế, sự thay đổi của xã hội và hôn
nhân, chế độ mẫu hệ được thay thế bởi chế độ phụ hệ.
Trong thị tộc mọi thành viên đều tự do, bình đẳng, không một ai có đặc
quyền, đặc lợi gì. Mặc dù trong xã hội cũng đã có sự phân chia lao động
nhưng đó là sự phân chia trên cơ sở tự nhiên, theo giới tính hoặc lứa tuổi
chứ chưa mang tính xã hội.
Thị tộc là hình thức tự quản đầu tiên trong xã hội. Để tổ chức và điều
hành hoạt động chung của xã hội, thị tộc cũng đã có quyền lực và một hệ
thống quản lý công việc của thị tộc. Quyền lực trong chế độ cộng sản
nguyên thuỷ mới chỉ là quyền lực xã hội do toà xã hội tổ chức ra và phục
vụ cho lợi ích của cả cộng đồng.
Hệ thống quản lý các công việc của thị tộc bao gồm:
Hội đồng thị tộc là tổ chức quyền lực tổ chức quyền lực cao nhất của thị
tộc gồm những thành viên lớn tuổi của thị tộc. Hội đồng thị tộc quyết
2

định tất cả các vấn đề quan trọng của thị tộc như tổ chức lao động sản
xuất, giải quyết các tranh chấp nội bộ, tiến hành chiến tranh... Những
quyết định của Hội đồng thị tộc là bắt buộc đối với tất cả mọi người.
Hội đồng thị tộc bầu ra người đứng đầu thị tộc như tù trưởng, thủ lĩnh
quân sự để thực hiện quyền lực, quản lý các công việc chung. Những
người đứng đầu thị tộc có quyền lực rất lớn, quyền lực này được tạo trên
cơ sở uy tín cá nhân, họ có thể bị bãi miễn bất kỳ lúc nào nếu không còn
uy tín và không được tập thể cộng đồng ủng hộ nữa. Những tù trưởng và
thủ lĩnh quân sự không có bất kỳ một đặc quyền và đặc lợi nào so với các
thành viên khác trong thị tộc.
Như vậy, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đã tồn tại quyền lực, nhưng
quyền lực này không phải là quyền lực đặc biệt do một giai cấp hay một
cá nhân tổ chức ra, mà đó là quyền lực xã hội được tổ chức và thực hiện
trên cơ sở dân chủ thực sự, quyền lực này xuất phát từ xã hội và phục vụ
lợi ích của cả cộng đồng.
Cùng với tiến trình phát triển của xã hội, do sự thay đổi của các hình
thức hôn nhân với sự cấm đoán hôn nhân trong nội bộ thị tộc đã hình
thành nên chế độ hôn nhân ngoại tộc. Các thị tộc mà giữa chúng có quan
hệ hôn nhân với nhau đã hợp thành bào tộc. Cùng với hôn nhân, nhiều
yếu tố khác tác động đã làm cho một số bào tộc liên kết với nhau thành
bộ lạc và đến giai đoạn cuối của chế độ cộng sản nguyên thuỷ thì các liên
minh bộ lạc đã hình thành. Về cơ bản, tính chất của quyền lực, cách thức
tổ chức quyền lực trong bào tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc vẫn dựa trên cơ
sở những nguyên tắc tổ chức quyền lực trong xã hội thị tộc, tuy nhiên,
đến thời điểm này, ở mức độ nhất định, sự tập trung quyền lực đã cao
hơn.
Sự tan rã của tổ chức thị tộc và sự xuất hiện nhà nước
Xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa biết đến nhà nước, nhưng chính trong
lòng xã hội đó đã nảy sinh những tiền đề vật chất cho sự ra đời của nhà
nước. Những nguyên nhân làm chế độ xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã
đồng thời cũng là những nguyên nhân xuất hiện nhà nước. Đóng vai trò
quan trọng trong việc làm tan rã chế độ cộng sản nguyên thuỷ chuyển chế
độ cộng sản nguyên thuỷ lên một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn đó
là sự phân công lao động xã hội. Lịch sử xã hội cổ đại đã trải qua ba lần
phân công lao động xã hội, đó là: 1, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt; 2, thủ
công nghiệp tách khỏi nông nghiệp; 3, thương nghiệp xuất hiện.
Việc con người thuần dưỡng được động vật đã làm hình thành một
ngành nghề mới, ở những nơi có điều kiện tốt cho chăn nuôi những đàn
gia súc được phát triển đông đảo. Với sự phát triển mạnh nghề chăn nuôi
đã tách khỏi trồng trọt.
Sau lần phân công lao động đầu tiên, cả chăn nuôi và trồng trọt đều phát
triển với sự ứng dụng của chăn nuôi vào trồng trọt. Sản xuất phát triển
kéo theo nhu cầu về sức lao động, để đáp ứng nhu cầu này, thay vì việc
3

