Tại sao Việt Nam phát triển mạnh cây công nghiệp lâu năm ở miền đồi núi thấp

Câu 2 trang 97, SGK Địa lí 12.

Chứng minh rằng việc đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả góp phần phát huy thế mạnh của nông nghiệp nhiệt đới ở nước ta?

Việc đẩy mạnh sản xuất cây công nghiệp và cây ăn quả góp phần phát huy thế mạnh của nông nghiệp nhiệt đới ở nước ta, vì:

* Nước ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả:

- Điều kiện tự nhiên:

+ Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp thích hợp cho trồng cây công nghiệp và cây ăn quả.

+ Đất trồng đa dạng gồm: đất feralit đồi núi, đất trên đá vôi và đá badan thuận lợi để trồng cây công nghiệp lâu năm; đất phù sa châu thổ và cát pha đồng bằng ven biển phát triển cây công nghiệp ngắn ngày.

+ Khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa và phân hóa đa dạng thuận lợi để phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả với cơ cấu đa dạng phù hợp từng vùng miền.

- Kinh tế - xã hội:

+ Đường lối, chủ trương phát triển của nhà nước về sự phát triển cây công nghiệp cây ăn quả.

+ Dân số đông, lao động dồi dào, có kinh nghiệm trồng cây công nghiệp, cây ăn quả.

+ Cả nước về cơ bản đã hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp.

+ Thị trường tiêu thụ rộng lớn.

* Việc phát triển cây công nghiệp và cây ăn quả mang lại ý nghĩa quan trọng,phát huy thế mạnh của nông nghiệp nhiệt đới:

- Khai thác và phát huy hiệu quả các thế mạnh về tự nhiên và kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng

- Cung cấp nguồn nguyên liệu phong phú cho công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm.

- Cung cấp mặt hàng xuất khẩu, mang lại nguồn thu ngoại tệ.

- Góp phần giải quyết việc làm, phân bố lại dân cư và nguồn lao động.

- Thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở những vùng khó khăn, đặc biệt vùng miền núi.

Phát triển cây công nghiệp lợi thế ở miền núi

Nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh về đất đai và nguồn lao động dồi dào trên địa bàn, những năm qua, các huyện miền núi của tỉnh đã đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp nhằm tạo nguồn nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, góp phần xóa đói, giảm nghèo.

Người dân xã Phúc Thịnh [Ngọc Lặc] thu hoạch mủ cao su.

Để phát triển cây công nghiệp theo hướng mở rộng diện tích hợp lý ở những vùng có điều kiện, các huyện miền núi của tỉnh đã vận dụng các cơ chế, chính sách của tỉnh. Đồng thời, ban hành chính sách hỗ trợ phù hợp với địa phương để thu hút các tổ chức, cá nhân đầu tư thâm canh tăng năng suất, phát triển các vùng nguyên liệu có giá trị kinh tế cao... Thu hút các doanh nghiệp, thành phần kinh tế, cá nhân vào địa bàn để đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến tại chỗ các sản phẩm cây công nghiệp. Khuyến khích người dân mạnh dạn chuyển đổi những diện tích đất đồi nương trồng lúa, rau màu năng suất thấp sang trồng các loại cây công nghiệp hiệu quả kinh tế cao hơn. Tổ chức tập huấn chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất cho người dân... Đến nay, trên địa bàn các huyện miền núi đã hình thành các vùng sản xuất chuyên canh cây công nghiệp, phục vụ chế biến. Phát triển 130.000 ha rừng sản xuất tập trung, chủ yếu là cây keo, xoan ở các huyện Như Xuân, Như Thanh, Thường Xuân, Quan Sơn, Quan Hóa, Mường Lát... Hàng năm, khai thác khoảng 10.000 ha, sản lượng bình quân 720.000m3/năm, giá trị sản xuất khoảng 1.017 tỷ đồng, chiếm 54,48% giá trị sản xuất ngành lâm nghiệp; giá trị xuất khẩu sản phẩm gỗ 84,72 triệu USD; giải quyết việc làm cho 104.000 lao động. Tại các vùng sản xuất việc liên kết theo chuỗi giá trị đang được các doanh nghiệp, chủ rừng thực hiện và xây dựng các phương án quản lý rừng bền vững. Bên cạnh đó, việc phát triển rừng sản xuất còn góp phần tăng độ che phủ rừng, điều tiết nguồn nước, chống xói mòn và sạt lở đất... bảo đảm nguồn cung ứng nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu. Ngoài ra, trên địa bàn các huyện miền núi có hơn 131.000 ha tre, luồng, tập trung tại các huyện Quan Hóa, Quan Sơn, Bá Thước, Lang Chánh, Thường Xuân, Ngọc Lặc. Sản lượng khai thác hàng năm khoảng 60,9 triệu cây luồng và 81.243 tấn nguyên liệu giấy ngoài gỗ, phục vụ xuất khẩu và chế biến... giá trị sản xuất 592,9 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 102.000 lao động. Đối với những cây công nghiệp hàng năm, đã hình thành các vùng chuyên canh cây mía đường với diện tích khoảng 24.400 ha, sắn nguyên liệu 13.500 ha, cây gai xanh khoảng 65 ha... tập trung ở các huyện Thạch Thành, Ngọc Lặc, Thọ Xuân, Cẩm Thủy, Bá Thước, Thường Xuân, Như Xuân, Nông Cống, Như Thanh... phục vụ nguồn nguyên liệu chế biến tại chỗ cho các nhà máy đóng trên địa bàn miền núi. Đồng thời, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, các huyện miền núi còn chú trọng thu hút doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy chế biến các sản phẩm từ cây công nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh liên doanh, liên kết doanh nghiệp với người nông dân, áp dụng những công nghệ, mô hình tiên tiến, phù hợp, bảo đảm thị trường tiêu thụ sản phẩm nhất là đối với những cây công nghiệp chủ lực của tỉnh.

Tuy nhiên, thực tế phát triển cây công nghiệp trên địa bàn các huyện miền núi những năm gần đây cho thấy, các loại cây này đang phải chịu sự cạnh tranh với nhiều loại cây trồng khác, nhất là về diện tích và hiệu quả kinh tế. Giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích thấp, hiệu quả kinh tế mang lại không cao so với nhiều đối tượng cây trồng khác trên đất đồi núi. Đối với cây cao su, do giá mủ thấp một số diện tích không được quan tâm chăm sóc; nhiều diện tích đã sắp hết chu kỳ khai thác. Dự kiến có khoảng 2.500 ha cây cao su sẽ tiếp tục được chuyển đổi sang cây trồng khác trong những năm tới.

Để phát triển bền vững cây công nghiệp trên địa bàn khu vực miền núi, các sở, ngành có liên quan của tỉnh, các địa phương đang tập trung rà soát diện tích các loại cây phục vụ công nghiệp chế biến hiện có để đánh giá hạn chế, kết quả và bổ sung diện tích các loại cây trồng có thế mạnh. Đồng thời, xây dựng các chính sách cụ thể đối với rừng nghèo kiệt; tổ chức liên doanh, liên kết với người dân nhằm nâng cao giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Tổ chức thực hiện theo quy hoạch tổng thể phát triển nông nghiệp tỉnh Thanh Hóa đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 theo Quyết định 4833/QĐ-UBND ngày 31-12-2014 của UBND tỉnh. Xây dựng kế hoạch phát triển diện tích các loại cây trồng nhằm bảo đảm được mối liên kết giữa nhà máy chế biến với vùng nguyên liệu.

Bài và ảnh: Hải Đăng

HỎI ĐÁP VỀ DỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM

Ngày đăng:10/12/2017 - 22:22

HỎI ĐÁP VỀ ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN VIỆT NAM

Câu 1: Vị trí địa lí nước ta “nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, thiên về phía chí tuyến hơn là phía xích đạo”, lại ở bờ đông bán đảo Đông Dương. Điều đó có ý ngiã như thế nào đối với sự hình thành các đặc điểm địa lí tự nhiên độc đóa của nước ta?

