Tại sao nói D Ricardo tiến xa hơn A Smith trong lý luận về giá trị

Nếu Adam Smith có công hệ thống hóa các quan điểm kinh tế có từ trước thì David Ricardo đã xây dựng hệ thống này trên cơ sở lý luận giá trị – lao động.

1. Sơ lược tiểu sử: David Ricardo [1772 – 1823] xuất thân từ gia đình tư sản, năm 12 tuổi vào trường trung học thương nghiệp hai năm. Ông có địa vị quan trọng trong sở Giao dịch châu Âu, là môït trong những người giàu có nhất nước Anh lúc bấy giờ. Rất ham mê nghiên cứu khoa học, đặc biệt là môn kinh tế chính trị. Từ năm 1809 đến năm 1816 cho in nhiều tác phẩm và tới 1817 nổi tiếng với tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa”.

2. Thế giới quan, phương pháp luận: Thế giới quan có tính chất duy vật, máy móc, xa rời quan điểm lịch sử, nhưng dựa trên quan điểm sản xuất của chủ nghĩa tư do tư sản. Phương pháp của ông có tính chất siêu hình, nhưng ông lại sử dụng khá rộng rãi phương pháp trừu tượng hóa khoa học để phân tích các hiện tượng kinh tế, quá trình kinh tế cho nên trong sự phân tích bản thân nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, David Ricardo đã chiếm địa vị quan trọng.

3. Vị trí, vai trò: Do sống trong thời kỳ cách mạng công nghiệp kết thúc và chủ nghĩa tư bản giành thắng lợi hoàn toàn đối với phương thức sản xuất cu,õ nhờ sự xuất hiện của đại công nghiệp cơ khí nên khi kế tục A.Smith, David Ricardo đã đưa học thuyết kinh tế chính trị tư sản cổ điển đạt đỉnh cao nhất của nó. Ở đỉnh cao này, Ricardo đã bảo vệ chủ nghĩa tư bản, nhưng không xuyên tạc, mỵ dân vì tin vào tính ưu việt của chủ nghĩa tư bản, do vậy ông đã không ngại bóc trần những xấu xa trong xã hội tư bản chủ nghĩa, nhờ đó từ học thuyết kinh tế của ông về sau người ta đã rút ra những kết luận xã hội chủ nghĩa.

4. Nội dung lý luận kinh tế chủ yếu:

a] Lý luận giá trị – lao động: Kế thừa và phát triển học thuyết giá trị lao động của Smith, phân biệt khá rõ ràng giá trị, giá trị trao đổi, giá trị sử dụng. Ông cho rằng có hai nhân tố quyết định giá trị trao đổi: giá trị sử dụng, hay tính chất khan hiếm và số lượng lao động cần thiết để sản xuất ra vật phẩm. Nhưng thước đo giá trị trao đổi là giá trị và “giá trị do số lượng tương đối của lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó quy định”. Ở đây, Ricardo đã loại bỏ tính chất hai mặt trong định nghĩa giá trị của Adam Smith để khẳng định rằng giá trị của hàng hóa là do hao phí lao động xã hội cần thiết quyết định, nhưng ông lại sai lầm khi cho rằng “lao động trong điều kiện xấu nhất là lao động xã hội”. Và một thiếu xót nữa của ông là ông đã giải thích giá trị một cách siêu hình khi cho rằng giá trị là thuộc tính của mọi vật và rằng giá trị tồn tại vĩnh viễn. Ông cũng hiểu được giá cả hàng hoá là giá trị trao đổi của hàng hóa nhưng chỉ biểu hiện ra bằng tiền. Biết được giá cả thị trường xoay quanh giá cả tự nhiên do quy luật cung – cầu. Về cơ cấu giá trị hàng hóa ông đã xét đến hai yếu tố là chi phí lao động sống và chi phí lao động quá khứ. Tiếc rằng ông chưa nghiên cứu các hình thái của giá trị và tính chất hai mặt của lao động sản xuất ra hàng hóa. Về các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa, Ricardo thấy được rằng khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị của hàng hóa giảm xuống. So với Adam Smith, lý luận giá trị – lao động của Ricardo hoàn thiện hơn, nhất quán ơn nhưng ông lại không phát hiện tiếp điều vướng mắc của Adam Smith là cảm thấy có cái gì đó làm cho việc trao đổi giữa tư bản và lao động sống không thể giải thích trực tiếp bằng quy luật giá trị. Do đó Ricardo tuy khẳng định quy luật giá trị hoạt động trong cả hai nền sản xuất nhưng không phân biệt được sản xuất hàng hóa giản đơn với sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.