giết tù binh trong chiến tranh như trước kia, bây giờ tù binh đã được giữ
lại để biến thành nô lệ.
Như vậy, sau lần phân công lao động đầu tiên, xã hội đã có những xáo
trộn đáng kể, xuất hiện chế độ tư hữu, xã hội phân chia thành giai cấp chủ
nô và nô lệ. Sự xuất hiện chế độ tư hữu còn làm thay đổi đáng kể quan hệ
hôn nhân: hôn nhân một vợ một chồng đã thay thế hôn nhân đối ngẫu.
Chế độ phụ hệ thay cho chế độ mẫu hệ.
Việc tìm ra kim loại và chế tạo công cụ bằng kim loại tạo khả năng tăng
năng suất lao động. Nghề chế tạo kim loại, nghề dệt, nghề làm đồ gốm,
chế biến sản phẩm nông nghiệp.v.v... này càng phát triển. Điều này đã
dẫn đến việc thủ công nghiệp tách khỏi trồng trọt thành một nghề độc lập.
Hậu quả của lần phân công lao động thứ hai này đã làm xã hội hoá lực
lượng nô lệ. Quá trình phân hoá xã hội đẩy nhanh, sự phân biệt giàu
nghèo, mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc.
Với việc xuất hiện nhiều ngành nghề chuyên môn trong sản xuất đã làm
phát sinh nhu cầu trao đổi hàng hoá trong xã hội. Sự phát triển nền sản
xuất hàng hoá dẫn đến sự phát triển của thương nghiệp và thương nghiệp
đã tách ra thành một ngành hoạt động độc lập. Lần phân công lao động
này đã làm thay đổi sâu sắc xã hội, với sự ra đời của tầng lớp thương
nhân mặc dù họ là những người không trực tiếp tiến hành lao động sản
xuất nhưng lại chi phối toàn bộ đời sống sản xuất của xã hội, bắt những
người lao động, sản xuất lệ thuộc vào mình.
Qua ba lần phân công lao động xã hội đã làm cho nền kinh tế xã hội có
sự biến chuyển sâu sắc, sản phẩm làm ra ngày càng nhiều, xuất hiện sản
phẩm dư thừa, vì thế kéo theo hiện tượng chiếm của cải dư thừa làm của
riêng. Quá trình phân hoá tài sản làm xuất hiện chế độ tư hữu và kéo theo
là sự phân chia giai cấp trong xã hội.
Tất cả những yếu tố trên đã làm đảo lộn đời sống thị tộc, phá vỡ tính
khép kín của thị tộc. Tổ chức thị tộc với hệ thống quản lý trước đây trở
nên bất lực trước tình hình mới. Để điều hành xã hội mới cần phải có một
tổ chức mới khác về chất. Tổ chức đó phải do những điều kiện nội tại của
nó quy định, nó phải là công cụ quyền lực của giai cấp nắm ưu thế về
kinh tế và nhằm thực hiện sự thống trị giai cấp, dập tắt các xung đột giai
cấp, giữ cho các xung đột đó nằm trong vòng trật tự, đó chính là nhà
nước.
Như vậy, nhà nước xuất hiện trực tiếp từ sự tan rã của chế độ cộng sản
nguyên thuỷ. Tiền đề kinh tế cho sự xuất hiện nhà nước là sự xuất hiện
chế độ tư hữu về tài sản trong xã hội. Tiền đề kinh tế là cơ sở vật chất tạo
ra tiền đề xã hội cho sự ra đời của nhà nước - đó là sự phân chia xã hội
thành các giai cấp mà lợi ích cơ bản giữa các giai cấp và các tầng lớp này
là đối kháng với nhau đến mức không thể điều hoà được.
Ngoài các yếu tố chung nói trên, sự xuất hiện nhà nước ở các vùng và
của các dân tộc khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau do có các
4

điều kiện kinh tế, xã hội và ngoại cảnh khác nhau. Theo Ph. Ăngghen có
ba hình thức xuất hiện nhà nước điển hình.
1. Nhà nước Aten: Đây là hình thức nhà nước thuần tuý cổ điển nhất.
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Aten chủ yếu trên cơ sở
phân hoá nội bộ xã hội thị tộc do sự phát triển của kinh tế và sự xuất hiện
mâu thuẫn giai cấp đối kháng.
2. Nhà nước La Mã: Nhà nước này ra đời trên cơ sở kết quả đấu tranh
giữa giới bình dân chống lại giới quý tộc với chiến thắng của giới bình
dân.
3. Nhà nước Giéc Manh: Đây là hình thức nhà nước được thiết lập sau
chiến thắng của người Giéc Manh đối với đế quốc La Mã cổ đại. Nó ra
đời do nhu cầu phải thực hiện sự quản lý trên lãnh thổ La Mã mà người
Giéc Manh đã xâm chiếm được chứ không phải do đòi hỏi bức thiết của
cuộc đấu tranh giai cấp trong nội bộ xã hội của người Giéc Manh.
Ở các nước phương Đông, nhà nước xuất hiện khá sớm, khi chế độ tư
hữu và sự phân chia giai cấp trong xã hội chưa ở mức cao. Nguyên nhân
thúc đẩy sự ra đời của các nhà nước phương Đông là do nhu cầu trị thuỷ
và chống giặc ngoại xâm.
Ở Việt Nam, nhà nước xuất hiện và khoảng thiên niên kỷ 2 trước công
nguyên. Cũng như các nhà nước phương Đông khác, sự phân chia giai
cấp trong xã hội cổ Việt Nam chưa đến mức gay gắt. Trong bối cảnh xã
hội lúc bấy giờ, nhu cầu xây dựng, quản lý những công trình trị thuỷ đảm
bảo nền sản xuất nông nghiệp và tổ chức lực lượng chống giặc ngoại xâm
đã thúc đẩy quá trình liên kết các tộc người và hoàn thiện bộ máy quản lý.
Kết quả này đã cho ra đời nhà nước Việt Nam đầu tiên - Nhà nước Văn
lang của các Vua Hùng.
2. BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC
Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và là sự biểu hiện của sự
không thể điều hoà được của các mâu thuẫn giai cấp đối kháng. Nhà nước
là tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt.
Để làm rõ bản chất của nhà nước cần phải xác định nhà nước đó của ai?
Do giai cấp nào tổ chức nên và lãnh đạo? Phục vụ trước tiên cho lợi ích
của giai cấp nào?
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác được thể hiện dưới ba hình thức: kinh tế, chính trị và tư
tưởng. Trong ba quyền lực, quyền lực kinh tế đóng vai trò chủ đạo, là cơ
sở để đảm bảo cho sự thống trị giai cấp. Quyền lực kinh tế tạo ra cho chủ
sở hữu khả năng bắt những người khác phụ thuộc vào mình về mặt kinh
tế. Tuy nhiên, bản thân quyền lực kinh tế lại không có khả năng duy trì
quan hệ bóc lột, vì thế để bảo đảm cho quan hệ bóc lột, giai cấp nắm
quyền lực kinh tế phải thông qua quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị xét về mặt bản chất là bạo lực có tổ chức của một
5