ĐÁP: Phần đất liền nước ta có toạ độ địa lí từ 8030’B đến 23022’B và từ 1020Đ đến 1090Đ. Do vị trí như vậy nên nước ta có những đặc điểm sau:

- Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới của nửa cầu Bắc, ở phía Đông Nam của châu Á, trong vùng gió mùa nhiệt đới điển hình, nên có khí hậu nóng, ẩm. Một năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô.

- Nước ta không bị hoang mạc và bán hoang mạc như một số nước có cùng vĩ độ ở Tây Nam Á và châu Phi.

- Nhờ nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, lượng mưa dồi dào nên thực vật phát triển xanh tốt quanh năm. Đặc biệt vị trí đó lại là nơi hội tụ của các hệ thực vật Ấn – Miến từ tây sang và Mã Lai – Inđônexia từ phía nam tới.

- Bờ biển nước ta dài, có nhiều vũng, vịnh. Ngoài biển lại có nhiều đảo và quần đảo. Thềm lục địa chứa nhiều tài nguyên [khoáng sản, hải sản] có giá trị. Ảnh hưởng của biển vào sâu trong đất liền. Tuy nhiên, hàng năm cũng có nhiều cơn bão gây tác hại cho sản xuất và sinh hoạt.

Câu 2: “Diện tích phần đất liền nước ta thuộc loại trung bình so với nhiều nước khác trên thế giới, nhưng lãnh thổ toàn vẹn của nước ta thì rất rộng lớn”. Nói như vậy có gì mâu thuẩn không? Tại sao?

ĐÁP: Nói như vậy không mâu thuẫn, bởi vì lãnh thổ toàn vẹn của nước ta bao goầm cả phần đất liền, các đảo, quần đảo và vùng biển thuộc chủ quyền nước ta. Diện tích phần đất liền nước ta khoảng 330.363 km2. Nếu so với nhiều nước khác trên thế giới thì không lớn quá, nhưng cũng không nhỏ quá. Ngoài phần đất liền, nước ta còn có một vùng biển rộng gấp nhiều lần so với phần đất liền, với hang nghìn hòn đảo lớn nhỏ, nằm rải rác hoặc hợp thành những quần đảo trong Biển đông, như Hoàng Sa, Trường Sa v.v…Như vậy cả phần đất liền lẫn vùng biển và các đảo, quần đảo của nước ta hợp lại thì lãnh thổ toàn vẹn của nước CHXHCN Việt Nam không nhỏ.

Câu 3: Nước ta có bao nhiêu tỉnh và thành phố. Miền Bắc, miền Trung và miền Nam có những tỉnh và thành phố nào?

ĐÁP: Theo tài liệu chính thức năm 2009, nước ta có 58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương.

- Miền Bắc có 23 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Giang, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Thọ, Hà Nam, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và 2 thành phố trực thuộc trung ương là Hà Nội và Hải Phòng. Ngoài ra, có 19 thành phố thuộc tỉnh là: Việt trì [thuộc Phú Thọ] và Hạ Long [thuộc Quảng Ninh]…

- Miền Trung có 18 tỉnh gồm: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng, có 18 thành phố thuộc tỉnh là: Thanh Hoá [thuộc Thanh Hoá], Vinh [thuộc Nghệ An], Huế [thuộc Thừa Thiên - Huế], Quy Nhơn [thuộc Bình Định], Nha Trang [thuộc Khánh Hoà] và Đà Lạt [thuộc Lâm Đồng]…

- Miền Nam có 15 tỉnh gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Hậu Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Có 2 thành phố trực thuộc Trung ương là: Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Ngoài ra, còn có 11 thành phố thuộc tỉnh là: Vũng Tàu [thuộc Bà Rịa – Vũng Tàu], Biên Hoà [thuộc Đồng Nai], Mĩ Tho [thuộc Tiền Giang]…

Câu 4: Các đảo và quần đảo Côn Đảo, Phú Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa thuộc các tỉnh nào?

ĐÁP: Côn đảo là một huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phú Quốc là một huyện thuộc tỉnh Kiên Giang. Hoàng Sa là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng, còn Trường Sa là một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Câu 5: Ở nước ta, tỉnh nào có diện tích lớn nhất, nhỏ nhất?

ĐÁP: Theo số liệu, cho đến năm 2009:

1. Tỉnh có diện tích lớn nhất là Nghệ An [16490.7 km2]. Tỉnh có diện tích nhỏ nhất là Bắc Ninh [822.7 km2].

2. Những tỉnh và thành phố có số dân đông nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh [7396.5 nghìn người], Hà Nội [6561.9 nghìn người], Thanh Hoá [3406.8 nghìn người], Nghệ An [2917.4 nghìn người], Đồng Nai [2596.4 nghìn người], An Giang [2149.5 nghìn người]. Những tỉnh và thành phố có mật độ dân số lớn nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh [3530 người/km2], Thành phố Hà Nội [1962 người/km2], Hưng Yên [1226 người/km2], Hải Phòng [1221 người/km2].

Câu 6: Tại sao nói Biển Đông nước ta là một biển lớn và nửa kín?

ĐÁP: Biển Đông bao bọc nước ta ở phần phía đông và phía nam, chủ yếu là phía đông nên có tên gọi là Biển Đông [Việt Nam].

Đây là một biển lớn, đứng hàng thứ 2 về diện tích trong số các biển ven Thái Bình Dương. Biển rộng trung bình trên 1000 km, dài khoảng trên 3000 km, diện tích khoảng 3.447.000 km2.

Đặc điểm nổi bật của Biển Đông là tính chất biển nửa kín của nó, được bao bọc 4 phía bởi lục địa châu Á, các quần đảo Philipin, Malaixia và Inđônêxia, chỉ thông ra Thái Bình Dương và các biển lân cận bằng những eo biển hẹp. Ý nghĩa của tính chất biển nửa kín ở chỗ nó làm ảnh hưởng đến đặc điểm của các dòng biển, của thuỷ triều và cả của giới sinh vật [các đàn cá,…]

Câu 7: Những đặc điểm cơ bản nào chứng tỏ nước ta có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm?

ĐÁP: Nằm gọn trong vùng nội chí tuyến nửa cầu Bắc từ 8030’B đến 23022’B, đồng thời lại nằm gọn trong vùng hoạt động của gió mùa Đông Nam Á, nước ta có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, với đặc điểm nổi bật là nóng ẩm và mưa nhiều theo mùa.

- Nhiệt độ trung bình cả năm trong toàn quốc trên 230C, mỗi năm có ít nhất 1200 giờ nắng, cán cân bức xạ quanh năm dương. Tổng lượng nhiệt hoạt động xê dịch từ 8000 đến 10.0000C.

- Lượng mưa trung bình hang năm bằng 1700 – 1800mm, có nơi vượt quá 3000mm [tuy nhiên cũng có nơi chỉ có trên 500mm]. Lượng bốc hơi: 700 – 800mm. Nước ta nói chung thừa ẩm.

- Trong một năm có 2 mùa rõ rệt: mùa khô bắt đầu từ tháng 10 đến tháng 4 trùng hợp với mùa gió Đông Bắc thịnh hành và mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 trùng hợp với mùa có gió mùa từ các biển ấm thổi vào theo hướng đông nam và tây nam.

Câu 8: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ Việt Nam có nói đến các mảnh nền cổ. Vậy nền cổ là gì? Và ở nước ta có những mảng nền cổ nào?

ĐÁP: Nền là một yếu tố cấu trúc cơ bản của vỏ Trái Đất. Nền cổ là một bộ phận của lục địa trước kia được hình thành cách đây hang triệu năm. Các loại đá cấu tạo nên nền cổ đã bị biến chất rất mạnh, trở nên rắn chắc và không bị tác động uốn nếp lại vào những thời kì tạo núi sau này. Các hoạt động địa chất mạnh cũng chỉ có thể làm cho các nền cổ bị nứt vỡ thành từng mảng, có bộ phận được nâng cao, có bộ phận bị sụt xuống. Các bộ phận được nâng cao thường trở thành các cao nguyên rộng lớn, còn các bộ phận sụt lún thường bị các lớp trầm tích dày phủ lên, có khi dày tới 5000 – 8000m. Các lớp trầm tích này có thể bị uốn nếp trong các chu kì tạo núi trẻ hơn hoặc bị các khối mắc ma xâm nhập hoặc phún xuất tạo tạo núi lửa.

