Tại sao bảo vệ To quốc XHCN là tất yếu khách quan

Quan điểm của hồ chí minh về bảo vệ tổ quốc

  • docx
  • 23 trang
MỤC LỤC
A. CHỦ TỊCH HÒ CHÍ MINH ĐÃ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO
HỌC THUYẾT BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA LÊ-NIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ
THỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC Ở VIỆT NAM.............................................................3
I. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc của Lênin.........................................................3
1]

Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu, khách quan.............................3

2] Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn
dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động.......4
3] Bảo vệ Tổ quốc XHCN, là phải thường xuyên tăng cường tiềm lực
quốc phòng gắn với phát triển kinh tế - xã hội..............................................5
4]
II.
1]

Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vê Tổ quốc XHCN.5
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.................7
Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là tất yếu khách quan.....................7

2] Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và CNXH, là nghĩa vụ và
trách nhiệm của mọi công dân........................................................................7
3] Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả
nước, kết hợp với sức mạnh thời đại..............................................................8
4] Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam XHCN.......................................................................................................8
III. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học
thuyết bảo vệ Tổ quốc của Lê-nin vào điều kiện cụ thể bảo vệ Tổ quốc ở
Việt nam...............................................................................................................9
1]

Nội dung 1:...............................................................................................9

2]

Nội dung 2:...............................................................................................9

3]

Nội dung 3:.............................................................................................12

4]

Nội dung 4:.............................................................................................12

B. Ý NGHĨA GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ
QUỐC TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY..........................................................13

1

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANND

An ninh nhân dân

CAND

Công an nhân dân

CNCS

Chủ nghĩa cộng sản

CNĐQ

Chủ nghĩa đế quốc

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

LLVT

Lực lượng vũ trang

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

QĐND

Quân đội nhân dân

QPTD

Quốc phòng toàn dân

2

A. CHỦ TỊCH HÒ CHÍ MINH ĐÃ VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO
HỌC THUYẾT BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA LÊ-NIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ
THỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC Ở VIỆT NAM
I.

Học thuyết bảo vệ Tổ quốc của Lênin
Tổ quốc bao giờ cũng gắn với nhà nước và giai cấp thống trị xã hội.Vấn đề
Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp nào không có Tổ quốc. Theo nghĩa đó mà C.
Mác - Ăng-ghen khẳng định: Dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân không
có Tổ quốc. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C.Mác, Ăng-ghen sống, giai cấp
vô sản chưa có Tổ quốc nên vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã chưa đặt ra một cách trực
tiếp. Bài học kinh nghiệm của công xã Pari có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
bảo vệ thành quả cách mạng, sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền nhưng mới
chỉ là ý kiến ban đầu về bảo vệ Tổ quốc XHCN.C.Mác và Ăng-ghen chưa đề cập
đến vấn đề bảo vệ một hoặc một số nước xã hội chủ nghĩa tồn tại bên cạnh các
nước tư bản.
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của Lênin là một cống hiến
mới của Lênin vào kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác, đáp ứng trực tiếp nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc XHCN đang đặt ra trực tiếp ở nước Nga Xô Viết. Nội dung học
thuyết gồm những vấn đề sau:

1] Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu, khách quan
o Xuất phát từ yêu cầu bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp công nhân. Trong
điều kiện giai cấp tư sản nắm chính quyền, C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng,
giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, khi ấy chính giai cấp
công nhân là người đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công
của bọn phản cách mạng. Ngay sau khi Cách mạng tháng 10 Nga thành công,
CNĐQ tìm mọi cách tiêu diệt Nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Lênin đã
chứng minh tính tất yếu khách quan phải bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp
vô sản chống lại sự tấn công vũ trang của Nhà nước Tư bản, đế quốc. Bởi vì bản
chất của CNĐQ là xâm lược phải ngăn chặn mưu đồ của chúng.
o Xuất phát từ quy luật xây dựng CNXH phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN.
V.l.Lênin là người có công đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học
thuyết về bảo vệ Tổ quốc XHCN trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Người khẳng
định: Kể từ ngày 25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo
vệ Tổ quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến tranh giữ
nước mà chúng ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ CNXH với tư cách là Tổ quốc.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu

hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới - xã hội, XHCN. Cùng với nhiệm vụ xây dựng CNXH, nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc XHCN cũng được đặt ra một cách trực tiếp, nó trở thành nhiệm vụ
chiến lược của các nước XHCN, hai nhiệm vụ chiến lược này gắn bó hữu cơ với
nhau trong suốt quá trình cách mạng XHCN. Cống hiến quan trọng của Lênin ở
chỗ lần đầu tiên làm sáng tỏ mục tiêu bảo vệ Tổ quốc XHCN: bảo vệ Tổ quốc bao
giờ cũng gắn với bảo vệ chế độ Bảo vệ XHCN với tính cách là bảo vệ tổ quốc.
o Xuất phát từ quy luật phát triển không đều của CNĐQ. Ngay từ những năm cuối
thế kỉ XIX, V.l.Lênin đã chỉ ra, do quy luật phát triển không đều của CNĐQ mà
CNXH có thể giành thắng lợi không đồng thời ở các nước. Do đó, trong suốt thời
kì quá độ từ CNTB lên CNCS trên phạm vi thế giới, CNXH và CNTB là hai chế
độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt.
o Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới. Sự
thắng lợi của cách mạng XHCN, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về
mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị
thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động
và CNTB bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp
công nhân.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc XHCN xuất hiện, nhân dân
các nước XHCN phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành động lật đổ,
xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt
nước Nga Xô viết.
Từ khi CNXH phát triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng
quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn
thất của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước XHCN
những bài học đắt giá rằng: xây dựng CNXH phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Thực tiễn trên đây một lần nữa đã chứng minh cho luận điểm của
V.l.Lênin rằng: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính quyền còn khó
khăn hơn. Lênin nhấn mạnh: Nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc XHCN phải tiến hành
ngay khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, kéo dài đến hết thời kỳ quá độ
cho đến khi nào không còn sự phản kháng của giai cấp Tư bản - đế quốc.
2] Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc,
toàn thể giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao động
Trong những năm đầu của chính quyền Xô viết, Lênin trực tiếp lãnh đạo xây dựng
đất nước, chống lại sự can thiệp của các nước đế quốc, tư bản và tiến hành nội
chiến cách mạng. Đó là những năm tháng cực kỳ khó khăn, gian khổ. Người chỉ
rõ: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân,
của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp vô sản thế giới có

nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Người nhắc nhở mọi người
phải cảnh giác đánh giá đúng kẻ thù, tuyệt đối không chủ quan Phải có thái độ
nghiêm túc đối với quốc phòng. Người luôn lạc quan tin tưởng ở sức mạnh bảo
vệ Tổ quốc của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Người nói: Không bao
giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân và nông dân
đã biết, đã cảm và trông thấy họ bảo vệ chính quyền của mình, chính quyền Xô
viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi
thắng lợi sẽ bảo đảm cho họ, cũng như con cái họ, có khả năng hưởng thụ mọi
thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người.
3] Bảo vệ Tổ quốc XHCN, là phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng
gắn với phát triển kinh tế - xã hội
Học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc
XHCN là sự nghiệp thiêng liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có
ý nghĩa quốc tế sâu sắc, sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và
kiên quyết. Người chỉ rõ bảo vệ Tổ quốc phải thường xuyên tăng cường tiềm lực
quốc phòng, vì bản chất CNĐQ là xâm lược, phải ngăn chặn mưu đồ xâm lược của
chúng. Kẻ thù tiến hành chiến tranh xâm lược, muốn đánh bại chúng, Nhà nước
XHCN phải có tiềm lực quốc phòng cần thiết, Lê-nin yêu cầu: Phải có thái độ
nghiêm túc đối với quốc phòng, tiềm lực quốc phòng phải luôn được chuẩn bị,
phải cảnh giác, đánh giá đúng đắn so sánh lực lượng ta và địch, Người viết: Điều
nguy hiểm nhất là đánh giá thấp kẻ thù và tự ru ngủ với tư tưởng cho rằng chúng ta
là những kẻ mạnh dạn. Đó là điều có thể dẫn tới thất bại trong chiến tranh.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng phải luôn gắn với phát triển kinh tế, chính trị - xã
hội. Vì các lĩnh vực của đời sống xã hội có quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, tạo
điều kiện cùng nhau thực hiện mục tiêu của cách mạng. Lê-nin viết: Mối liên hệ
giữa tổ chức quân sự của một nước với toàn bộ chế độ kinh tế và văn hóa của nước
ấy chưa bao giờ lại hết sức chặt chẽ như ngày nay. Lê-nin đã đưa ra nhiều biện
pháp để bảo vệ Tổ quốc như: Củng cố chính quyền Xô Viết các cấp; bài trừ nội
phản, tiêu diệt bọn bạch vệ; đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hóa, khoa học kỹ
thuật, vận dụng đường lối đối ngoại khôn khéo, kiên quyết về nguyên tắc, mềm
dẻo về sách lược, triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù; Hết sức chăm
lo xây dựng quân đội kiểu mới. Lênin cùng Đảng Bôn-Sê-Vích Nga lãnh đạo nhân
dân, tranh thủ thời gian hoà bình, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng
bước biến các tiềm lực thành sức mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
4] Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vê Tổ quốc XHCN
Lênin chỉ ra rằng: Đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc. Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng kiến

để lôi kéo quần chúng và phải có đội ngũ Đảng viên gương mẫu, hi sinh, vì Tổ
quốc, vì nhân dân. Trong quân đội, chế độ chính uỷ được thực hiện, cán bộ chính
trị được lấy từ những đại biểu ưu tú của công nhân, thực chất đó là người đại diện
của Đảng, để thực hiên sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội.
Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã
hội, các đoàn thể nhân dân lao động nhằm bảo vệ an ninh đất nước. Sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh bảo vệ vững
chắc Tổ quốc XHCN.
Ý nghĩa:
Học thuyết Mác - Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN mang tính cách mạng và khoa
học sâu sắc. Đó là một trong các cơ sở lý luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ
trương, đường lối chiến lược xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực
lượng vũ trang và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Học thuyết ấy đến nay vẫn còn nguyên
giá trị. Chúng ta nắm vững những nội dung cơ bản đó, vận dụng sáng tạo và chỉ
đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong gia đoạn mới.
Đồng thời kiên quyết đấu tranh chống lại mọi sự xuyên tạc, bôi nho của kẻ thù,
bảo vệ và phát triển sáng tạo những nội dung đó trong điều kiện lịch sử mới.
Thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN từ sau Cách mạng Tháng Mười ở các
nước XHCN đã khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết
V.I. Lê-nin về bảo vệ Tổ quốc XHCN.Những tư tưởng cơ bản trong học thuyết của
V.I. Lê-nin về bảo vệ Tổ quốc XHCN không những có giá trị lịch sử, mà còn có ý
nghĩa hiện thực tiếp tục chỉ đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Trung thành và vận dụng, phát triển sáng tạo học thuyết của V.I. Lê-nin về bảo vệ
Tổ quốc XHCN, trong quá trình lãnh đạo công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN trên
miền Bắc từ năm 1954 và trên cả nước từ sau mùa Xuân 1975, Đảng ta đã đề ra
đường lối chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN đúng đắn, sáng tạo và đã
triển khai tổ chức thực hiện đem lại những thành tựu to lớn, toàn diện, bảo đảm
cho Tổ quốc Việt Nam XHCN được bảo vệ vững chắc.
Trong giai đoạn hiện nay, công cuộc bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN tiếp tục
diễn ra trong bối cảnh mới: Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện vẫn đứng trước nhiều
khó khăn, thách thức. So với 10 năm trước, tình hình thế giới và khu vực đã có
nhiều thay đổi sâu sắc, có những diễn biến phức tạp mới Ở trong nước, sự
nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh kết quả, thành tựu đã đạt
được, vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, làm xuất hiện những vấn đề phức tạp
mới ảnh hưởng tới việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Trong những điều kiện đó, chúng ta phải tiếp tục trung thành, vận dụng và phát
triển sáng tạo học thuyết của V.I. Lê-nin về bảo vệ Tổ quốc XHCN phù hợp với
điều kiện mới. Phải tiếp tục khẳng định những vấn đề rất cơ bản về mục tiêu,
nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ

XHCN; kết hợp phương thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh phi vũ trang để bảo
vệ Tổ quốc; tổ chức và động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tạo nên sức
mạnh tổng hợp để bảo vệ Tổ quốc. Làm sao cho kinh tế phải vững, quốc phòng
phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả
dân tộc là một khối đoàn kết thống nhất. Phát huy sức mạnh vật chất và sức mạnh
tinh thần, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh của truyền thống và
hiện đại; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
theo tư duy mới. Chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và ngày
càng hiện đại; xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng - an ninh, xây dựng khu
vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc. Chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, đặc biệt là xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở
nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang
nhân dân. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò tổ chức, quản lý,
điều hành của Nhà nước XHCN, của các tổ chức chính trị - xã hội và tính tích cực
chính trị, tình cảm, trách nhiệm và nghĩa vụ công dân của mọi người dân Việt Nam
yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, cả người Việt Nam ở trong nước và người Việt
Nam đang định cư, sinh sống và làm việc ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc
trong công cuộc xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong giai đoạn mới, biến những tư tưởng của V.I. Lê-nin về bảo vệ Tổ
quốc XHCN thành sức mạnh hiện thực trên đất nước ta.
II.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác-Lênin về bảo vệ Tổ quốc XHCN vào tình hình cụ thể Việt Nam. Tư
tưởng của Người là:
1] Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là tất yếu khách quan
Tính tất yếu khách quan bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN được Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: Các vua hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau
giữ lấy nước. Ý chí giữ nước của Người rất sâu sắc, kiên quyết. Trong lời kêu gọi
Toàn quốc kháng chiến đêm ngày 19/12/1946 Người nói: Chúng ta thà hi sinh tất
cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Giờ cứu
nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt cuối cùng để giữ gìn đất nước
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, Đảng
phái, dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!
Ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực dân,
đế quốc và bọn phả động các loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta đề ra
nhiều biện pháp thiết thực cụ thể để giữ vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho
kháng chiến lâu dài.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng đinh:
Không có gì quý hơn độc lập tự do. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta,
thì ta còn chiến đấu quét sạch nó đi. Trước khi đi xa, trong lời di chúc cuối cùng
Người căn dặn: Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể còn kéo dài. Đồng
bào ta có thể phải hi sinh nhiều của, nhiều người.Dù sao chúng ta cũng phải quyết
tâm đánh thắng giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, Người chỉ có một ham muốn tột bậc là
dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt trong
cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
2] Mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và CNXH, là nghĩa vụ và trách
nhiệm của mọi công dân
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung
giai cấp và nội dung thời đại.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi công dân Việt
Nam. Trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 Người khẳng định: Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để
giữ vững quyền tự do độc lập ấy. Khi Pháp trở lại xâm lược nước ta Người kêu
gọi toàn quốc đứng lên kháng chiến ...hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp đê cứu Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Người kêu gọi nhân dân cả nước
quyết tâm chiến đâu thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
3] Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết
hợp với sức mạnh thời đại
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán quan điểm: Phát huy sức mạnh tổng hợp
trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Sức mạnh tổng hợp là sức mạnh của toàn
dân tộc, toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến
cơ sở, là sức mạnh của các nhân tố chính tri, quân sự, kinh tế, an ninh, ngoại giao,
văn hoá xã hội, sức mạnh truyền thống với sức mạnh hiên đại, sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại. Trong sức mạnh tổng hợp đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng sức mạnh nhân dân, sức mạnh lòng dân. Người khẳng định, phải dựa vào
lực lượng của dân, tinh thần của dân, toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng, quyết
không làm nô lệ; chỉ có một ý chí: quyết không chịu mất nước; chỉ có một mục
đích: quyết kháng chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập Tổ quốc. Khi nói về
sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, đồng bào ta Người khẳng định: sự đồng
tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung
hãn, xảo quyệt đến mức nào đụng đầu vào bức tường đó, chúng đều thất bại.
So sánh về sức mạnh giữa chúng ta với quân xâm lược, trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, Người phân tích: Chúng ta có chính nghĩa, có sức mạnh đoàn kết toàn
dân từ Bắc đến Nam, có truyền thống đấu tranh bất khuất, lại có sự đồng tình ủng
hộ to lớn của các nước XHCN anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, chúng ta
nhất định thắng. Để bảo vệ Tổ quốc XHCN Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
xây dựng và củng cố nền QPTD, ANND, xây dựng QĐND coi đó là lực lượng chủ
chốt để bảo vệ Tổ quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày
càng hùng mạnh, sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ
công cuộc xây dựng CNXH.
4] Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN
Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải do Đảng lãnh đạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo toàn dân, ra sức củng cố
và xây dựng miền Bắc tiến dần lên CNXH, đồng thời tiếp tục đấu tranh để
thống nhất nước nhà, trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà bình,
góp phần bảo vệ công cuộc hoà bình ở Á đông và trên thế giới và Người khẳng
định Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ, với sự đoàn kết nhất chí,
lòng tin tưởng vững chắc vào tinh thần tự lực cánh sinh của mình, với sự giúp đỡ
vô tư của các nước anh em, với sự ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên
thế giới nhất là nhân dân các nước Á - Phi, nhân dân ta nhất định khắc được mọi
khó khăn, làm tròn được mọi nhiệm vụ vẻ vang mà Đảng và Chính phủ đã đề ra.