giai cấp nhằm trấn áp các giai cấp khác trong xã hội. Thông qua nhà
nước, giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành chủ thể của quyền lực
chính trị. Nhờ nắm trong tay nhà nước, giai cấp thống trị đã tổ chức và
thực hiện quyền lực chính trị của mình, hợp pháp hoá ý chí của giai cấp
mình thành ý chí nhà nước và như vậy buộc các giai cấp khác phải tuân
theo trật tự phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị. Bằng cách đó giai
cấp thống trị đã thực hiện sự chuyên chính của giai cấp mình đối với các
giai cấp khác.
Để thực hiện sự chuyên chính giai cấp, giai cấp thống trị không đơn
thuần chỉ sử dụng bạo lực cưỡng chế mà còn thông qua sự tác động về tư
tưởng. Chính vì vậy, khi nắm trong tay quyền lực kinh tế và quyền lực
chính trị, giai cấp thống trị còn thông qua nhà nước xây dựng hệ tư tưởng
của giai cấp mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, buộc các giai
cấp khác phải lệ thuộc vào mình về mặt tư tưởng.
Như vậy, nhà nước là công cụ sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí của
giai cấp cầm quyền, bảo vệ trước tiên lợi ích của giai cấp thống trị trong
xã hội.
Các nhà nước tuy khác nhau về bản chất giai cấp, điều này đã được các
nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng: nhà nước là một
hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng trên một cơ sở kinh tế nhất định,
đó là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp
khác. Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I Lênin đã nhận định: ”nhà
nước là bộ máy để giai cấp này áp bức giai cấp khác, một bộ máy để duy
trì dưới sự thống trị của một giai cấp tất cả các giai cấp bị lệ thuộc khác”.
Khi xem xét bản chất của nhà nước, nếu chỉ đề cập đến bản chất giai cấp
của nhà nước là phiến diện, bởi nhà nước còn mang trong mình một vai
trò xã hội to lớn. Thực tiễn lịch sử đã chỉ ra rằng, một nhà nước không thể
tồn tại nếu nó chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến
lợi ích các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Vì vậy, ngoài tư cách là
công cụ bảo vệ, duy trì sự thống trị giai cấp, nhà nước còn là tổ chức
chính trị - xã hội rộng lớn, bảo đảm lợi ích chung của xã hội. Trên thực
tế, nhà nước nào cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong xã hội, bảo đảm cho xã hội được trật tự ổn
định và phát triển, thực hiện một số chức năng phù hợp với yêu cầu
chung của toàn xã hội và bảo đảm những lợi ích nhất định của các giai
cấp và giai tầng khác trong chừng mực những lợi ích đó không mâu thuẫn
gay gắt với lợi ích của giai cấp thống trị.
Qua những điều đã phân tích ở trên cho thấy rằng khi xác định bản chất
của nhà nước phải dựa trên cơ sở đánh giá cơ cấu của xã hội, quan hệ
giữa các giai cấp trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Trong mỗi hình thái
kinh tế - xã hội khác nhau, nhà nước có bản chất khác nhau.
Mặc dù có sự khác nhau về bản chất nhưng tất cả các nhà nước đều có
6