Trên lãnh thổ Namcó các mảng nền cổ [còn gọi là các địa khối] tương đối lớn là: mảng nền cổ Vòm Sông Chảy ở phía Bắc và mảng nền cổ Kontum ở phíaNamNgoài ra, còn có những mảng nền cổ nhỏ hơn lộ ra như các khối Phanxipăng, Sông Mã, Puhuat, Rào Cỏ. Mảng nền cổ Kontum là bộ phận phía đông của nền cổ Inđôxini bao gồm cả vùng Hạ Lào, miền Đông Thái Lan và lãnh thổ Campuchia.

Câu 9: Trong lịch sử phát triển lãnh thổ, các núi non ở nước ta đã được hình thành trong những thời kì nào?

ĐÁP: Trong lịch sử phát triển của lớp vỏ Trái Đất nói chung, và của cả châu Á, các nhà địa chất học đã xác định được các thời kì xảy ra các vận động tạo núi lớn sau đây:

- Thời kì trước Đại Cổ Sinh cách đây hàng nghìn triệu năm đã có một vài lần xảy ra các vận động tạo núi.

- Trong Đại Cổ Sinh, cách đây từ 285 triệu năm đến 570 triệu năm đã có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:

a] Vận động tạo núi Calêđôni cách đây trên 400 triệu năm.

b] Vận động tạo núi Hecxini cách đây khoảng 300 triệu năm.

- Trong Đại Trung Sinh cũng có 2 thời kì vận động tạo núi lớn:

a] Vận động tạo núi Inđôxini cách đây khoảng trên 200 triệu năm.

b] Vận động tạo núi Kimêri cách đây khoảng trên 150 triệu năm.

- Trong Đại Tân Sinh, vào kỉ Đệ Tam, cách đây từ 25 đến 67 triệu năm, có thời kì vận động tạo núi hết sức mãnh liệt. Đó là vận động tạo núi Himalaya – Anpi.

Các thời kì tạo núi lớn đó đều có ít nhiều ảnh hưởng đến sự hình thành địa hình trên lãnh thổ nước ta.

Trước hết, cách đây hang nghìn triệu năm, chắc chắn là trên lãnh thổ nước ta đã có nhiều núi xuất hiện. Những núi đó dần dần đã bị phá huỷ, trở thành các nền cổ mà một vài bộ phận còn sót lại cho đến ngày nay.

Trong vận động tạo núi Calêđôni ở đầu Đại Cổ Sinh, ở miền Bắc các khối nền cổ Vòm Sông Chảy, Phanxipăng và Sông Mã đã được nâng cao và mở rộng them. Ở phía Nam nền cổ Inđôxini cũng bị nứt vỡ mạnh và nhiều bộ phận đã bị sụt lún xuống sâu.

Vận động tạo núi Hecxini xảy ra tương đối yếu ở miền Bắc, chắc chăn đã hình thành nên nhiều dãy núi uốn nếp đá vôi, nhưng các dãy núi này về sau lại bị các vận động tạo núi trong Đại Trung Sinh phát triển tiếp hoặc cải tạo lại. Ở miền Nam vận động tạo núi Hecxini lại khá mạnh, phần lớn các núi non ở phía bắc Đà Nẵng và ở Nam Trung Bộ đều xuất hiện trong thời kì này. Ngoài ra, suốt từ Trường Sơn Bắc trở xuống phía nam đều có hiện tượng xâm nhập hoặc phún xuất măcma.

Trong các vận động tạo núi Trung Sinh, ở miền Bắc hình thành các dãy núi đá vôi dọc song Đà, chạy dài suốt từ Sơn La đến Ninh Bình và các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc đều chụm về Tam Đảo. Nhiều hiện tượng xâm nhập và phún xuất măcma cũng đã xảy ra. Trong Đại Trung Sinh, hầu hết lãnh thổ Việt Namđã có chế độ lục địa. Cũng từ đây, tác động bào mòn địa hình của các ngoại lực đã kéo dài khoảng 50 triệu năm, làm cho bề mặt lãnh thổ nước ta bị san bằng và núi non thấp đi rõ rệt.

Trong Đại Tân Sinh, do ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya xảy ra với nhiều đợt cách nhau, nên địa hình nước ta được trẻ hoá lại. Ở phía bắc, lãnh thổ nước ta đã được cấu tạo vững chắc rtừ cuối Đại Trung Sinh và gắn liền vào khối Hoa Nam, nên ảnh hưởng của vận động tạo núi Himalaya chỉ gây nên các nếp uốn ngầm, nâng cao ở nơi này, làm sụt lún, đứt gãy ở những nơi khác. Do vận động diễn ra thành nhiều đợt có thời gian, cách nhau khá xa, nên địa hình cũng được nâng lên thành nhiều bậc có độ cao khác nhau.

Một ảnh hưởng quan trong nữa của vận động Himalaya là hoạt động mạnh mẽ của macma đã tạo nên những khu vực ba dan rải rác [như ở Điện Biên, Thanh Hoá, Phủ Quỳ, Vĩnh Linh…]. Đặc biệt, hiện tượng phún xuất xảy ra rất mạnh ở phía nam, đá ba dan trào ra đã phủ những diện tích rộng trnê các cao nguyên nam Trung Bộ và miền Đông Nam Bộ.

Câu 9: Địa máng là gì? Hoạt động của địa máng như thế nào?

ĐÁP: Cũng giống như nền, địa máng là một yếu tố cấu trúc của vỏ Trái Đất. Đó là những bộ phận trũng của vỏ Trái Đất bị nước biển phủ ngập. Trải qua một thời gian rất dài, trong địa máng có trầm tích lắng đọng [chiều dày có thể tới 10 – 15 km]. Tiếp sau thời kì lắng đọng trầm tích là thời kì hoạt động của địa máng. Các lớp trầm tích được uốn nếp và nâng lên trong các vận động tạo núi. Ở vị trí địa máng bị nước biển phủ ngập trước kia, nay có các dãy núi nổi lên. Độ cao của núi tuỳ thuộc vào cường độ nâng lên mạnh hay yếu. Như vậy có thể coi địa máng là nơi sinh ra các dãy núi uốn nếp, còn vật liệu trầm tích trong địa máng là nguyên liệu hình thành các loại đá cấu tạo nên các dãy núi.

Trong quá trình phát triển lâu dài của một lãnh thổ [qua các thời đại địa chất], sự kế tiếp của các giai đoạn: lúc là địa máng, lúc trở thành nền, rồi lại địa máng…thường xảy ra. Đó là các giai đoạn có chế độ: biển, rồi lục địa, rồi lại biển,…những thời kì biển xuất hiện thường được gọi là thời kì biển tiến, còn các thời kì lục địa xuất hiện là thời kì biển thoái. Ở nước ta, các địa máng cũng đã được hình thành và tồn tại trước khi có các vận động tạo núi xảy ra.

Câu 10: Hiện tượng núi non, sông ngòi của nước ta trẻ lại được biểu hiện như thế nào?

ĐÁP: Hiện tượng núi non, song ngòi của nước ta được trẻ lại biểu hiện ở chỗ: hình dạng của núi trở nên sắc sảo, độ cao tăng them, các song ngòi có độ dốc lớn hơn, nước chảy xiết hơn…

Câu 11: Tại sao các dãy núi ở nước ta lại có hướng Tây Bắc – Đông Nam và hướng vòng cung?

ĐÁP: Các dãy núi của nước ta ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có hướng Tây Bắc – Đông Nam rõ rệt là vì các dãy núi này đã được hình thành trong đầu mút của địa máng cổ kéo dài từ phía Himalaya tới theo hướng Tây Bắc – Đông Nam .

Các núi có hướng vòng cung chủ yếu là được hình thành ở rìa phía đông của các mảng nền cổ, cho nên hình dạng của các mảng nền này cũng có tác dụng định hướng cho các nếp uốn hình thành nên chúng.