III.

Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học thuyết bảo
vệ Tổ quốc của Lê-nin vào điều kiện cụ thể bảo vệ Tổ quốc ở Việt nam
Qua nội dung của học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN của Lê-nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, ta có thể thấy rõ được sự vấn dụng,
phát triển sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong từng nội dung để sao cho học
thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN đó phù hợp với điều kiện cụ thể ở Việt Nam nước
ta.

Sự vận dụng, phát triển và sáng tạo đó thể hiện qua từng nội dung:
1] Nội dung 1:
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là tất yếu, khách quan
Trong nội dung này Hồ Chí Minh hoàn toàn đồng ý và vận dụng tư tưởng của Lênin rằng đây là một vấn đề tất yếu, khách quan. Nó xuất phát từ yêu cầu bảo vệ
thành quả cách mạng. Cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc XHCN không chỉ là cuộc
chiến tranh chống bọn chống phá phản cách mạng, giành lại đất nước CNXH mà
còn là cuộc chiến tranh để bảo vệ và gìn giữ CNXH ấy với tư cách là tổ quốc.
Sự thống nhất trong quan điểm của Lê-nin và tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện
rõ nhất ngay sau khi Cách mạng giành thắng lợi. Lênin khẳng định: Kể từ ngày
25 tháng Mười 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc. Chúng
ta tán thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang
đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ CNXH với
tư cách là Tổ quốc. Còn với Hồ Chủ tịch, ngay sau khi cách mạng tháng 8/1945
thành công, trước sự uy hiếp của thực dân, đế quốc và bọn phả động các loại, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta đề ra nhiều biện pháp thiết thực cụ thể để giữ
vững chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Họ đều chuẩn bị
tinh thần kháng chiến dài lâu bởi bảo vệ Tổ quốc không phải chỉ là giành lấy được
chính quyền từ tay bọn Đế quốc Thực dân mà còn là luôn luôn phải gìn giữ, đề
phòng bọn chống phá cách mạng.
2] Nội dung 2:
Ở nội dung này, tư có thể nhìn thấy rõ ràng sự khác biệt giữa 2 tư tưởng.
a] Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH, là sự thống nhất giữa nội dung dân tộc, nội dung
giai cấp và nội dung thời đại. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu
xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
b] Một bên chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng bảo vệ tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách
nhiệm của toàn thể dân tộc, toàn thể giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân lao
động. Còn Hồ Chí Minh lại xác định mục tiêu bảo vệ tổ quốc là độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, đây là nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi công dân.
Lực lượng bảo vệ tổ quốc trong 2 tư tưởng có sự khác biệt rõ ràng. Mác - Lênin
cho rằng lực lượng bảo vệ Tổ quốc chỉ là giai cấp công nhân, nông dân, nhân dân
lao động. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mọi công dân Việt Nam đều nằm
trong lực lượng bảo vệ tổ quốc.
Sự khác biệt này thể hiện qua nhiều sự khẳng định:
o Mác - Lênin:

C. Mác và Ph. Ăng-ghen chỉ ra rằng, giai cấp công nhân phải đấu tranh trở thành
giai cấp dân tộc, khi ấy chính giai cấp công nhân là người đại diện cho Tổ quốc, họ
có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn công của bọn phản cách mạng.
Ngay sau khi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu
hình thành. Giai cấp công nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới - xã hội, XHCN.
Trong những năm đầu của chính quyền Xô viết, Lênin trực tiếp lãnh đạo xây dựng
đất nước, Người chỉ rõ: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, là trách nhiệm của
toàn Đảng, toàn dân, của giai cấp vô sản trong nước, nhân dân lao động và giai cấp
vô sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Người nói:
Không bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân tộc mà đa số công nhân
và nông dân đã biết, đã cảm và trông thấy họ bảo vệ chính quyền của mình, chính
quyền Xô viết, chính quyền của những người lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp
mà một khi thắng lợi sẽ bảo đảm cho họ, cũng như con cái họ, có khả năng hưởng
thụ mọi thành quả văn hóa, mọi thành quả lao động của con người.
o Hồ Chí Minh:
Trong lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đêm ngày 19/12/1946 Người nói:
Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ không chia tôn giáo, Đảng
phái, dân tộc.Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu
Tổ quốc. Ai có súng thì dùng súng, ai có gươm thì dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng lợi
nhất định về dân tộc ta!
Trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 Người khẳng định: Toàn thể dân tộc
Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do độc lập ấy. Khi Pháp trở lại xâm lược nước ta Người kêu gọi
toàn quốc đứng lên kháng chiến ...hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp đê cứu Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước Người kêu gọi nhân dân cả nước
quyết tâm chiến đâu thắng lợi hoàn toàn để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc tiến tới thống nhất Tổ quốc, cả nước đi lên xã hội chủ nghĩa.
Sự khác biệt này là một sự phát triển sáng tạo vì:
o Nó được rút kinh nghiệm từ bài học của Cách mạng Nga Xô viết.
Trích nội dung 1 của học thuyết Lênin về bảo vệ tổ quốc: Ngay sau khi cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu hình thành. Giai cấp công
nhân bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới - xã hội,
XHCN. Trong suốt thời kì quá độ từ CNTB lên CNCS trên phạm vi thế giới,