chung các dấu hiệu. Những dấu hiệu đó là:
+ Thứ nhất, nhà nước phân chia dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh
thổ.
Nếu trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tổ chức thị tộc tập hợp các
thành viên của mình theo dấu hiệu huyết thống thì nhà nước lại phân chia
dân cư theo các đơn vị hành chính lãnh thổ không phụ thuộc vào huyết
thống, nghề nghiệp hoặc giới tính. Việc phân chia này dẫn đến việc hình
thành các cơ quan quản lý trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ. Lãnh thổ
là dấu hiệu đặc trưng riêng có của nhà nước, nhà nước thực thi quyền lực
thống trị trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ. Nhà nước nào cũng có lãnh thổ
riêng, trên lãnh thổ đó được phân thành các đơn vị hành chính như tỉnh,
huyện, xã... Do có dấu hiệu lãnh thổ mà xuất hiện chế độ quốc tịch- chế
định quy định mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.
+ Thứ hai, nhà nước thiết lập quyền lực công.
Nhà nước là tổ chức công quyền thiết lập một quyền lực đặc biệt không
còn hoà nhập với dân cư như trong xã hội thị tộc mà “dường như” tách
rời và đứng lên trên xã hội. Quyền lực này mang tính chính trị, giai cấp,
được thực hiện bởi bộ máy cai trị, quân đội, toà án, cảnh sát... Như vậy,
để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, nhà nước có một tầng lớp
người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Lớp người này được tổ
chức thành các cơ quan nhà nước và hình thành một bộ máy thống trị có
sức mạnh cưỡng chế để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, bắt các giai
cấp, tầng lớp khác phải phục tùng theo ý chí của mình.
+ Thứ ba, nhà nước có chủ quyền quốc gia.
Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền. Chủ quyền quốc gia
mang nội dung chính trị - pháp lý, thể hiện quyền tự quyết của nhà nước
về mọi chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào bất kỳ một
yếu tố bên ngoài nào. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà
nước. Chủ quyền quốc gia có tính tối cao. Tính tối cao của chủ quyền nhà
nước thể hiện ở chỗ quyền lực của nhà nước phổ biến trên toàn bộ đất
nước đối với tất cả dân cư và các tổ chức xã hội. Dấu hiệu chủ quyền nhà
nước thể hiện sự độc lập, bình đẳng giữa các quốc gia với nhau không
phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ.
+ Thứ tư, nhà nước ban hành pháp luật và buộc mọi thành viên xã hội
phải thực hiện.
Nhà nước là người đại diện chính thống cho mọi thành viên trong xã hội,
để thực hiện được sự quản lý đối với các thành viên, nhà nước ban hành
pháp luật và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Tất cả các quy
định của nhà nước đối với mọi công dân được thể hiện trong pháp luật do
nhà nước ban hành. Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ, tác
động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau; nhà nước không thể thực hiện được
vai trò là người quản lý xã hội nếu không có pháp luật, ngược lại pháp
luật phải thông qua nhà nước để ra đời. Trong xã hội có nhà nước chỉ có
7

nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật.
+ Thứ năm, nhà nước quy định và tiến hành thu các loại thuế.
Để nuôi dưỡng bộ máy nhà nước và tiến hành các hoạt động quản lý đất
nước, mọi nhà nước đều quy định và tiến hành thu các loại thuế bắt buộc
đối với các dân cư của mình.
Trong xã hội có nhà nước không một thiết chế chính trị nào ngoài nhà
nước có quyền quy định về thuế và thu các loại thuế.
Từ những phân tích ở trên về nguồn gốc, bản chất và những dấu hiệu của
nhà nước, có thể đi đến một định nghĩa chung về nhà nước như sau:
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy
chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý xã hội
nhằm thể hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã
hội có giai cấp đối kháng. (của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa).

(Nhà nước, hiểu theo nghĩa pháp luật, là một tổ chức xã hội đặc biệt của
quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện
quyền lực chính trị của mình, nhằm mục đích điều khiển, chỉ huy toàn bộ
hoạt động của xã hội trong một quốc gia, trong đó chủ yếu để bảo vệ các
quyền lợi của lực lượng thống trị. Thực chất, nhà nước là sản phẩm của
cuộc đấu tranh giai cấp- Tham khảo)
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một
tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm
vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự
xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã
hội.

II.Vận dụng lý luận này trong quá trình xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1. Khái niệm nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền XHCN:
1.1. Nhà nước pháp quyền:

8

Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lí hay một hệ thống thể chế, nơi
mỗi người đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ
cho tới cơ quan công quyền. Nhà nước pháp quyền như vậy liên hệ chặt
chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ bậc của các quy phạm, tôn trọng sự phân
chia quyền lực và tôn trọng các quyền căn bản. Nhà nước pháp quyền là
nhà nước nơi những người được ủy giao trọng trách thông qua phiếu bầu
phải có trách nhiệm với những luật lệ mà họ ban ra.
1.2. Nhà nước pháp quyền XHCN:
Từ nhận thức lý luận, tiếp thu có chọn lọc các giá trị phổ biến của Nhà
nước pháp quyền nói chung và từ thực tiễn lãnh đạo quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua các văn kiện
Đại hội của Đảng, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quan điểm của Đảng ta: Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân;
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp; Nhà nước được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật, pháp luật giữ vị trí tối thượng trong
điều chỉnh các quan hệ xã hội; Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà
nước và công dân, thực hành dân chủ, tăng cường kỷ cương, kỷ luật; Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
Qua khảo sát, tìm hiểu vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm
kỳ khóa VII (tháng 01/1994) cho đến Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
9

lần thứ X, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với Văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI, có thể rút ra một số điểm mới được nêu trong Văn
kiện Đại hội XI của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam:
Thứ nhất, quan niệm về các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được thể hiện tại các văn kiện, nghị quyết
khác nhau của Đảng và trong các văn bản pháp luật của Nhà nước. Trong
Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản đó đã được khái quát một cách
cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) có ghi rõ:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà
nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà
nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà
nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của
nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát
của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm
quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi
hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự
phân công, phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương”.

10

So sánh với quan niệm về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được
nêu trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, có thể khẳng
định rằng, luận điểm được nêu trong Văn kiện Đại hội XI là luận điểm
thể hiện đầy đủ và tập trung nhất các đặc trưng cơ bản của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cái mới của luận điểm trên thể
hiện ở chỗ, Đảng ta đã nhấn mạnh rằng, chức năng của Nhà nước là phục
vụ nhân dân; khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Nhà nước với
nhân dân, thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng,
lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Hơn
nữa, Nhà nước còn phải có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và
trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền,
xâm phạm quyền dân chủ của công dân. Có thể coi đây là sự bổ sung
thêm một đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nhằm khẳng định bản chất dân chủ thực sự của Nhà nước ta.
Thứ hai, đối chiếu giữa Báo cáo chính trị tại các Đại hội IX, Đại hội X
với Báo cáo chính trị tại Đại hội XI, chúng ta thấy rằng, trong Báo cáo
chính trị tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ dành một mục nhỏ “1. Xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng” ở phần
“IX- Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế” để nói về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội X, vấn đề này
được đề cập tại mục 2 “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa” ở phần “XI- Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Còn trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội XI, Đảng ta đã dành hẳn một phần “XI- Đẩy
mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” để
chuyên bàn về vấn đề này. Điều đó cho thấy, trước hết, về mặt hình thức
trình bày, Đảng ta đã dành sự chú ý thỏa đáng và sự quan tâm sâu sắc hơn