Câu 12: Trong việc tạo nên địa hình, nội lực và ngoại lực mâu thuẩn nhưng thống nhất với nhau. Hiểu điều đó như thế nào cho đúng bản chất?

ĐÁP: Nội lực là những lực có nguồn gốc từ sâu trong lòng Trái Đất, có vai trò chủ yếu là kiến tạo các đơn vị cấu trúc ở trên bề mặt Trái Đất như nền, các mạch nùi uốn nếp, đoạn tầng, núi lửa v.v…

Ngoài lực là những lực tác động trên bề mặt Trái Đất, còn gọi là lực xâm thực hay tác nhân xâm thực, ví dụ sức gió, sức nước, nhiệt Mặt Trời, sóng biển v.v…Về bản chất, đây là hai lực trái ngược nhau và mâu thuẫn với nhau, vì một bên thì “xây”, còn một bên thì “phá”, nhưng chúng kết hợp với nhau một cách chặt chẽ trong việc tạo nên các dạng địa hình hiện nay trên bề mặt Trái Đất. Nội lực vừa tạo nên các đơn vị cấu trúc thì đồng thời ngoại lực đã làm thay đổi hình dạng. Ví dụ khối núi Ba Vì, nguyên là những lớp đá trầm tích được uốn lên thành một nếp, rồi các tác nhân xâm thực xói mòn những nơi mềm làm cho những nơi rắn nhô lên thành ba ngọn, hay “va vì” núi.

Những địa hình ta trông thấy trên mặt các lục địa đều hình thành như thế, do tác động của hai lực: nội lực “xây dựng” và ngoại lực “xâm thực”. Đó cũng chính là quy luật chung của sự hình thành địa hình.

Câu 13: Hình thái các đồng bằng Bắc Bộ, Nam Bộ và đồng bằng duyên hải miền Trung có liên quan tới lịch sử phát triển của chúng như thế nào?

ĐÁP: 1. Đồng bằng Bắc Bộ là đồng bằng châu thổ, rộng 16000km2, được bồi đắp bởi phù sa của các hệ thống sông Thái Bình và sông Hồng. Là một châu thổ nên đồng bằng này có hình một tam giác đỉnh ở Việt Trì và thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, với độ cao giảm dần từ 10 – 15m xuống đến độ cao sát mặt biển. Điểm nổi bật của đồng bằng này là có các ô trũng, được ngăn cách bởi hệ thống đê nhân tạo làm cho quá trình bồi đắp chưa hoàn thành, nhiều nơi còn rất trũng. Ra đến biển là dãy đất cồn tạo nên do tác động của sóng gió. Cồn cát tập trung nhiều nhất ở quãng giữa sông Trà Lí và sông Hồng. Do bị giới hạn bởi hệ thống đê, nên phù sa sông Hồng được mang ra cửa sông là cho diện tích đồng bằng càng mở rộng về phía biển, tốc độ khoảng 80m/năm.

2. Đồng bằng Nam Bộ là danh từ gọi chung 2 khu vực Đông Nam Bộ và châu thổ Cửu Long mà ranh giới chạy ngang qua thành phố Hồ Chí Minh.

- Khu vực Đông Nam Bộ xưa là một đồng bằng do phù sa sông bồi đắp lên trên đá gốc sa diệp thạch Trung sinh đại của sụt võng Nam Bộ. Trong kỉ Đệ tứ, khu vực phía đông của đồng bằng lại bị lôi cuốn vào vận động nâng lên của khu vực núi cực Nam Trung Bộ lên tới độ cao 100m [độ cao của các quả đồi thấp ven suốt dải đồng bằng duyên hải Việt Nam], trong khi đó phần còn lại bị sụt sâu xuống hình thành một vịnh biển, trong đó nổi lên một số đảo nhỏ. Đồng thời các hoạt động phun trào ba dan xảy ra, dung nham ba dan phủ lên trên lớp phù sa cổ.

Châu thổ sông Cửu Long có một lịch sử rất trẻ. Cách đây 4500 năm biển vẫn lấn vào tận Đồng Tháp Mười và châu thổ sông Cửu Long vẫn bị ngập nước tới 4m. Khoảng 2000 năm sau, mặc dù khối lượng phù sa khổng lồ của sông Cửu Long bồi đắp rất nhanh, nhưng độ cao trung bình của châu thổ vẫn chỉ khoảng 2m trên mực nước biển. Trong khi đó cửa triều ở vùng cửa sông dâng cao tới 3 – 4m. Vì thế mà đỉnh của châu thổ tính theo phạm vi ảnh hưởng của thuỷ triều lên đến tận PhnômPênh, cách biển 300km. Hiện nay, châu thổ sông Cửu Long vẫn tiếp tục mở rộng, nhưng do ảnh hưởng của hải lưu mà quá trình đó chỉ phát triển mạnh về phía tây nam [mũi Cà Mau] nhânh tới 60 – 80m/năm. Do lịch sử phát triển của châu thổ như vậy mà đất mặn, đất phèn, đất lầy chiếm một tỉ lệ diện tích đáng kể. Nước mặn có thể xâm nhập tới 1/3 diện tích châu rhổ.

Châu thổ sông Cửu Long hiện nay là một đồng bằng lớn, diện tích tới 40000km2, thấp và rất bằng phẳng, độ dốc bình quân 1m/km. Sông không có đê nên hàng năm vào mùa lũ, nước sông vẫn tràn bờ và làm ngập đến trên 1 triệu ha đất đai. Địa hình châu thổ cao thấp không đều. Cao là các gờ đất ven sông do phù sa bồi, có nhiều ở phía An Giang. Hai nơi trũng úng là Đồng Tháp Mười và Hà Tiên.

3. Đồng bằng duyên hải miền Trung là dải đồng bằng ven biển bị chia cắt thành từng khúc bởi các nhánh núi ăn lan ra sát biển, tạo thành các đồng bằng nhỏ hẹp. Từ bắc vào nam có các đồng bằng Nghệ An [1750km2], Hà Tĩnh [1660km2], Quảng Bình [640km2], Quảng Trị [610km2], Thừa Thiên [900km2], Quảng Nam [1450km2], Quảng Ngãi [1200km2], Bình Định [1700km2], Phú Yên [820km2], Khánh Hoà [400km2], Phan Rang [220km2] Và Phan Thiết [310km2].

Đặc điểm chung của các đồng bằng này là có độ dốc nghiêng từ tây sang đông. Đồng bằng rất hẹp ngang, đất phần lớn xấu.

Đây là loại đồng bằng mài mòn – bồi tụ. Lịch sử phát triển của chúng có liên quan mật thiết với sự bào mòn chân núi do biển, sau đó được các vật liệu của sông và biển bồi tụ thành.

Câu 14: Địa hình Kacxtơ ở Việt Nam có nhiều nét độc đáo khác với nhiều nơi trên thế giới. Vậy những nét độc đáo đó là gì? Ở nước ta có những kiểu và miền Kacxtơ nào đáng chú ý?

ĐÁP:

Từ “ Kacxtơ” vốn là một danh từ riêng, chỉ tên của một cao nguyên đá vôi ở dãy núi Anpơ Đinaric [Nam Tư cũ]. Trong các từ điển hiện nay Kaxctơ được định nghĩa là quá trính tác động về mặt hóa học và một phần về mặt cơ học của nước ngầm vào các loại đá dễ hòa tan như đá vôi

Diện tịch Kaxctơ ở nước ta rộng 50.000 km2, chiếm 1/6 diện tích đất nước. Các miền Kaxctơ nước ta nằm trong phạm vi Kaxctơ nhiệt đới Đông Nam Á là nơi diện tích Kaxctơ rộng lớn nhất thế giới.

