Vì sao nhóm statin dùng cho đái tháo đường

BS. TRẦN DUY BÁCH*

BS. NGUYỄN THANH HIỀN

*Khoa TM tổng quát, BV Nhân dân 115

Bệnh tim mạch là nguyên nhân hàng đầu gây tàn phế và tử vong ở những người mắc đái tháo đường và đái tháo đường là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây xơ vữa sớm cả 2 giới.Đái tháo đường là một yếu tố nguy cơ độc lập của bệnh tim mạch và làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở cả giới nữ.

Rối loạn lipid máu thường gặp ở bệnh nhânđái tháo đường type 2, tỉ lệ 72%-85%, với kiểu hình lipid gây xơ vữa bao gồm tăng triglyceride, tăng ApoB, tăng non-HDL, LDL và giảm HDL. Hiểu được rối loạn lipid do đái tháo đường rất quan trọng bởi nó có thể xảy ra và gây biến cố tim mạch trước khi đái tháo đường được chẩn đoán.Những bằng chứng gần đây khuyến cáo nên bắt đầu thường quy liệu pháp hạ lipid máu cho các bệnh nhântrẻ mắc đái tháo đường ở cả 2 type. Bởi lẽ đái tháo đường làm giảm tuổi thọ ở nhóm bệnh nhân này, nên việc phòng ngừa rối loạn lipid máu càng sớm càng tốt.

Ở những bệnh nhân đề kháng insulin lúc trẻ và phát triển thành đái tháo đường type 2 do béo phì quá mức hoặc do kiểu gen thì nguy cơ tim mạch lại vô cùng cao.Ở bệnh nhânđái tháo đường nguy cơ tim mạch thường do kết hợp đồng thời nhiều yếu tố như béo phì, tăng huyết áp, rối loạn lipid máu. Các nghiên cứu hiện tại chỉ ra rằng tỉ lệ mới mắc bệnh tim mạch gia tăng là do điều trị chưa kiểm soát tốt huyết áp và lipid máu.Qua đó nhắc nhở chúng ta lợi ích của liệu pháp hạ lipid máu là vô cùng lớn.

Statins được xem như là thuốc đầu tay ở bệnh nhân đái tháo đường type 2, thậm chí khi vừa chẩn đoán, mà không cần quan tâm các yếu tố nguy cơ khác. Chỉ khác ở chỗ nếu bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy co tim mạch thì khuyến cáo dùng statins liều cao. Gần đây đã có nhiều thuốc mới đã và đang được đưa vào sử dụng và nghiên cứu, các khuyến cáo mới về điều trị rối loạn mỡ máu cũng không ngừng được cập nhật. Bài viết này cập nhật các thuốc mới và các hướng dẫn điều trị rối loạn mỡ máu mới ở bệnh nhân đái tháo đường hiện nay.

  1. SINH LÝ BỆNH CỦA RỐI LOẠN LIPID MÁU DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG.

Dạng rối loạn lipid máu thường gặp nhất là tăng triglyceride có liên quan với tăng độ tập trung triglyceride giàu lipoproteins, mà thành phần chính của chất này là các phân tử lớn lipoproteins trọng lượng phân tử rất thấp [ VLDL1] và các phần nhỏ của VLDL1. Nồng độ HDL giảm [chủ yếu do giảm số lượng phân tử HDL2 thứ phát do tăng dị hóa HDL], và LDL bình thường hoặc tăng nhẹ với LDL dạng phân tử nhỏ đậm đặc [sdLDL] chiếm ưu thế là những nhân tố mạnh gây xơ vữa. Còn nhiều phân tử chưa thể đo được trong xét nghiệm LDL thường quy. Khi quá trình glycat hóa và oxi hóa của các phân tử tăng lên dẫn đến tăng nguy cơ tim mạch và mục tiêu chính của điều trị ở bệnh nhân đái tháo đường là kiểm soát các quá trình đó.

Insulin có vai trò quan trọng trong điều hòa chuyển hóa lipid. Nó hoạt động tại gan bằng cách ức chế sản xuất VLDL, tăng số lượng thụ thể LDL, giảm acid báo tự do và giảm sản xuất ApoB. Thêm vào đó, insulin ức chế hormon nhạy lipase trong tế bào mỡ, qua đó kích hoạt phân giải lipoprotein trong hệ tuần hoàn và làm tăng dị hóa chilomycron. Lipids có thể bất thường cả về số lượng, chất lượng và dược động học [ hình 1, Bảng 1]

Hình 1. Sinh lý bệnh của rối loạn lipid do đái tháo đường [5]

Bảng 1. Các thay đổi chính trong chuyển hóa của lipoproteins ở bệnh nhân đái tháo đường 2 [1]

Lipoproteins Thay đổi về số lượng Thay đổi về chất lượng Thay đổi về dược động học/ chuyển hóa
LDL Không đổi hoặc tăng nhẹ Tăng tỉ lệ phân tử nhỏ đậm đặc

Tăng oxi hóa

Glycat hóa

Giảm dị hóa
HDL Giảm độ tập trung trong máu Glycat hóa Tăng dị hóa
VLDL Tăng độ tập trung trong máu Tăng tỉ lệ phân tử lớn [VLDL1]

Glycat hóa

Tăng sản xuất

Giảm đi hóa

Đôi khi nồng độ LDL trong giới hạn bình thường và các xét nghiệm lipid thường dùng trên lâm sàng không phải bao giờ cũng thấy được xu hướng xấu đi của rối loạn lipid do đái tháo đường, nên tốt hơn chúng ta nên nhìn ở khía cạnh non-HDL.Non-HDL-C hay Apo-B là những chất chỉ điểm tốt hơn triglycerides hay LDL-c, thêm vào đó chúng cũng là mục tiêu điều trị hàng thứ hai. Ở các bệnh nhân nguy cơ cao, mục tiêu Non-HDL-C < 2.6 mmol/L [

Chủ Đề