11

đối với vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Thứ ba, đánh giá về thực tiễn quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa trong những năm qua, Văn kiện Đại hội XI đã ghi nhận:
“Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên”. Tuy nhiên, Đại hội XI
cũng thẳng thắn, nghiêm túc đánh giá, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm:
“Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu
phát triển kinh tế và quản lý đất nước”. Những hạn chế cụ thể được chỉ ra
trong Văn kiện Đại hội XI là: “Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều
hành, tổ chức thực thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ
quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng,
nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới của đất nước. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ
tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Năng lực dự
báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội
không nghiêm...”. Nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm trên
đây, như Văn kiện Đại hội XI đã chỉ ra, ngoài các nguyên nhân khách
quan, nhưng trực tiếp và quyết định nhất vẫn là các nguyên nhân chủ
quan, như công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nói chung, thực
tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng chưa đáp
ứng được yêu cầu; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể của công cuộc đổi
mới, trong đó có vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, còn hạn chế, thiếu thống nhất. “Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng,
quản lý, điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực và một số vấn đề
lớn chưa tập trung, kiên quyết, dứt điểm; kỷ luật, kỷ cương không

12

nghiêm. Tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu. Năng lực, phẩm chất của một
bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức còn bất cập”(9). Các
nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và khả thi chưa được xác định đầy đủ, rõ ràng
và chậm được triển khai trong thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Việc chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng như nguyên nhân của những hạn chế, khuyết điểm đó là một điểm
mới trong Văn kiện Đại hội XI cần được ghi nhận; bởi lẽ, trong các văn
kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề này hầu như chưa được đề cập đến.
Đây cũng chính là cơ sở khoa học, thực tiễn để Đảng ta đề ra những
nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp cơ bản cần triển khai nhằm đẩy mạnh quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
những năm tới.
2. Những giải pháp cụ thể cần triển khai thực hiện nhằm đẩy mạnh
công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.
Từ việc tập trung xác định rõ các đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của
việc xây dựng Nhà nước đó trong thời gian qua, trong Văn kiện Đại hội
XI, lần đầu tiên, Đảng ta xác định rõ những giải pháp cụ thể cần triển
khai thực hiện nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những giải pháp cụ thể gồm:
2.1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa
Trước tiên, phải nâng cao nhận thức về các đặc trưng cơ bản của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: không chỉ là Nhà nước của

13

nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, mà còn phải “bảo đảm Nhà nước ta
thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo”;
không chỉ là Nhà nước quản lý, điều hành theo pháp luật, mà còn phải
“nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương”; không chỉ là
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, mà còn phải
“nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để
bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện ba quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”; không chỉ là đề cao vai trò của pháp luật trong
Nhà nước pháp quyền, mà còn phải “tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện
tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc”. Điểm mới ở
đây là, cùng với yêu cầu nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội XI còn chỉ ra những
nhiệm vụ thiết thực, cụ thể nhằm từng bước hiện thực hóa việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
2.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước là khâu then chốt đảm
bảo sự thành công của việc xây dựng, sự vận hành có hiệu lực, hoạt động
có hiệu quả cao của Nhà nước pháp quyền xã hội hội nghĩa Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, Văn kiện Đại hội XI đã đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục
đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước:
Thứ nhất, “đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc
hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất...”. Muốn đạt được mục đích đó, công tác bầu cử đại
14

biểu Quốc hội cần có sự đổi mới, hoàn thiện về cơ chế để cử tri có thể lựa
chọn và bầu được những người đủ đức, đủ tài, xứng đáng trở thành đại
biểu của nhân dân trong Quốc hội. Thực tiễn công tác chuẩn bị bầu cử
Quốc hội khóa XIII đang đặt ra yêu cầu này. Vấn đề gia tăng tính dân
chủ, công khai, đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở trong các phiên
thảo luận và hoạt động chất vấn trên diễn đàn Quốc hội cũng phải được
chú trọng và tăng cường hơn nữa.
Thứ hai, “tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng
pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh
cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống...”.
Đây cũng đang là đòi hỏi cấp thiết của thực tiễn đời sống pháp luật, khi
mà các luật, pháp lệnh của Nhà nước cứ phải thường xuyên sửa đổi, bổ
sung. Để nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật thì cần phải
tăng cường hoạt động khảo sát thực tiễn các quan hệ xã hội đang cần có
pháp luật điều chỉnh; làm thật tốt công tác dự báo pháp luật.
Thứ ba, “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ
tịch nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt
Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang;
quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp”. Từ sự nghiên cứu đó, có lẽ, việc sửa đổi, bổ sung
Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) theo hướng
mở rộng, tăng thêm thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch nước là một
giải pháp cần được tính đến.
Thứ tư, “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng
xây dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh;
có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và
pháp quyền trong điều hành của Chính phủ...”. Chính phủ là cơ quan
15