b] Lý luận về tiền: Vào thế kỷ XVIII ở Anh diễn ra việc đổi giấy bạc lấy vàng làm cho số lượng tiền giấy tăng lên dẫn đến nạn lạm phát. Trong ngành ngân hàng diễn ra cuộc tranh luận đòi quay lại chế độ bản vị vàng, tình hình này thúc đẩy Ricardo đưa ra lý thuyết tiền tệ. Lý thuyết này của ông có tính hai mặt. Một mặt dựa vào lý luận giá trị – lao động để vạch ra bản chất hàng hóa của tiền, chức năng thước đo giá trị của tiền, nhưng ông lại không hiểu được nguồn gốc của tiền [vàng] và đã đơn giản hóa chức năng của tiền [vàng]. Môït mặt dựa vào thuyết số lượng tiền để khẳng định số lượng tiền [giấy] càng nhiều thì giá trị của tiền tệ càng ít và ngược lại để lý giải sự thay đổi trong quan hệ quốc tế và điều tiết bảng cân đối thanh toán. Bản thân Ricardo không phân biệt quy luật lưu thông tiền giấy và quy luật lưu thông tiền vàng.

c] Lý luận về tư bản: Ricardo đồng nhất tư bản với dự trữ sản xuất và quỹ công cụ sản xuất nên không nhìn thấy tư bản là một quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử. Ông phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động tùy theo tốc độ hao mòn và sự cần thiết của tái sản xuất, nhưng ông đã lẫn lộn giữa tư bản bất biến, tư bản khả biến với tư bản lưu động, tư bản cố định. Do vậy, ông đã gặp bế tắc khi nghiên cứu sâu hơn các vấn đề có liên quan.

d] Lý luận về các nguồn thu nhập: Kế thừa quan điểm của Smith về những thu nhập ban đầu của ba giai cấp và dựa vào lý luận giá trị – lao động, David Ricardo đã làm cho lý luận này chiếm vị trí quan trọng trong học thuyết của mình. * Về tiền công: coi lao động là hàng hóa, ủng hộ “quy luật sắt về tiền công”, ủng hộ quan điểm “nhà nước không can thiệp vào thị trường lao động”, vạch ra các yếu tố ảnh hưởng đến giá cả lao động. * Về lợi nhuận: Gián tiếp thừa nhận lợi nhuận là kết quả của lao động làm thuê, có quan hệ tỷ lệ nghịch với tiền công. Thấy được quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống, nhưng lại cho rằng quy luật này có quan hệ với quy luật độ phì của đất giảm dần. * Về địa tô: dựa trên lý luận giá trị – lao động để giải thích, đó là cống hiến của ông. Theo ông “Giá trị nông sản phẩm là do mức hao phí lao động trên đất đai xấu nhất quyết định và đất đai xấu nhất không thu được địa tô”. Địa tô là việc trả công cho những khả năng thuần túy tự nhiên và điạ tô bao giờ cũng được trả về việc sử dụng ruộng đất tốt hơn. Ở đây Ricardo đã nhìn thấy địa tô chênh lệch I, vạch rõ địa tô phụ thuộc lợi nhuận, nhưng phủ nhận địa tô tuyệt đối và không đụng đến địa tô chênh lệch II.

e] Lý luận về tái sản xuất: Tin rằng không có khả năng sản xuất thừa dưới chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tư bản tiến bộ tuyệt đối do phát triển vì lợi nhuận. Chính vì lợi nhuận cao mà tích lũy tư bản được thực hiện, qua đó tăng cầu lao động và thúc đẩy tăng thu nhập tiêu dùng và sức mua. Nhưng do nhìn thấy quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm nên ông nhìn nhận có khủng hoảng bộ phận.