Do điều kiện nhiệt đới ẩm, nên các quá trình phong hóa vật lý, hóa học, sinh học diễn ra mạnh mẽ, tạo nên nhiều dạng Kaxctơ biểu hiện tính chất độc đáo của địa hình nước ta là địa hình Kaxctơ già. Có 2 dạng cơ bản:

1. Dạng do quá trình gặm mòn là chủ yếu tạo nên: các hố hút nước, giếng Kaxctơ, lũng Kaxctơ.

2. Dạng do hoạt động băng tụ chủ yếu tạo nên: các thạch nhũ trong hang động [vú đá, măng đá, rèm đá, cột đá…].

Ở nước ta, nếu phân theo hướng hình thái phát sinh thì có 4 kiểu Kaxctơ chủ yếu:

+ Kaxctơ trụi : Kaxctơ lộ trực tiếp ra bề mặt đất.

+ Kaxctơ phủ : Kaxctơ trên bề mặt có phủ một lớp vật liều không hòa tan.

+ Kaxctơ bị chôn vùi : quá trình Kaxctơ đã ngừng hoạt động, trên bề mặt đá Kaxctơ vẫn còn tồn tại các dạng địa hình Kaxctơ cổ sót lại.

+ Kaxctơ cổ: Kaxctơ được hình thành trong điều kiện địa lí khác với điều kiện địa lý hiện nay và chưa bị phá hủy do các quá trình ngoại lực.

Các miền Kaxctơ ở nước ta gồm có: miền Kaxctơ ở vùng trũng đông bắc [ở đây có các vùng Kaxctơ Hạ Long đẹp và nổi tiếng và Kaxctơ Bắc Sơn có nhiều hang động lớn vào bậc nhất nước ta], miền Kaxctơ khối nâng Việt Bắc [có hồ Ba Bể], miền Kaxctơ ở vùng trũng sông Đà [vùng Kaxctơ Nho Quan ở Ninh Bình được coi như là một vịnh Hạ Long trên cạn]; miền Kaxctơ từ khối nâng sông Mã đến vùng trũng Cửu Long [có động Phong Nha – một hang Kaxctơ trẻ - một kì quan ở Quảng Bình].

Câu 15: Sách giáo khoa Địa lí 8 có nói: Vị trí nước ta đã làm cho khí hậu có những nét độc đáo. Vậy giải thích như thế nào?

Đáp: Vị trí nước ta có những đặc điểm sau đây nên đãi làm cho khí hậu có những nét độc đáo:

- Nước ta nằm hoàn toàn trong vòng đai nhiệt đới.

- Nước ta nằm ở trung tâm khu vực gió mùa Đông Nam Á.

- Nước ta có lãnh thổ hẹp từ tây sang động và bài tới 15o vĩ độ từ bắc xuống nam.

- Nước ta nằm trên một bán đảo, tận cùng của lục địa Âu – Á rộng nhất thế giới.

- Nuớc ta giáp Thái Bình Dương ở phía đông và phía nam, chịu ảnh hưởng thường xuyên của các trận bão nhiệt đới, sinh ra trong Thái Bình Dương.

Câu 15: Tại sao nằm trong vòng đai nhiệt đới mà khác với nhiều lãnh thổ khác, nước ta có một mùa đông giá rét. Điều đó có gì trái với quy luật không?

ĐÁP: Nằm trong vòng đại nhiệt đới của nửa cầu Bắc, nước ta quanh năm nhận dược một lượng nhiệt dồi dào, nhiệt độ trung bình năm trên 23oC.Thế nhưng, nước ta lại nằm gọn trong khu vực gió mùa châu Á, quanh năm chịu tác động của khối khí chuyển động theo mùa. Về mùa đông, từ áp cao Xibia rộng lớn, gió thổi xuống theo hướng đông bắc – tây nam mang theo không khí lạnh đến nước ta, gây ra một mùa đông rét. Ở Hà Nội có 3 tháng nhiệt độ trung bình xuống dưới 18oC. Chính vị trí địa lí góp phần làm cho khí hậu nước ta có đặc tính nói trên. Điều đó không có gì trái với quy luật.

Câu 16: Trong sách giáo khoa Địa lí có nêu: “Tổng số nhiệt độ trên 100C trong năm lên tới 80000C”. Điều đó có ý nghĩa gì? Tại sao lại trên 100C?

ĐÁP: Khi nói đặc điểm khí hậu của một quốc gia, người ta thường nói tổng số nhiệt độ trên 10oC là vì: về mặt nông nghiệp, mỗi loại cây trồng trong quá trình sinh trưởng đòi hỏi phải được cung cấp một lượng nhiệt nhất định. Nếu không đạt được lượng nhiệt đó thì hoặc là cây không sống được, hoặc là năng suất sẽ giảm. Lượng nhiệt đó được tính bằng tổng số nhiệt trên 10oC. Nhiệt độ 10oC là nhiệt độ tối thiểu để cây trồng có thể sống được. Tổng số nhiệt độ trên 10oC trong năm càng lớn thì điều đó càng chứng tỏ khả năng thuận lợi cho sự phát triển và cho năng suất cao của các loại cây trồng, không phải một vụ mà nhiều vụ trong năm.

Câu 17: Tính chất phức tạp của khí hậu Việt Nam được thể hiện như thế nào?

ĐÁP: Tính chất phức tạp bắt nguồn từ những biến động trái quy luật của khí hậu. Đó là sự phân hóa của khí hậu theo mùa khác nhau giữa các vùng lãnh thổ [Bắc,Trung, Nam ]. Đó là những biến động thất thường của khí hậu trong năm hay từ năm này sang năm khác [hạn hán, úng lụt, sớm, muộn, dài, ngắn, đậm, nhạt….]. Đó là những biệt lệ khí hậu như mùa đông lạnh có mưa phùn ở Bắc Bộ. Đó là các hiện tượng tiêu cực gay gắt của khí hậu như bão, gió phơn Tây Nam .

Chính ở vào vị trí có sự đắp đổi luân phiên của các khối khí trên một lãnh thổ có hình dạng kéo dài trên gần 15o vĩmà tính chất phức tạp của khí hậu được tăng cường.

Câu 18: Hoạt động của bão ở nước ta như thế nào? Tại sao ở nước ta thời gian hoạt động của bão chậm dần từ Bắc vào Nam ?

ĐÁP: Bão được hình thành trên dải hội tụ nhiệt đới. Đó là một vùng áp thấp gần tròn với đường kính khoảng 200-300 km. Trong vùng bão, gió thổi xoáy rất mạnh gây nên dòng thăng mạnh mẽ, hình thành mây và mưa dữ dội trong một phạm vi rộng lớn. Đặc biết tại vùng trung tâm, gọi là mắt bão có gió yếu hay lặng gió và trời quang mây tạnh

Bão đổ bộ vào Việt Nam thường xuất phát từ tây Thái Bình Dương [10o – 20oB và 130o - 145oĐ] hoặc ngay ở Biển Đông [7o - 20oB và 112o – 121oKĐ] vào thời kì mà nhiệt độ nước biển nóng trên 260 – 270C. Bão phát sinh trên dải hội tụ nhiệt đới [nội chí tuyến] và di chuyển từ đông sang tây. Mùa bão trên toàn quốc là từ tháng 7 đến tháng 11, cực đại vào tháng 9, gồm 85% tổng số bão. Tuy vậy cũng có những cơn bão đến sớm hay muộn hơn. Mùa bão và tần suất bão không đồng nhất từ bắc chí nam. Khu vực bị đe doạ nhiều nhất là từ Móng Cái đến mũi Ba Làng An. Ở miền Nam , bão ít hơn, nhiều năm hoàn toàn không có bão. Mùa bão có xu thế chậm dần từ bắc xuống nam phù hợp với sự di chuyển của dải hội tụ nhiệt đới xuống các vĩ độ thấp vào tháng 10, 11.

Câu 19: Bản chất của gió phơn Tây Nam khô nóng và hoạt động của loại gió này ở nước ta như thế nào?

ĐÁP: Gió phơn Tây Nam [còn gọi là gió Lào] là loại gió thổi vào nước ta từ tháng 4 – 7 từ hướng tây nam tới, thịnh hành trong tháng 5- 6. Phạm vi hoạt động mạnh nhất là ở miền trung.