hành pháp nên có vai trò quan trọng hàng đầu trong hoạt động của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Năng lực của chính phủ, của từng
thành viên chính phủ trong việc dự báo, ứng phó, giải quyết nhanh chóng,
kịp thời, đúng pháp luật những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
an ninh, quốc phòng... mới nảy sinh sẽ là điểm mấu chốt trong thực hiện
giải pháp này.
Thứ năm, “đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính;
giảm mạnh và bãi bỏ các thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và
công dân...”. Thực tế cho thấy, dù đã thúc đẩy mạnh mẽ, quyết liệt tiến
trình cải cách hành chính, trong đó có các thủ tục hành chính; song, kết
quả đạt được vẫn chưa đáp ứng sự mong đợi của nhân dân. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã và đang đặt ra đòi
hỏi phải chuyển hoàn toàn từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính
vì dân, phục vụ nhân dân.
Thứ sáu, “đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý,
tôn trọng và bảo vệ quyền con người...”. Đối với nội dung này, Văn kiện
Đại hội XI nêu ra một loạt vấn đề cần tập trung làm tốt hơn trong thời
gian tới, như hoàn thiện tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; đảm bảo
tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp
luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp; đổi mới hệ thống tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra; nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ
cán bộ tư pháp...
Thứ bảy, “tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa
phương...”; trong đó, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của hội
đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp phải là vấn đề được chú trọng
16

hàng đầu; đồng thời, tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức
hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
Thực ra, những giải pháp cụ thể trên đây đã từng được Đảng ta đề cập
trong các Văn kiện Đại hội IX và X, nhưng chúng không gắn liền với vấn
đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Việc đưa tất cả các
giải pháp trên tập trung vào phần “XI- Đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trong Văn kiện Đại hội XI cho
thấy, Đảng ta quyết tâm lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, mạnh mẽ việc đổi
mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước - một trong những nhân tố
đảm bảo cho việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
2.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới
Đội ngũ cán bộ, công chức là khâu chủ yếu thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phải được
đội ngũ cán bộ, công chức triển khai trên thực tế thì mới có thể đi vào
trong đời sống xã hội. Họ là những người trực tiếp chuyển từ “pháp luật
trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động” trong Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới vừa là
nhiệm vụ, vừa là giải pháp hết sức quan trọng của quá trình đẩy mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Văn kiện Đại hội
XI nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về
bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều
hành, quản lý nhà nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích
cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn
17

những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với
nhân dân”. Trong các văn kiện, nghị quyết trước đây, vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức cũng đã được Đảng ta đề cập nhiều lần, nhưng
còn ít gắn với nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Còn trong Văn kiện Đại hội XI, việc tách riêng vấn đề này và đặt nó là
một trong bốn nội dung gắn liền với việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam chứng tỏ rằng, Đảng ta đã và
đang hết sức coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong
tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí
Nhận thức một cách sâu sắc những tác hại nghiêm trọng mà nạn tham
nhũng gây ra đối với sự tồn vong của một chính thể, đang thực sự là nguy
cơ đối với công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã phát động cuộc chiến chống tham nhũng. Vấn đề đấu
tranh chống tham nhũng đã được Đảng ta đề cập trong các văn kiện Đại
hội IX và X, nhưng không trực tiếp gắn liền với vấn đề xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nay, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng
ta coi việc tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí là một trong những nội dung không thể thiếu của
việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đây cũng là một điểm mới và hoàn toàn hợp lý; bởi lẽ, tham nhũng
được coi là một thứ “quốc nạn”, một thứ “giặc nội xâm”, gây phương hại
đến tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. “Phòng
và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp
bách, vừa lâu dài” trong quá trình đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

18

Tóm lại, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
chủ trương, đường lối có tính chiến lược của Đảng và Nhà nước ta, xuất
phát từ đòi hỏi tất yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển
đất nước. Nhận thức, quan điểm của Đảng ta về các đặc trưng cơ bản, về
các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam được hình thành, phát triển và hoàn thiện dần
qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội XI chứa
đựng nhiều điểm mới về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam cả trên phương diện hình thức trình bày, cách diễn đạt, cả
trên phương diện nội dung các đặc trưng cơ bản, các nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu nhằm đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, những nội dung liên quan đến
vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nêu
trong Văn kiện Đại hội XI là sự thể hiện bước phát triển mới trong quan
điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

KẾT LUẬN
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân là quá trình lâu dài, đòi hỏi phải thực hiện đổi mới
đồng bộ trên các mặt hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp;đổi mới tổ
chức bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ v.v... Chính vì vậy,
ngoài việc xây dựng chiến lược, xác định chủ trương, giải pháp đúng đắn
phải có kế hoạch và bước đi thích hợp. Đồng thời điều quan trọng nhất là
thống nhất nhận thức và biến thành quyết tâm thực hiện trong toàn bộ hệ
thống chính trị. Chỉ trên cơ sở đó mới từng bước xây dựng thành công
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do
dân, vì dân.

19

 
*******************
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131-132.
(2) Hiến pháp Việt Nam (năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Nghị quyết về
việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992). Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.178.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.45.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.85-86.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.131.
(6) Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125-126.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.159.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.171-172.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.179-180.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.246-247.
(11) Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd., tr.248-251.

20

Tải về bản full

1. Các học thuyết phi Mác-xít về nguồn gốc của Nhà nước:

Thuyết thần quyền

Cho rằng thượng đế chính là người sắp đặt trật tự xã hội, thượng đế đã sáng tạo ra nhà nước nhằm bảo vệ trật tự chung, nhà nước là một sản phẩm của thượng đế.