f] Lý thuyết về lợi thế so sánh: Kế thừa quan điểm của Adam Smith, năm 1817 David Ricardo đưa ra quy luật lợi thế so sánh còn gọi là lý thuyết so sánh tương đối. Lý thuyết này nói rằng một nước có thể nâng cao mức sống và thu nhập của nước mình bằng cách chuyên môn hóa sản xuất những mặt hàng hóa có năng suất cao hơn nước khác và thực hiện phân công lao động quốc tế để trao đổi. Ví dụ: Nếu Mỹ có năng suất lao động cao về lương thực và châu Âu có năng suất lao động cao về quần áo, thì Mỹ sẽ có lợi khi chuyên sản xuất và xuất khẩu lương thực cho châu Aâu, còn châu Âu cũng sẽ có lợi khi chuyên sản xuất và xuất khẩu quần áo cho Mỹ.

g] Lý luận về thuế: Ricardo cho rằng thuế là bộ phận sản phẩm của đất đai và của công nghiệp dành cho chính phủ của một nước sử dụng. Bộ phận này được trả theo vốn hay theo thu nhập. Nói chung, thuế vừa làm tăng nguồn thu và chi của chính phủ, nhưng thuế cũng làm giảm khả năng tích lũy tư bản, giảm khả năng tiêu dùng và do vậy làm chậm tốc đôï tăng của cải. Ricardo chỉ ra nhiều loại thuế và tác dụng của nó, đồng thời ông cũng ủng hộ các guyên tắc đánh thuế do A.Smith đưa ra. [ Các công dân, tùy khả năng và cố gắng tối đa, phải góp phần giúp đỡ ngân sách chính phủ. [ Phần thuế mỗi người phải nộp cần rõ ràng, không được áp đặt đôïc đoán. [ Thuế phải thu đúng hạn và với phương thức thuận lợi nhất cho người nộp. [ Thuế phải tính toán sao cho nhân dân đóng góp ít nhất và số tiền này chỉ nằm trong công quỹ thời gian ngắn nhất. Nhận xét: Học thuyết kinh tế của David Ricardo đã đạt tới đỉnh cao của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Nếu Adam Smith có công hệ thống hóa các quan điểm kinh tế có từ trước thì David Ricardo đã xây dựng hệ thống này trên cơ sở lý luận giá trị – lao động. Các nhà kinh tế học tư sản sau này không quan tâm nhiều đến lý luận giá trị- lao động, họ xa rời nguyên tắc này và duy nhất chỉ có Karl Marx kế thừa xuất sắc lý luận giá trị – lao động để đặt nền móng vững chắc cho toàn bôï học thuyết kinh tế của mình.

S.T

Tags: Kinh tế học, David Ricardo

1. Những đóng góp của David Ricardo

David Ricardo [1772-1823] là con trai của một người Do Thái di dân làm nghề môi giới chứng khoán. Với kiến thức thương mại không nhiều, Ricardo đánh cược với số tiền khiêm tốn nhất để có được tài sản khá lớn bằng những đầu tư khôn ngoan vào chứng khoán và bất động sản. Năm 1799, trong khi đang nghỉ hè và buồn bực, ông đọc quyển Wealth of Nations của Adam Smith, và chẳng bao lâu sau nội dung quyển sách thu hút tâm trí của ông. Mười năm sau ông bắt đầu tranh luận các vấn đề kinh tế trên báo chí và các ẩn phẩm mỏng, một sự tiêu khiển sau này trở thành cuộc đeo đuổi tri thức tốn nhiều thời gian. Lý do nào bảo đảm vị trí của Ricardo trong lịch sử kinh tế học? Đó là khả năng của ông hình thành một hệ thống phân tích tổng quát mang lại những kết luận có ảnh hưởng bao quát dựa trên một số nguyên tắc tương đối cơ bản. “Hệ thống” của ông là một công trình bất hủ đối với tiến trình lập luận suy diễn. Theo phân tích của Ricardo, ba nguyên tắc đều bị chỉ trích, mỗi nguyên tắc đều vay mượn từ người khác. Ba vấn đề bị chỉ trích là [1] thuyết tiền thuê đất cổ điển, [2] nguyên tắc dân số của Malthus và [3] thuyết quỹ - lương.