Nguồn gốc của gió là sự di chuyển của khối không khí nhiệt đới vịnh Bengan: nóng ẩm. Bản chất của gió này ban đầu là mang theo nhiều hơi nước ẩm ướt. Khi vào nước ta đã vượt qua dãy Trường Sơn. Sau khi trút mưa ở sườn tây, vượt qua đỉnh, trườn xuống theo sườn đông thì nhiệt độ tăng lên [10/100m], độ ẩm giảm mạnh. Gió thổi đến đâu gây ra thời tiết khô nóng [thậm chí cực kì khô nóng] đến đó. Lúc đó gọi là thời tiết gió Lào, trời quang mây, oi bức, không mưa, nhiệt độ cao, có lúc đạt tới 39 – 400C, độ ẩm tương đối xuống đến 70 – 50%, thấp nhất có thể dưới 30%.

Câu 20: Tại sao nói: “Sông ngòi là hàm số của khí hậu trên một nền cảnh quan nhất định”.

ĐÁP: Trong số các nhân tố địa lí tự nhiên có tác động tới chế độ nước sông thì nhân tố khí hậu có tác dụng khá quyết định. Trong thực tế, điều đó được biểu hiện rất rõ: những nơi có lượng nước rơi lớn, dòng chảy sẽ phong phú, ngược lại, những nơi có lượng nước rơi nhỏ, dòng nước sẽ nghèo nàn. Chế độ nước rơi điều hoà thì thuỷ chế sông điều hoà. Khi mưa rất lớn thì nước sông lớn. Ở nước ta 2 mùa khí hậu trùng với hai mùa nước sông trong năm. Về mùa mưa nước sông dâng cao, về mùa khô dòng nước cạn kiệt, làm sông bé lại. Tương quan đó có thể biểu diễn bằng một hàm số như đã nói.

Câu 21: Tại sao cũng trong khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa mà hệ thống sông Hồng hay gây ra lũ lụt, có chế độ nước thất thường, còn hệ thống sông Cửu Long lại điều hòa hơn.

ĐÁP: Hệ thống sông Hồng gồm có hai sông lớn là sông Hồng và sông Đà đều bắt nguồn từ Trung Quốc. Khi chảy vào nước ta, phần lớn chiều dài các sông đều chảy qua vùng núi Tây Bắc, có núi non hiểm trở, độ dốc lớn, thảm thực vật đã bị tàn phá nhiều. Mặt khác, do lưu vực của hệ thống sông khá rộng, lượng nước cung cấp rất lớn về mùa mưa [60% lượng nước là của sông Đà]. Nước ở phần thượng lưu được tập trung khá nhanh, dồn một lượng nước lớn về hạ lưu làm cho nước sông hay dâng cao đột ngột, nhiều lúc lên đến mức báo động số 3.

Sông Cửu Long bắt nguồn ở Tây Tạng trên độ cao 5000m. Đây là một trong những con sông lớn của thế giới, chảy qua 5 nước với tên gọi là Mê Công. Chiều dài sông tổng cộng lên tới 4500 km, đoạn hạ lưu chảy vào nước ta gọi là Cửu Long dài 220 km. Tổng lượng nước của sông rất lớn, gấp 5 lần sông Hồng, nhưng lòng sông lại rộng, sông đổ ra biển bằng 9 cửa, nên lượng nước thoát nhanh. Đặc biệt đoạn này chảy qua Phnôm Pênh [Campuchia] sông Mê Công được nối với Biển Hồ bằng sông Tônlêsáp. Biển Hồ có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết chế độ nước sông, đặc biệt là phần từ đó chảy ra biển qua Việt Nam [tức là sông Cửu Long]. Mùa nước lớn, Biển Hồ nhận nước vào làm giảm mực nước sông. Về mùa khô, nước lại từ Biển Hồ theo dòng Tônlêsáp chảy vào Cửu Long.

22: Thế nào gọi là “đất ngoài đê” và “đất trong đê”.

ĐÁP: Đây là cách nói thông thường của nhân dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, nơi có hệ thống đê rất quy mô và từ lâu đời, nhằm chỉ đơn thuần vị trí của đất so với chỗ cư trú của con người.

Ở hai bên bờ các sông Hồng, sông Đáy, sông Đuống, sông Thái Bình…có hệ thống đê ngăn lũ. Về mùa khô, mực nước hạ thấp, phần bãi bồi và thềm sông lộ ra, nhân dân sử dụng đất đó để canh tác, trồng cc1 loại rau màu vụ đông. Còn về mùa mưa, nước sông dâng cao, vùng đó ngập nước. Gọi là đất trong đê và đất ngoài đê là nhằm phân biệt hai loại đất: được bảo vệ ở bên trong và không được đê bảo vệ ở bên ngoài.

23: Đất phèn là đất gì? Đặc tính của nó ra sao?

ĐÁP: Đất phèn còn gọi là đất chua mặn là loại đất được hình thành ở các vùng châu thổ trong quá trình lấn dần ra biển. Đặc điểm của loại đất này là vừa chua vừa mặn. độ chua khá lớn [pH: 3 – 4,5] chủ yếu do phèn nhôm [sunphát nhôm] và phèn sắt [sunphát sắt] sinh ra. Còn mặn là do các clorua như NaCL.

Đất phèn chủ yếu được hình thành ở những vùng biển trước đây có rừng ngập mặn phát triển. Xác các cây đước, sú, vẹt, tràm.v.v…có chứa một lượng lưu huỳnh rất lớn. Khi bị vùi xuống sâu và phân huỷ ở môi trường yếm khí [ngập nước], lưu huỳnh tạo thành các sunphua. Khi gặp không khí, chúng lại bị ôxi hoá thành axit sunphuric và các sunphát nhôm, sắt…Đất phèn có độ độc hại lớn đối với cây trồng, vì vậy để sử dụng được loại đất này cần phải có các biện pháp cải tạo. Trước hết phải có các công trình thuỷ lợi đưa nước ngọt về để: “thau chua rửa mặn”, làm giảm nồng độ phèn và muối trong đất, sau đó phải bón vôi để giảm độ chua rồi mới trồng dần các loại cây có khả năng chịu phèn cao như: sắn, mía, dứa v.v…

Ở nước ta, đất phèn phân bố ở nhiều nơi, chủ yếu là ở đồng bằng sông Cửu Long. Ở đồng bằng Bắc Bộ đất phèn tập trung ở dải đất ven biển từ hải phòng đến Quảng Ninh.

Câu 24: Những đặc điểm của đất feralit. Trong các loại đất feralit ở nước ta, đất nào có giá trị kinh tế cao nhất, đặc điểm của nó và sự phân bố?

ĐÁP: Đất feralít bao gồm nhiều loại khác nhau: feralít vàng đỏ miền rừng, feralít đỏ sẫm, feralít nâu xám, feralít mùn trên núi cao…Đặc tính chung của chúng là có lượng khoáng nguyên sinh thấp, lượng các hiđrôxit sắt, nhôm, titan cao, cấu tượng bền, độ mùn đáng kể. Trong số đó, loại đất tốt nhất là feralít đỏ sẫm do các sản phẩm phong hoá của đá ba dan và đá vôi tạo thành.

Đất hình thành trên đá ba dan ở nước ta có khoảng 2 triệu ha, chủ yếu phân bố ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Quảng Trị, Phủ Quỳ. Đặc điểm của loại đất này là có tầng đất dày, có thể đến vài chục mét, thành phân cơ giới phần nhiều nặng. Loại đất này rất thích hợp cho các loạicây công nghiệp nhiệt đới quý như cao su, cà phê, chè, hồ tiêu…

Đất đỏ đá vôi có màu nâu đỏ và vàng tập trung chủ yếu ở Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ, trên những diện tích rộng. Đây cũng là loại đất tốt có cấu tượng bền và tơi xốp, dễ thấm nước, thoáng khí. Đất này thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây, từ lúa, ngô, đỗ, lạc cho đến bông, gai, thuốc lá…

Câu 25: Tại sao nói đất đai không phải là tài nguyên vô tận. Đất đai nước ta có những mặt thuận lợi và khó khăn nào?