CNXH và CNTB là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại và đấu tranh với
nhau hết sức quyết liệt.
Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới.Sự
thắng lợi của cách mạng XHCN, giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về
mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị
thống trị đã mất. Do vậy, chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động
và CNTB bên ngoài hòng lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của giai cấp
công nhân.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng, từ khi Tổ quốc XHCN xuất hiện, nhân dân
các nước XHCN phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành động lật đổ,
xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, mười bốn nước đế quốc tập trung bao vây hòng tiêu diệt
nước Nga Xô viết.
Từ khi CNXH phát triển thành hệ thống thế giới, sự chống phá của kẻ thù càng
quyết liệt hơn. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn
thất của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước XHCN
những bài học đắt giá rằng: xây dựng CNXH phải luôn gắn liền với bảo vệ Tổ
quốc XHCN.
Ở đây, Cách mạng của nước Nga thất bại thực sự đã để lại một bài học to lớn cho
cách nước XHCN. Với Lênin, bài học ấy được rút ra là xây dựng CNXH phải luôn
gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN. Lênin đã có sự đóng góp to lớn khi nhìn nhận
ra điều mà Mác - Ăngghen chưa đặt ra và tìm hướng giải quyết, điều đó là sau khi
xây dựng được CNXH, chúng ta phải bảo vệ CNXH ấy khi nó tồn tại song song
với CNTB. Nhưng với Hồ Chí Minh, bài học ấy còn được thể hiện rõ hơn, sâu
rộng hơn, rằng muốn giữ gìn được CNXH ấy thì không thể chỉ dựa vào giai cấp
công nhân, nông dân, nhân dân lao động mà còn phải nhờ vào toàn lực mọi công
dân trong đất nước ấy, Tổ quốc ấy. Hơn nữa Hồ Chí Minh luôn gắn độc lập dân tộc
với CNXH, nên người nhìn nhận rằng, toàn bộ dân tộc, toàn bộ công dân đều có
quyền lợi khi Tổ quốc được bảo vệ cũng như có trách nhiệm khi bảo vệ tổ quốc.
Hồ Chí Minh kêu gọi không chỉ giai cấp vô sản đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi lâm
nguy mà là cả những tư sản, tiểu tư sản, tri thức, v.v... Người dựa vào sức mạnh
của toàn dân, toàn lực dân tộc Việt Nam đoàn kết xây dựng đất nước và chiến đấu
với quân thù.Bất cứ ai cũng có thể đóng góp cho cuộc chiến này và bất cứ ai cũng
đều có trách nhiệm đóng góp năng lực, sức lực bản thân để bảo vệ Tổ quốc. Tiếp
thu đồng thời phát triển học thuyết Mác - Lê-nin, Hồ Chí Minh đã thấy thế giới là
thống nhất, không chỉ gồm các nước tư bản phát triển mà cả nhân loại cần lao
đang cần được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, khỏi nghèo nàn, lạc hậu để có cuộc
sống thật sự ấm no, hạnh phúc, cuộc sống đúng với ý nghĩa của nó. Người tìm thấy
đối tượng cần được giải phóng cũng như nguồn lực sức mạnh đấu tranh giải phóng
con người không chỉ có giai cấp vô sản mà là những người lao động trên khắp

hành tinh, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, màu da, nam, nữ và cả chính
kiến.
o Nó phù hợp với tình hình của Việt Nam thời bấy giờ cũng như thời đại hiện nay.
CNXH nếu chỉ nhờ vào sức mạnh của giai cấp vô sản, trong khi đất nước ta từ thời
kỳ chiến tranh giành độc lập đến nay - thời kỳ quá độ- vẫn luôn tồn tại nhiều giai
cấp khác, thì khối đoàn kết dân tộc sẽ không còn bền vững nữa. Như vậy dù là bấy
giờ hay hiện nay, nếu chỉ kêu gọi một giai cấp đứng lên giành chính quyền và bảo
vệ chính quyền thì chính quyền ấy khó lòng mà bền vững được. Việc kêu gọi toàn
dân kháng chiến và giữ gìn bảo vệ độc lập chủ quyền chính là một phát triển sáng
tạo của Hồ Chí Minh.
3] Nội dung 3:
Lê-nin cho rằng Phải thường xuyên tăng cường tiềm lực quốc phòng, gắn với
phát triển kinh tế - xã hội nhưng với tư tưởng Hồ Chí Minh thì Sức mạnh bảo vệ
tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, cả nước, kết hợp với sức mạnh thời
đại
Ở đây có điểm khác biệt rõ rệt giữa 2 quan điểm, tư tưởng. Với Lênin, sức mạnh
bảo vệ tổ quốcchỉ là tăng cường sức mạnh về mặt quốc phòng, kinh tế - xã
hội,nhưng với Hồ Chí Minh, đó là sức mạnh tổng hợp.
Điểm khác biệt ấy là sự phát triển tiến bộ của Hồ Chí Minh dựa trên học thuyết
bảo vệ tổ quốc của Lênin là bởi: Sức mạnh tổng hợp của Hồ Chí Minh là sức mạnh
của của khối đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
o Sức mạnh ấy không chỉ là dừng ở mặt quốc phòng, kinh tế - xã hội mà còn là sức
mạnh của các nhân tố chính tri, kinh tế, an ninh, ngoại giao, là sức mạnh toàn dân
tộc, toàn dân, của từng người dân, của các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ
sở, sức mạnh truyền thống với sức mạnh hiên đại. Nó cũng không chỉ sức mạnh
của 1 dân tộc mà được còn có sức mạnh thời đại [tư tưởng tiến bộ của nhân loại,
thành tựu khoa học của nhân loại, sự ủng hộ của nhân dân thế giới, v.v..]. Trong
sức mạnh tổng hợp đó, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng sức mạnh nhân dân, sức
mạnh lòng dân. Người khẳng định, phải dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của
dân. Khi nói về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc, đồng bào ta Người khẳng
định: sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ
quốc, dù địch hung hãn, xảo quyệt đến mức nào đụng đầu vào bức tường đó,
chúng đều thất bại.
o Ngoài ra, với nội dung này, chúng ta không chỉ cố gắng để đoàn kết sức mạnh toàn
dân từ Bắc đến Nam, mà lại có sự đồng tình ủng hộ to lớn của các nước XHCN
anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới, vì vậy chúng ta nhất định thắng. , Ngoài
ra để bảo vệ Tổ quốc XHCN Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng xây dựng và củng
cố nền QPTD, ANND, xây dựng QĐND coi đó là lực lượng chủ chốt để bảo vệ Tổ