Có thể nói Ricardo có tác động đối với sự định hướng thuyết kinh tế sau này nhiều hơn là Malthus. Nhưng trong tư cách một người đối kháng lý thuyết, mỗi người đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển hệ thống phân tích của người khác. Malthus nhận thấy sự liên kết trực tiếp, mật thiết giữa mức độ tiền lương chung và giá ngũ cốc. Ông lập luận ủng hộ Luật ngũ cốc vì ông cảm thấy nhập khẩu ngũ cốc tự do sẽ kéo giá ngũ cốc [và tiền lương] trong nước xuống và làm lạm phát đến nhanh hơn. Thế nhưng, đối với Ricardo, Luật ngũ cốc báo hiệu sự gia tăng trong tiền lương và giảm lợi nhuận, vì thế sự tích lũy Tư bản ít hơn và cũng là mục đích tăng trưởng kinh tế. Khi trả lời Malthus, Ricardo xây dựng một lập luận khéo léo nhất quanh thuyết giá trị lao động.

2. Thuyết giá trị lao động: Thực nghiệm hay phân tích?

Một vài quan niệm sai lầm trong lịch sử kinh tế học đến mức phổ biến về thuyết giá trị của Ricardo. Việc giải thích thuyết xoay quanh cách giải thích thuyết giá trị lao động dứt khoát không nhượng bộ. Thế nhưng có ít hay không có sự ủng hộ trong các tác phẩm của Ricardo về cách giải thích này. Thật trớ trêu, đây không phải là phê bình của Ricardo [như Malthus và Samuel Bailey] mà chính những môn đệ nhiệt tình của ông là những người chịu trách nhiệm về cách giải thích sai này. Chúng ta thích mô tả đặc điểm thuyết giá trị của Ricardo như một thuyết “phí tổn thật” nơi dụ sao lao động là yếu tố quan trọng [theo thực nghiệm] nhất.

Vấn đề chính do Ricardo đưa ra trong quyển Principles of Political Economy and Taxation là những thay đổi xảy ra trong phần chia thu nhập tương đối về đất đai, lao động và Tư bản ra sao và những thay đổi này có tác dụng gì đối với sự tích lũy Tư bản và tăng trưởng kinh tế. Xác định tiền thuê đất là một bộ phận không thể tách rời của vấn đề này, nhưng mỗi thuyết phân phối thu nhập phải căn cứ vào thuyết giá trị, và Ricardo trình bày để bổ sung thuyết giá trị của Smith để ông sử dụng riêng cho mình. Nhất là, Ricardo nhận thấy một số khiếm khuyết trong thuyết “giá trị tự nhiên” của Smith. Theo Smith, việc tăng giá của một yếu tố [như tiền lương] sẽ gia tăng giá hàng hóa do yếu tố ấy [lao động] tạo ra. Đối với Ricardo, đây là một phân tích hời hợt, nhất là nếu sự thay đổi trong giá trị phải nhiều hơn sự thay đổi mức giá trên danh nghĩa.

3. Sự cần thiết bổ sung cho thuyết giá trị lao động của Adam Smith

Ricardo cảm thấy nên bổ sung một số, thuyết giá trị lao động cung cấp giải thích tổng quát hoàn hảo nhất về giá tương đối và sự hạn chế của Smith trong thuyết lao động về “nền kinh tế nguyên thủy” là không cần thiết. Đối với Ricardo, mối quan hệ giữa giá trị và thời gian lao động tiêu dùng trong sản xuất thật dễ hiểu:

“Mỗi sự gia tăng số lượng lao động phải làm tăng giá trị của hàng hóa đó mà lao động thực hiện, khi mỗi sự giảm bớt sẽ hạ giá trị ấy xuống” [Works, 1, trang 13].