ĐÁP: Tài nguyên vô tận là loại tài nguyên không khi nào khai thác hết được, ví dụ: năng lượng Mặt Trời, không khí,…Diện tích đất nổi trên bề mặt Trái Đất là một con số hữu hạn 148.825.000 km2, con người không thể khai thác một cách vô hạn được. Mặt khác, quá trình hình thành đất kể từ khi phong hoá đá đến khi con người sử dụng vào canh tác phải trải qua một thời gian hết sức dài. Do vậy, khi đất đai bị thoái hoá thì sẽ mất rất nhiều thời gian, tiền của mới có thể phục hồi lại được. Chính điều đó xác định đất đai không phải là loại tài nguyên vô tận mà thuộc loại tài nguyên có thể phục hồi lại được.

Ở nước ta hiện nay, đất sử dụng cho nông nghiệp khoảng trên dưới 7 triệu ha, nhìn chung có các thuận lợi cơ bản:

- Diện tích đất có thể khai hoang để mở rộng diện tích còn tập trung ở gò đồi, vùng núi và ven biển.

- Có nhiều loại đất khác nhau cho phép phát triển một hệ cây trồng đa dạng, phong phú.

- Có đất tốt với diện tích đáng kể để tăng năng suất cây trồng, như đất phù sa thường xuyên được bồi đắp, đất đỏ ba dan, đất đỏ đá vôi…

Bên cạnh đó khó khăn cũng còn nhiều:

- Còn nhiều diện tích đất xấu [đầm lầy, phèn, chua mặn, bạc màu…] phải cải tạo tốn kém.

- Diện tích đất canh tác bình quân trên đầu người quá nhỏ [0,3 ha/người. Riêng ở đồng bằng Bắc Bộ 0,1 ha/người].

- Trong điều kiện nắng lắm, mưa nhiều, tập trung theo mùa, quá trình xói mòn, rửa trôi và bạc màu diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi phải thực hiện nhiều biện pháp bảo vệ đất.

Câu 26: Thế nào là thực vật bản địa, thực vật di cư, thực vật nhập nội? Cho ví dụ.

ĐÁP: Thực vật bản địa là những loài thực vật phát sinh và phát triển ngay trong điều kiện khí hậu, đất đai,…tại chỗ trên lãnh thổ nước ta. Ví dụ: cây lúa nước. Theo nhiều kết quả điều tra nghiên cứu, ở nước ta có 250 loài thực vật bản địa.

- Thực vật di cư là những loài thực vật mà trong quá trình biến đổi của khí hậu Trái Đất, hay trong những lần băng hà tràn xuống rồi rút lui, chúng đến theo và nằm lại. Ví dụ: cây thông pơ mu, sa mu, cây hồi…Những loài thực vật này thường ở những nơi có khí hậu thích hợp, có thể gần tương tự như nơi phát sinh của chúng. Ví dụ: cây thông thường mọc ở nơi khí hậu có tính ôn đới hay cận nhiệt.

- Nếu như hai loại trên chủ yếu là các loài thực vật tự nhiên, thì thực vật nhập nội lại nằng về các loại cây trồng. Thực vật nhập nội ở nước ta có rất nhiều, góp phần làm phong phú hệ thực vật nước ta. Ngô, khoai lang, sắn, lạc, khoai tây, cà chua, bí đỏ, đậu và các cây ăn quả như na, dứa, đu đủ, vú sữa, hồng xiêm; cây công nghiệp như thuốc lá, cao su, có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới Trung Nam Mĩ. Thầu dầu, cà phê, dưa hấu thì gốc từ vùng nhiệt đới châu Phi. Một số loài có nguồn gốc từ Ấn Độ như: xoài, me, đay, bông, cà, mướp, dưa chuột. Từ vùng cận nhiệt đới và ôn đới Trung Quốc đến nước ta có nhiều cây ăn quả như cam, quýt, vải, hồng; cây làm thuốc như xuyên khung, sinh địa, một số hoa cảnh như cúc, trà v.v…

Kể cả thực vật nhập nội thì hệ thực vật của nước ta có đến 700 – 800 loài.

Câu 27: Nước ta ở trong vòng đai nhiệt đới. Tại sao có rừng cận nhiệt và rừng ôn đới?

ĐÁP: Tính chất cận nhiệt và ôn đới [kể cả thực vậtrừng lẫn khí hậu] bắt nguồn từ sự phân hoá theo đai cao. Càng lên cao, các yếu tố địa lí tự nhiên như nhiệt độ, áp suất khí quyển, các quá trình phong hoá…thay đổi theo và tạo ra các vành đai khác nhau. Ở chân núi có đai rừng nhiệt đới, lên cao tiếp theo có đai rừng cận nhiệt đới và ôn đới trên núi. Ranh giới các đai này khác nhau từ bắc vào nam, từ tây sang đông. Do các núi ở nước ta chạy theo hướng tây bắc – đông nam nên thường hướng sườn đông ra trước gió mùa Đông Bắc, trong khi sườn tây được che khuất. Hơn nữa, các dãy núi cánh cung ở Đông Bắc Bắc Bộ lại xoè ra kiểu nan quạt làm cho các khối khí lạnh dễ dàng xâm nhập sâu xuống đồng bằng Bắc Bộ, nhiệt độ mùa đông, do đó bị hạ thấp hơn mức bình thường. Kết quả là vành đai cận nhiệt đới và ôn đới ở các cao nguyên phía tây Trường Sơn chỉ thấy xuất hiện ở độ cao 1000 – 1100m, trong khi ở sườn đông là vào khoảng 700 – 800m, còn ở phía đông bắc thì xuống đến 500 – 600m, có khi còn thấp hơn nữa.

Nhờ sự phân hoá tự nhiên theo độ cao [một hiện tượng bình thường ở miền núi] nên mặt dù miền núi nước ta căn bản nằm trong vùng nhiệt đới ẩm vẫn có các loại khí hậu cũng như thực vật của các vĩ tuyến cao hơn.

Câu 28: Rừng rậm và rừng thưa phân biệt với nhau như thế nào?

ĐÁP: Về mặt hình thức, rừng rậm nhiệt đới là rừng có cây cối rậm rạp, nhiều tầng [ở nước ta rừng thường có 5 tầng] dây leo chằng chịt, động vật đa dạng và phong phú…Còn rừng thưa là rừng đã bị tàn phá nhiều hoặc mọc lại. Trong rừng có ít cây lớn, phần lớn chỉ có các loại gỗ tạp, động vật lớn cũng ít, thậm chí không có.

Về bản chất, việc phân loại rừng được căn cứ vào chỉ tiêu mật độ sinh khối.

- Rừng rậm nguyên sinh giàu có trữ lượng gỗ trên 300m3/ha.

- Rừng rậm thứ sinh phục hồi có trữ lượng gỗ 100 – 150m3/ha.

- Rừng trung bình có 120m3/ha.

- Rừng thứ sinh thưa nghèo có trữ lượng gỗ 40m3/ha.

Câu 29: Tại sao tình trạng mất rừng đang là mối đe dọa lớn ở nước ta. Chúng ta phải làm gì để ngăn chặn?

ĐÁP: Lãnh thổ nước ta có đến ¾ là đồi núi. Rừng có lợi ít to lớn nhiều mặt đối với sự phát triển kinh tế, đời sống sinh hoạt và môi trường. Do vậy hiện tượng mất rừng một cách nhanh chóng thực sự là nguy cơ lớn. Chỉ so với năm 1943, thì đến nay tài nguyên rừng của nước ta cạn đi rất nhanh, vượt xa mức báo động thông thường. Độ che phủ rừng trên toàn quốc từ trên 50% trước đây chỉ còn dưới 21%, riêng Bắc Bộ thậm chí dưới 20%, mộtsố vùng ở Tây Bắc chỉ còn dưới 8%, nghĩa là đã mất đi 4,5 triệu ha rừng. Về mặt chất lượng, sự tàn phá còn ghê gớm hơn. Cho đến nay coi như nước ta đã hết loại rừng giàu, có trữ lượng 300m3/ha. Rừng loại khá: 120 – 150m3/ha chỉ còn độ 3,3 triệu ha, rừng xấu có trữ lượng 40 – 70m3/ha có độ khoảng 5 triệu ha, trong khi đó diện tích coi như không còn rừng lên đến 13 triệu ha. Do vậy tính bình quân theo đầu ngườinước ta đạt mức độ rất thấp, chỉ 16m3/người [lúc dân số mới 50 triệu] trong khi đó ở Thái Lan là 105m3/người, Phần Lan là 247m3/người.