quốc. Người căn dặn: Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh,
sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hoà bình, bảo vệ đất nước, bảo vệ công cuộc xây
dựng CNXH.
4] Nội dung 4:
Hồ Chí Minh đồng ý và vận dụng tư tưởng của Lê-nin rằng Đảng cộng sản lãnh
đạo sự nghiệp bảo vệ tổ quốc XHCN.
Điều đó thể hiện ở:
o Lênin:
Đảng cộng sản phải lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đảng hướng dẫn,
giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội, các đoàn thể
nhân dân laođộng nhằm bảo vệ an ninh đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN.
o Hồ Chí Minh:
Đảng cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN phải do Đảng lãnh đạo.
Tổng kết:
Trong đó, ta có thể thấy rõ nhất điểm khác biệt giữa hai quan điểm, tư tưởng là ở
lực lượng bảo vệ Tổ quốc và sức mạnh bảo vệ Tổ quốc. Với tư tưởng của Hồ Chí
Minh, lực lượng bảo vệ Tổ quốc không chỉ là giai cấp vô sản mà là toàn bộ mọi
công dân của dân tộc; sức mạnh bảo vệ tổ quốc không chỉ là sức mạnh của cá nhân
một nước tập trung vào mặt tiềm lực quốc phòng và kinh tế - xã hội mà là sức
mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc phát triển ở nhiều mảng kết hợp với sức mạnh
thời đại.
Như vậy Hồ Chí Minh đã vận dụng nội dung thứ nhất và nội dung thứ tư của học
thuyết Lênin về bảo vệ tổ quốc XHCN, và phát triển sáng tạo nội dung thứ hai và
nội dung thứ ba trong học thuyết đó.
Ý nghĩa:
Sự vận dụng, phát triển sáng tạo này cho thấy Hồ Chí Minh không chỉ áp dụng
một cách rập khuôn quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào tình hình đất nước
ta mà đã vô cùng sáng suốt nhìn ra điểm khác biệt và chưa phù hợp của học
thuyếtbảo vệ tổ quốc XHCN của Lêninđể phát triển sáng tạo sao cho phù hợp với
đất nước ta, nhất là ở thời điểm đó. Tuy vậy nhưng ý nghĩa giá trị của tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN không chỉ dừng lại ở thời bấy giờ mà vẫn có
giá trị cho tới hiện nay.
B. Ý NGHĨA GIÁ TRỊ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc mang tính cách mạng và khoa học sâu
sắc, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lê-nin về xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng vào điều kiện cụ thể
của nước ta; kế thừa và phát triển truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước,
kinh nghiệm đánh giặc và nghệ thuật quân sự độc đáo của dân tộc Việt Nam; đồng
thời, tiếp thu những kinh nghiệm hay của các dân tộc trên thế giới.Đó là một trong
các cơ sở lý luận để các Đảng Cộng sản đề ra chủ trương, đường lối chiến lược
xây dựng nền quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang và bảo vệ Tổ
quốc XHCN. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc vốn đã mang ý nghĩa và
giá trị thời đại, hơn nữa cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.Chúng ta nắm vững
những nội dung cơ bản đó, vận dụng sáng tạo và chỉ đạo sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong gia đoạn mới. Đồng thời kiên quyết đấu
tranh chống lại mọi sự xuyên tạc, bôi nhọ của kẻ thù, bảo vệ và phát triển sáng tạo
những nội dung đó trong điều kiện lịch sử mới.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định, tư tưởng Hồ Chí Minh về QPTD là một nội
dung cơ bản trong hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về cách mạng Việt
Nam; có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với tư tưởng về quân sự, về xây
dựng lực lượng vũ trang LLVT nhân dân, QĐND, về khởi nghĩa vũ trang và chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Việc nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng
đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc trong xây dựng nền QPTD ở nước ta
hiện nay.
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước,
sự nỗ lực của các cấp, các ngành, toàn dân và trên cơ sở thấu suốt, vận dụng sáng
tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, nên sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng
toàn dân đã đạt được những kết quả quan trọng, tăng cường đáng kể cả về tiềm
lực, lực lượng và thế trận quốc phòng. Đó là nhân tố cơ bản để bảo vệ vững chắc
Tổ quốc, mà cốt lõi là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Những thành
tựu quan trọng đó không những góp phần thiết thực tăng cường thế và lực của đất
nước, mà còn tạo điều kiện để chúng ta tham gia có trách nhiệm và hiệu quả đối
với cộng đồng quốc tế, qua đó khẳng định vị thế, uy tín của nước ta trong khu vực
và trên thế giới.
Trong thời gian tới, trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
nhưng tình hình tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định
bất trắc, khó lường. Chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, tranh chấp tài nguyên,
chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật
đổ, ly khai, khủng bố tiếp tục gia tăng. Cục diện thế giới đa cực hình thành ngày
càng rõ hơn.Các nước lớn vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh, kiềm chế lẫn