Mặc dù Ricardo không hề dao động quan điểm cơ bản, tuy nhiên ông cũng bổ sung một số đặc điểm cần thiết để làm cho thuyết thực tế hơn. Trong tiến trình này, thuyết giá trị của ông dừng lại như một thuyết lao động thuần túy. Nhưng Ricardo luôn lảng tránh những đặc điểm của chính mình trong phân tích và chính sách tiếp theo sau và sử dụng thuyết lao động đơn thuần để đi đến kết luận chung.

Ngoại lệ thứ nhất đối với quy tắc trên mà Ricardo cho phép là trong trường hợp hàng hóa không thể sản xuất. Ông cho rằng:

“Có một số hàng hóa mà giá trị của nó chỉ được xác định bằng tính khan hiếm. Không có lao động nào có thể gia tăng số lượng hàng hóa như thế, vì thế giá trị của chúng không thể hạ thấp bằng mức cung gia tăng”. Giá trị bức họa của Renoir hay một chai Lafitte-Rothschild năm 1929, theo lời Ricardo, “hoàn toàn phụ thuộc vào số lượng của lao động ban đầu cần thiết để tạo ra chúng, và thay đổi với của cải đang thay đổi và sở thích của những người khát khao sở hữu chúng” [Works, I, trang 12].

Về số lượng, ngoại lệ này không quan trọng đối với Ricardo, vì “Những hàng hóa này... hình thành một bộ phận rất nhỏ của đa số hàng hóa trao đổi hàng ngày trên thị trường”.

4. Vốn cố định và vốn lưu động

Đặc điểm quan trọng hơn trong thuyết giá trị lao động liên quan đến vai trò và tầm quan trọng của Tư bản, được xử lý như lao động “gián tiếp” hay “được thể hiện”. Ở đây Ricardo phân biệt giữa vốn cố định và vốn lưu động. Vốn lưu động “mau hỏng, cần phải tái tạo thường xuyên” trong khi vốn cố định “là vốn tiêu dùng chậm”. Giá trị vì thế gia tăng khi tỉ lệ vốn cố định so với vốn lưu động gia tăng và khi tính lâu bền của vốn gia tăng. Thực tế này được Ricardo chứng minh trong đoạn văn sau:

“Giả sử hai người mỗi người thuê 100 nhân công trong 1 năm để chế tạo hai cỗ máy, người khác cũng sử dụng cùng số nhân công như thế để trồng ngũ cốc, mỗi cỗ máy vào cuối năm sẽ có giá trị bằng với ngũ cốc, vì mỗi cỗ máy được cùng một số lượng lao động sản xuất ra. Giả sử một trong những chủ sở hữu của một trong hai cỗ máy này phải sử dụng máy với sự giúp đỡ của 100 người, để dệt vải, và chủ sở hữu cỗ máy còn lại cũng sử dụng máy mình cùng với sự giúp đỡ của 100 người để làm hàng cotton, trong khi người nông dân tiếp tục sử dụng 100 người trồng ngũ cốc như trước. Trong năm thứ hai, họ sử dụng số lao động như nhau, nhưng hàng hóa và máy móc cùng với người dệt vải và cũng với hàng hóa và máy móc của nhà sản xuất cotton, sẽ là kết quả lao động của 200 người được thuê trong 1 năm, hay đúng ra, là kết quả lao động của 100 người thuê trong 2 năm, trong khi ngũ cốc được sản xuất bởi lao động của 100 người trong 1 năm, do đó nếu ngũ cốc có giá trị 500 bảng Anh bằng máy móc và vải của người dệt vải cộng lại, phải bằng giá trị 1000 bảng Anh kể cả hàng cotton và máy móc của nhà sản xuất cotton, phải bằng hai lần giá trị ngũ cốc. Nhưng sẽ nhiều hơn hai lần giá trị ngũ cốc, vì lợi nhuận trên vốn của người dệt vải và nhà sản xuất cotton trong năm thứ nhất đã được cộng vào vốn của họ, trong khi lợi nhuận trên vốn của người nông dân đã dùng hết và thụ hưởng. Nếu tính mức độ khác nhau của tính lâu bền trong vốn của họ, vốn là như nhau, tính đến lượng thời gian trôi qua trước khi một tập hợp hàng hóa có thể mang ra thị trường, chúng sẽ có giá trị, không đúng theo tĩ lệ với số lượng lao động dành cho chúng... mà một điều gì đó nhiều hơn nữa để bù vào thời gian dài nhất phải trôi qua trước khi hàng có giá trị nhất mang ra thị trường”. [Works, I, trang 33-34].