Thuyết gia trưởng

Cho rằng nhà nước xuất hiện chính là kết quả sự phát triển của gia đình và quyền gia trưởng, thực chất nhà nước chính là mô hình của một gia tộc mở rộng và quyền lực nhà nước chính là từ quyền gia trưởng được nâng cao lên – hình thức tổ chức tự nhiên của xã hội loài người.

Thuyết bạo lực

Cho rằng nhà nước xuất hiện trực tiếp từ các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm đất, là việc sử dụng bạo lực của thị tộc đối với thị tộc khác mà kết quả là thị tộc chiến thắng đặt ra một hệ thống cơ quan đặc biệt – nhà nước – để nô dịch kẻ chiến bại.

Thuyết tâm lý

Cho rằng nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thủy luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ,…

Thuyết “khế ước xã hội”

Cho rằng sự ra đời của nhà nước là sản phẩm của một khế ước xã hội được ký kết trước hết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước.

Chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân, trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình , các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ mất hiệu lực và nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kế khế ước mới.

Sự khác biệt cơ bản giữa quan điểm Mác xít và quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước

Các học thuyết phi Mác xít bàn về nguồn gốc và bản chất nhà nước

26/10/202126/10/2021 0 Comments Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nhà nước

Nhà nước là một hiện tượng xã hội phức tạp, liên quan chặt chẽ tới lợi ích của giai cấp, tầng lợp và dân tộc. Để nhận thức đúng đắn hiện tượng nhà nước cần phải làm sáng tỏ hàng loạt vấn đề liên quan như: nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản chất của nhà nước.v.v.

Trong lịch sử chính trị – pháp lý, ngay từ thời kỳ cổ đại, trung đại và cận đại đã có nhiều nhà tư tưởng đề cập tới vấn đề nguồn gốc của nhà nước. Xuất phát từ các góc độ khác nhau, các nhà tư tưởng trong lịch sử đã có những lý giải khác nhau về vấn đề nguồn gốc của nhà nước.

Những nhà tư tưởng theo thuyết thần học (đại diện thời trung cổ Ph. Ácvin, thời kỳ tư sản có: Masiten, Koct…) cho rằng: Thượng đế là người sắp đặt mọi trật tự trong xã hội, nhà nước là do thượng đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung xã hội. Nhà nước là do đấng tối cao sinh ra, là sự thể hiện ý chí của chúa trời. Do vậy, quyền lực của nhà nước là hiện thân quyền lực của chúa, vì thế nó vĩnh cửu.

Những người theo thuyết gia trưởng (Arixtôt, philmer, Mikhailốp, Merđoóc.v.v…) cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người, vì vậy, cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội, quyền lực nhà nước, về thực chất cũng giống như quyền lực của người đứng đầu trong gia đình, nó chỉ là sự tiếp tục của quyền lực của người gia trưởng trong gia đình.

Vào thế kỷ XVI, XVII, XVIII, cùng với trào lưu cách mạng tư sản, trong lịch sử tư tưởng chính trị — pháp lý đã xuất hiện nhiều quan điểm mới về nhà nước nói chung và về nguồn gốc của nó. Thuyết khế ước xã hội được hình thành trong điều kiện như vậy.

Thuyết khế ước xã hội (đại diện tiêu biểu có: Grooxi, Xpirôza, gốp, Lôre, Rút xô .v.v…) cho rằng nhà nước ra đời là kết quả của một bản hợp đồng (khế ước) được ký kết giữa các thành viên sống trong trạng thái tự nhiên không có nhà nước. Về bản chất, nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên sống trong xã hội, lợi ích của mỗi thành viên đều được nhà nước ghi nhận và bảo vệ.

Với sự ra đời của thuyết khế ước xã hội đánh dấu một bước tiến trong nhận thức của con người về nguồn gốc nhà nước, đó là một cú đánh mạnh vào thành trì xã hội phong kiến, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán của chế độ phong kiến. Theo học thuyết, chủ quyền trong nhà nước thuộc về nhân dân, và trong trường hợp nhà nước không làm tròn vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì khế ước sẽ bị mất hiệu lực, nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới. Về mặt lịch sử, thuyết khế ước xã hội về nguồn gốc nhà nước có tính cách mạng và giá trị lịch sử to lớn, nó chứa đựng những yếu tố tiến bộ xã hội, coi nhà nước và quyền lực nhà nước là sản phẩm của sự vận động xã hội loài người. Tuy nhiên, thuyết khế ước xã hội vẫn có những hạn chế nhất định, về căn bản các nhà tư tưởng vẫn đứng trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa duy tâm để giải thích sự xuất hiện của nhà nước, bản chất của nhà nước và sự thay thế nhà nước. Nó chưa lý giải được nguồn gốc vật chất và bản chất giai cấp của nhà nước.

Ngày nay, trước những căn cứ khoa học và sự thật lịch sử, ngày càng có nhiều nhà tư tưởng tư sản thừa nhận nhà nước là sản phẩm của đấu trang giai cấp, là tổ chức quyền lực của xã hội có giai cấp, nhưng mặt khác họ vẫn không chịu thừa nhận bản chất giai cấp của nhà nước mà coi nhà nước vẫn là công cụ đứng ngoài bản chất giai cấp, không mang tính giai cấp, là cơ quan trọng tài để điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Vì thế, trong lịch sử tư tưởng chính trị – pháp lý hiện một số học thuyết khác của các nhà tư tưởng tư sản về nguồn gốc nhà nước như : thuyết bạo lực, thuyết tâm lý xã hội. Thuyết bạo lực cho rằng: nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của thị tộ này với thị tộc khác, thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy đặc biệt (nhà nước) để nô dịch thị tộc chiến bại (đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là Gumplôvích, E. Đuyrinh, Kauxky).