nhau, chi phối các quan hệ quốc tế. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong đó
có Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới, nơi cạnh tranh
quyết liệt giữa các nước lớn. Tuy ít có khả năng xảy ra chiến tranh, xung đột lớn,
nhưng tranh chấp lãnh thố, biển, đảo diễn biến phức tạp khó lường. Đối với nước
ta, các thế lực thù địch tăng cường hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư
tưởng, văn hóa, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích
động, thực hiện "diễn biến hoà bình" nhằm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta.
Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta rất nặng nề, có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen. Vì
thế, hơn bao giờ hết, chúng ta phải tiếp tục quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm
của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó vận dụng thực hiện sáng tạo trong thực
tiễn, nhằm xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu
cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
1.Tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình
mới.
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn
dân. Bởi lẽ, có thực hiện tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thì mới thống nhất
được nhận thức về tầm quan trọng, sự cần thiết phải xây dựng nền quốc phòng
toàn dân. Và như vậy mới thống nhất được hành động, phát huy được trách nhiệm,
tính tự giác, tích cực của toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên đối với sự
nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện.
Đề cập vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Chúng ta phải ra sức bảo vệ Tổ
quốc, bảo vệ hòa bình, cho nên chúng ta phải củng cố quốc phòng,. Người còn
nhấn mạnh: Giữ Nhà phải cảnh giác, phải có cửa, có khóa để ngăn ngừa bọn trộm
cắp. Giữ Nước càng phải cảnh giác để ngăn ngừa bọn đế quốc và bè lũ tay sai phá
hoại thành quả cách mạng, phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của
chúng ta; đối với kẻ địch, người cộng sản phải luôn luôn tỉnh táo, giữ vững lập
trường, quyết không được vì hoàn cảnh hòa bình mà mất cảnh giác. Phải luôn luôn
đập tan mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ địch, bảo vệ những thành quả của cách
mạng, bảo vệ lao động hòa bình của nhân dân. Lời dạy của Người mộc mạc,
nhưng rất sâu sắc, chí lý. Để thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động xây
dựng nền quốc phòng toàn dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấp ủy, chính quyền,
ban, ngành, đoàn thể các cấp cần quan tâm đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng
kiến thức quốc phòng-an ninh cho toàn dân, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt các
cấp, các ngành. Trong những năm qua, với sự nỗ lực cao, phối hợp chặt chẽ của
các tổ chức, lực lượng, cơ quan chức năng từ Trung ương xuống đến cơ sở, công

tác giáo dục quốc phòng và an ninh được triển khai tích cực, nền nếp, hệ thống, có
nhiều đổi mới, đạt kết quả khá toàn diện. Trong thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục
phát huy những kết quả đó và trọng tâm là thực hiện tốt Luật Giáo dục quốc phòng
và an ninh, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ nhận thức, trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo
vệ Tổ quốc. Một khi có nền tảng kiến thức vững chắc, mọi người đều hiểu tầm
quan trọng của QPTD và ANND cũng như tiềm lực xây dựng nên nền QPTD,
ANND, ta sẽ được hỗ trợ cho việc xây dựng tiềm lực toàn diện của đất nước, đặc
biệt tiềm lực kinh tế, tạo ra thế và lực mới cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.
2. Xây dựng nền QPTD độc lập, tự chủ, ANND vững mạnhtoàn diệnngày càng
hiện đại, xây dựng QĐND và CAND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đạiđáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đây là mục tiêu, phương hướng xây dựng nền quốc phòng Việt Nam theo quan
điểm nhất quán của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là nền quốc phòng độc
lập, tự chủ, tự lực tự cường, vững mạnh toàn diện và ngày càng hiện đại. Đó là nền
quốc phòng do toàn dân tiến hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự thống nhất quản
lý của Nhà nước. Tiềm lực và sức mạnh của nền quốc phòng được hình thành bởi
các nguồn lực, đó là: Nguồn lực của quốc gia, nguồn của các ngành, địa phương
và nguồn lực to lớn từ nhân dân. Như vậy, về mặt nội hàm, nó khác với nền quốc
phòng của nhiều nước là chủ yếu dựa vào nguồn lực của quốc gia, còn nguồn lực
từ trong nhân dân cũng như sự tham gia của nhân dân đối với nền quốc phòng là
rất hạn chế.Tính chất nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình, tự vệ, không nhằm
xâm lược hoặc đe dọa bất cứ quốc gia nào. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu
rộng hiện nay, chúng ta cần quán triệt đường lối, quan điểm, độc lập, tự chủ, tự
lực, tự cường trong xây dựng nền quốc phòng; phát huy nguồn lực trong nước là
chính, kết hợp với tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, thông qua hợp tác quốc tế để
tăng cường tối đa sức mạnh quốc phòng. Đồng thời, trong quá trình thực hiện, phải
nắm vững phương hướng xây dựng nền quốc phòng vững mạnh toàn diện, ngày
càng hiện đại.Một nền quốc phòng vững mạnh toàn diện, tức là có đủ tiềm lực, sức
mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.Sự vững mạnh của nền quốc phòng
là vững mạnh trên tất cả các mặt, các lĩnh vực, trên các địa bàn, ở tất cả các cấp từ
Trung ương đến địa phương, cơ sở.Đó cũng là quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Theo Người: Mỗi vùng, miền trên đất nước có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng về
mặt quốc phòng thì không thể coi nhẹ vùng này, coi trọng vùng khác.
Hồ Chí Minh chỉ rõ: một nhiệm vụ quan trọng của đồng bào miền biển là phải
bảo vệ bờ biển. Đồng bào miền biển là người canh cửa cho Tổ quốc. Người còn
nhấn mạnh: Miền núi đối với quốc phòng rất quan trọng. Vì vậy, phải chăm lo