Ví dụ của Ricardo rõ ràng minh họa rằng ông thừa nhận hai cách trong đó tiền vốn ảnh hưởng đến giá trị hàng hóa: [1] vốn tiêu dùng hết trong sản xuất hình thành phần cộng thêm vào giá trị sản phẩm, và [2] vốn sử dụng theo đơn vị thời gian phải được đền bù [ở lãi suất hiện hành]. Sự thừa nhận này của Ricardo rằng thời gian cũng như lao động là yếu tố quan trọng của giá trị hình thành phần đóng góp thực sự cho kinh tế học, sau đó người ta cho rằng nếu có công trạng thì công trạng của ông cũng ít thôi.

5. Sự khác biệt giữa thuyết của Ricardo và thuyết của Adam Smith

Từ quan điểm phân tích, rõ ràng Ricardo dựa vào giá trị trên phí tổn thực của lao động và Tư bản. Thuyết của ông khác với thuyết của Smith ở chỗ loại trừ tiền thuê đất ra khỏi phí tổn. Nhưng xét từ quan điểm thực nghiệm, Ricardo cho rằng số lượng lao động tương đối sử dụng trong sản xuất là những yếu tố quyết định chính của giá trị tương đối. Trên mặt trận phương pháp luận, Ricardo chứng minh ông là nhà lập luận trừu tượng, suy diễn. Ông thích đặt nguyên tắc trong hệ thống phân tích của mình trong một biến số đơn độc, nổi tiếng hơn là trên nhiều biến số bé hơn có tác dụng mơ hồ. Đối với mục đích này, ông cảnh báo với bạn đọc [sau khi lưu ý tác dụng của vốn trên giá trị nêu trên]:

“Trong phần tiếp theo sau của tác phẩm, mặc dù thỉnh thoảng tôi quy cho nguyên nhân biến đổi này [nghĩa là thời gian], tôi sẽ cân nhắc tất cả những thay đổi quan trọng diễn ra trong giá trị hàng hóa tương đối được tạo ra bởi số’ lượng lao động nhiều hay ít hơn theo yêu cầu từ thời điểm này sang thời điểm khác để tạo ra chúng” [Works, I, trang 36-37].

Đối với Ricardo, ít ra cũng ít có kẽ hở để bị một số lý thuyết gia hiện đại phê bình, ấy là vì không phát biểu rõ giả định làm nền tảng cho cấu trúc phân tích của mình.

Bất chấp tính chính xác của nó, thuyết giá trị của Ricardo chứa đựng một số khiếm khuyết. Thứ nhất, xử lý của ông về sự khác nhau giữa chất lượng lao động là không thỏa đáng. Ricardo giả định điều chỉnh tiền lương đối với sự khác nhau chất lượng lao động xảy ra trong thương trường và một khi đã xác định, thì các mức độ khác nhau sẽ ít thay đổi. Vì thứ nhất Ricardo tìm kiếm cách đánh giá giá trị thị trường, đây là một tranh luận vòng quanh. Thứ hai, sự loại trừ tiền thuê đất ra khỏi phí tổn có thể được chứng minh là đúng khi đất không có cách sử dụng thay thế [Ricardo cho rằng, phi hiện thực]. Vả lại, thuyết giá trị Ricardo duy trì vai trò nhu cầu hạn chế ở một loại hàng hóa đặc biệt [không thể sản xuất]. Dĩ nhiên điều này không thích hợp trong trường hợp nơi mà hàng hóa không phải là sản xuất ra phải chịu phí tổn sản xuất trung bình không đổi.

LUẬT MINH KHUÊ [Sưu tầm]

Video liên quan

Chủ Đề