Thuyết tâm lý lại cho rằng: nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của con người nguyên thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sỹ… Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những siêu nhân có sự mạng lãnh đạo xã hội (đại diện cho những nhà tư tưởng theo học thuyết này là L.Petơrazitki, Phơređơ…).

Nhìn chung, tất cả các quan điểm trên hoặc do hạn chế về mặt lịch sử, hoặc do nhận thức còn thấp kém, hoặc do bị chi phối bởi lợi ích của giai cấp đã giải thích sai lệch nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước. Các học thuyết đều gặp nhau ở điểm chung là xem xét nhà nước trong sự cô lập với những điều kiện chi phối nó, đặc biệt là không gắn nó với điều kiện vật chất đã sản sinh ra nó. Chính vì vậy, họ đều cho rằng nhà nước là vĩnh hằng, là của tất cả mọi người, không mang bản chất giai cấp, là công cụ để duy trì trật tự xã hội trong tình trạng ổn định, pháp triển và phồn vinh.

Related

03(106)/2017

Sự khác biệt cơ bản giữa quan điểm Mác xít và quan điểm phi Mác xít về nguồn gốc nhà nước

Mục lục

  • 0.Dẫn nhập
  • 1.Thuyết thần quyền
  • 2.Thuyết quyền gia trưởng
  • 3.Thuyết khế ước xã hội
  • 4.Thuyết bạo lực
  • 5.Thuyết Marx– Lenin về nguồn gốc nhà nước
  • 6.Tài liệu tham khảo

Mục lục

  • 1 Nguồn gốc
    • 1.1 Sự ra đời của nhà nước
    • 1.2 Nguyên nhân trực tiếp
    • 1.3 Hình thức xuất hiện
  • 2 Bản chất giai cấp
  • 3 Đặc trưng
    • 3.1 Quản lý dân cư theo lãnh thổ
    • 3.2 Thiết lập quyền lực công cộng
    • 3.3 Hệ thống thuế khóa
  • 4 Chức năng
    • 4.1 Thống trị và xã hội
    • 4.2 Đối nội và đối ngoại
  • 5 Kiểu nhà nước
    • 5.1 Nhà nước Chiếm hữu nô lệ
    • 5.2 Nhà nước Phong kiến
    • 5.3 Nhà nước Tư sản
    • 5.4 Chuyên chính vô sản
    • 5.5 Nhà nước vô sản
  • 6 Nhà nước xã hội chủ nghĩa
    • 6.1 Bản chất, chức năng
    • 6.2 Nhiệm vụ
  • 7 Tư tưởng Hồ Chí Minh
    • 7.1 Nhà nước nhân dân
    • 7.2 Nhà nước Pháp quyền
    • 7.3 Đội ngũ công bộc
  • 8 Tham khảo
  • 9 Chú thích

Nhà nước là gì?

Nhà nước là một tổ chức xuất hiện và gắn liền với sự ra đời của giai cấp, nhà nước là cơ quan nắm giữ quyền lực, chính trị của xã hội quyết định những vấn đề trọng yếu của đất nước và thực hiện điều hành, vận hành hoạt động của nhà nước của xã hội.

Nhà nước sẽ có vùng lãnh thổ nhất định, nhà nước sẽ tổ chức ra một bộ máy chính quyền nắm giữ mọi quyền lực của đất nước, thiết lập các chính sách chính trị- xã hội, ban hành và yêu cầu mọi người dân thực hiện pháp luật, điều tiết tất cả các hoạt động của đất nước.

Nhà nước thường được thiết lập thành một bộ máy bao gồm các cơ quan thực hiện các nhiệm vụ chuyên trách trong các lĩnh vực như các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp tức cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

Nhà nước là tổ chức duy nhất mang tính chất quyền lực nhà nước, đây chính là đặc điểm cơ bản để có thể nhận diện nhà nước với các tổ chức xã hội khác.

Về phương diện bản chất, Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, chăm lo các lợi ích chung cho sự phát triển của xã hội phù hợp với lợi ích giai cấp mình.

Về phương diện chính trị – hành chính, Nhà nước là một bộ phận trung tâm của hệ thống chính trị, là chủ thể duy nhất nắm giữ quyền quản lý nhà nước trên toàn xã hội, phân biệt với các tổ chức khác trong xã hội qua các đặc điểm:

– Nhà nước có chủ quyền quốc gia. Nhà nước là đại diện chính thức cho ý chí và nguyện vọng của toàn dân, là đại diện chính thức của toàn xã hội, là chủ thể của luật quốc tế;

– Nhà nước tổ chức dân cư theo các đơn vị hành chính – lãnh thổ, không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hay giới tính. Nhà nước thực hiện việc quản lý thống nhất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội;

– Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền ban hành hoặc công nhận các quy tắc xử sự chung được gọi là pháp luật. Pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc công nhận có giá trị áp dụng bắt buộc đối với tất cả mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân;

– Nhà nước có bộ máy cưỡng chế, bao gồm lực lượng cảnh sát, quân đội, nhà tù, tòa án,… làm nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ chế độ;

– Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền phát hành tiền và thu các loại thuế.