đến việc củng cố quốc phòng, duy trì trật tự trị an, để chủ động tiêu diệt nhanh
chóng bọn biệt kích, đập tan âm mưu của bọn phản động. Cố nhiên đây là trách
nhiệm chính của bộ đội, của công an biên phòng, của dân quân. Nhưng toàn Đảng,
toàn dân đều có trách nhiệm giúp sức vào việc đó. Mỗi người dân Phải nắm
vững tay cày tay súng, đẩy mạnh quốc phòng, trật tự trị an, củng cố tốt dân quân,
tự vệ, luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Như vậy, có thể thấy
Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng sự vững mạnh toàn diện của nền quốc
phòng toàn dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền quốc phòng toàn dân
luôn thống nhất với quan điểm của Đảng. Đề cập về lực lượng xây dựng nền quốc
phòng, Đảng ta khẳng định rõ: Xây dựng nền quốc phòng toàn dân là nhiệm vụ
của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân là
nòng cốt. Theo đó, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh toàn diện,
ngày càng hiện đại, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt Nghị quyết số
28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị [khóa X] Về tiếp tục xây dựng các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong
tình hình mới và Nghị định số 152/2007/NĐ-CP ngày 10-10-2007 của Chính phủ
về khu vực phòng thủ. Trong quá trình thực hiện, phải coi trọng xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, xây dựng khu
vực phòng thủ vững mạnh, nhất là trên địa bàn chiến lược của đất nước. Đồng
thời, phải kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an
ninh, gắn quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội với quy hoạch thế trận
quốc phòng-an ninh, [điều chỉnh, bố trí dân cư] trên các địa bàn chiến lược, nhằm
đạt cả mục tiêu kinh tế và quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Thực chất xây dựng nền quốc phòng toàn dân là xây dựng các tiềm lực và đây
cũng là nhân tố quyết định sự vững mạnh, sức mạnh của nền quốc phòng.Mỗi tiềm
lực có vai trò, vị trí quan trọng riêng, vì thế không được xem nhẹ bất cứ tiềm lực
nào. Trong đó tiềm lực chính trị-tinh thần là cơ sở; tiềm lực kinh tế là nền tảng,
tiềm lực quân sự-an ninh là cốt lõi; Để xây dựng và không ngừng tăng cường
tiềm lực chính trị-tinh thần, cần phải chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, chăm lo kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
các cấp, củng cố thế trận lòng dân vững chắc ngay từ cơ sở. Đối với tiềm lực
kinh tế, cần tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội gắn với nâng cao khả
năng dự trữ, huy động cơ sở vật chất, kỹ thuật theo kế hoạch thống nhất, để sẵn
sàng phục vụ cho nhiệm vụ quốc phòng khi cần thiết. Đối với tiềm lực quân sự và
an ninh, phải tập trung xây dựng vững mạnh cả lực lượng và thế trận, nhằm bảo
đảm xử lý kịp thời, hiệu quả mọi tình huống về quốc phòng-an ninh trong thời
bình và thời chiến. Cùng với đó, phải quan tâm đúng mức tới các tiềm lực khác để

không ngừng tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
3. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong sự
nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.
Lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
lực lượng nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc. Nhưng cũng cần thấy rằng, xây dựng Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân vững mạnh là một nội dung quan trọng của quá
trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Đây là hai mặt của một vấn đề có mối
quan hệ biện chứng.Nói cách khác, hai lực lượng này vừa là chủ thể vừa là đối
tượng của sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân.
Quán triệt, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn xây dựng nền quốc
phòng toàn dân hiện nay, Đảng ta xác định: Xây dựng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đối với
Quân đội nhân dân, phải tập trung xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu. Theo
đó, phải thường xuyên giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
lý tưởng cách mạng, mục tiêu chiến đấu, để không ngừng tăng cường bản chất
cách mạng, nâng cao bản lĩnh chính trị và định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến
sĩ trong toàn quân. Đồng thời, phải chăm lo xây dựng tổ chức lực lượng quân đội
theo hướng tinh, gọn, mạnh, linh hoạt; có cơ cấu thành phần hợp lý, cân đối; bảo
đảm số lượng phù hợp, chất lượng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt trong thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin
cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Cùng với đó, tiếp tục đẩy mạnh xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, khả năng
sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao. Để xây dựng Quân đội nhân dân từng bước hiện đại, một số
lực lượng: Hải quân, Phòng không-Không quân, Thông tin liên lạc, Trinh sát kỹ
thuật, Tác chiến điện tử tiến thẳng lên hiện đại, cần coi trọng xây dựng con
người và bảo đảm vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại; trong đó con người là
nhân tố quyết định. Thời gian tới, chúng ta cần tích cực đổi mới công tác huấn
luyện, giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học và nghệ thuật quân sự, để không
ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, khả năng khai thác và
làm chủ vũ khí, trang bị kỹ thuật, nhất là vũ khí, phương tiện kỹ thuật hiện đại mới
được trang bị cho bộ đội, đáp ứng yêu cầu tác chiến trong điều kiện mới. Đồng

Tải về bản full

Video liên quan

Chủ Đề