Trước tình hình đó, nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay là trồng rừng, khôi phục vốn rừng, đưa tỉ lệ che phủ rừngp lên khoảng 50% trên phạm vi cả nước, đối với miến núi phải đưa lên cao hơn.

Về mặt khai thác, phải tăng cường các biện pháp kĩ thuật để thu được cả cành, ngọn, lá và tránh tình trạng lấy được 1 cây gỗ to thì phá hại hàng chục cây nhỏ khác. Đồng thời, phải có sự quy định khai thác theo nhóm, theo tuổi cây…

Khai thác, bảo vệ và trồng rừng là những biện pháp thường xuyên, cấp bách và đi liền với nhau.

Câu 30: Ở nước ta có một diện tích lớn rừng ngập mặn. Nhưng đặc điểm của rừng ngập mặn là gì? Sự phân bố của chúng ở nước ta ra sao?

ĐÁP: Rừng ngập mặn là rừng ở dải đất ven biển nhiệt đới, phát triển trên các vùng cửa sông bồi tụ với các loại cây điển hình có rễ chùm như tràm, đước, vẹt, mắm, v.v…

Ở nước ta, loại rừng này có chủ yếu ở các vùng cửa sông Thái Bình, sông Hồng, vùng ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Riêng tỉnh Minh Hải có diện tích rộng đến 250.000 ha, trong số 373000 ha rừng ngập mặn ở các tỉnh phía nam, đứng hàng thứ hai về số rừng ngập mặn trên thế giới, sau vùng cửa sông Amadôn ở Nam Mĩ. Ở đây có rừng U Minh rộng đến 190.000 ha, thực vật thống trị có cây tràm, thân cao từ 10 đến 20m, hoa nở trắng xoá về mùa hạ. Thổ nhưỡng của rừng cũng độc đáo: đất than bùn dày từ 2 đến 5m, cấu tạo bằng xác thực vật trải qua hàng trăm năm đã bị chôn vùi ở đây trong một lớp bùn lỏng. Động vật phong phú, nổi tiếng là chim và cá. Phía tây của rừng U Minh kết thúc bằng một dải sú vẹt chạy dài liên tục từ Rạch Giá nối tiếp với dải rừng đước Cà Mau.

Câu 31: Tại sao địa hình miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ lại chủ yếu là đồi núi thấp và thấp dần theo hướng tây bắc- đông nam.

ĐÁP: Cũng giống như các miền khác trên lãnh thổ nước ta, cách đây chừng 67 triệu năm, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ là một bề mặt san bằng [bán bình nguyên]. Đến giai đoạn Miôxen, cách đây khoảng 26 triệu năm thì bị ảnh hưởng của vận động tân kiến tạo do tác động của vận động tạo sơn Himalaya. So với phần hữu ngạn sông Hồng, vận động nâng lên ở đây yếu. Tuy có làm cho núi non, sông ngòi trẻ lại, kèm theo những hiện tượng đứt gãy khá lớn, nhưng vận động này chủ yếu tạo nên các đồi núi thấp. Trong toàn miền, cường độ nâng lên không đều. Ở Việt Bắc, về phía biên giới Việt - Trung, cường độ nâng lên có thể tới 1000m, trong khi đó bờ biển chỉ nâng trong phạm vi 200 – 500m. Do vậy, miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ hiện ra như một bề mặt nghiêng chúc về phía biển.

Câu 32: Giải thích nguyên nhân hình thành các đảo trong vịnh Bắc Bộ.

ĐÁP: Vịnh Bắc Bộ là một châu thổ cũ bị sụt lún. Đã có thời kì đường bờ biển ra đến gần đảo Hải Nam. Trong vịnh có nhiều đảo mà nguồn gốc ban đầu là những đồi xen thung lũng. Sau khi biển tiến tràn ngập thì xảy ra quá trình biển bắt đầu cải tạo lại các quả đồi, mài mòn các chân đồi hoặc bồi đắp các bãi biển. Thường thường, trên các đảo không có sông suối, hiếm nước ngọt, ít dân cư. Trừ vài đảo lớn như Cái Bầu, Cái Bàn, Cát Bà, đa số là những đảo nhỏ đá vôi hình dạng kì thú. Xưa kia có thể có rừng rậm nhiệt đới bao phủ, bằng chứng là những cánh rừng hiện còn tồn tại ở một số nơi trên đảo Cái Bàn, Cát Bà với số lượng động vật khá lớn bao gồm: khỉ, vượn, nai, hoãng, sơn dương….

Câu 33: Phân biệt các loại sương mù, sương móc, sương muối.

ĐÁP: Sương mù là loại sương do sự ngưng kết hơi nước gần mặt đất tạo thành. Những hạt nước trong sương mù rất nhỏ, chỉ nặng vài phần triệu gam và phải trên 1000 hạt mới được 1 cm3.

Sương mù bình thường hình thành vào ban đêm khi mặt đất và không khí bị lạnh đi vì bức xạ. Sương mù bức xạ xuất hiện trong điều kiện độ ẩm tương đối cao, trời quang, lặng gió giống như một tấm màn giăng trên mặt đất. Sau khi mặt trời mọc, màn sương mù tan đi. Nếu mặt đất có cây cỏ thì lớp sương mù càng dày. Sương mù hay xuất hiện ở các vùng thấp vì ban đêm không khí lạnh tràn xuống.

Trong điều kiện nhiệt độ của mặt đất hạ xuống đến đến điểm sương và trời quang, gió lặng thì có sương đọng lại trên mặt đất, ngọn cỏ, lá cây gọi là sương móc. Sương móc rất có lợi cho sản xuất nông nghiệp vì nó cung cấp cho cây trồng một lượng nước đáng kể.

Trong khi sương móc hình thành, nếu nhiệt độ mặt đất vẫn tiếp tục hạ xuống dưới 00C, thì hơi nước đọng lại thành những hạt băng trắng như muối. Nhiệt độ không khí lúc đó rất thấp. Thời tiết có sương muối rất hại cho cây trồng vì nó làm cho nước đông lại trong thân cây, phá hoại tổ chức bên trong của cây.

Nếu sương mù hình thành trong điều kiện không khí chuyển động theo chiều ngang do một luồng không khí lạnh tràn tới vùng có không khí nóng, hoặc một luồng không khí nóng thổi tới nơi có không khí lạnh thì đó là sương mù bình lưu. Sương mù này thường thường xuất hiện vào cuối thu, trong mùa đông và đầu xuân ở trên đất liền. Trên biển thường có vào mùa nóng và ở những nơi gặp nhau của hai dòng biển nóng và lạnh.

Câu 34: Có gì khác nhau giữa hai cách nói: bảo vệ môi trường và bảo vệ tự nhiên? Hiểu khái niệm ô nhiễm môi trường như thế nào cho đầy đủ?

ĐÁP: Theo quan niệm hiện nay, khái niệm một môi trường bao gồm: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, môi trường văn hoá. Như vậy, khái niệm bảo vệ môi trường có phạm vi khá rộng. Còn bảo vệ tự nhiên thì chỉ bó hẹp vào việc bảo vệ các thành phần trong môi trường tự nhiên như: đất đai, thực vật, động vật…

Ô nhiễm môi trường là danh từ, về nguyên tắc dùng chung cho cả 3 loại môi trường nói trên. Ví dụ: trong những năm qua, môi trường văn hoá bị ô nhiễm bởi sự xuất hiện của hàng loạt sách báo, văn hoá phẩm đồi truỵ. Tuy nhiên, hiện nay trong thực tế phần lớn các trường hợp nói ô nhiễm đều chủ yếu là nói về sự ô nhiễm của môi trường tự nhiên. Sự ô nhiễm này về bản chất là sự nhiễm bẩn và làm biến chất các nguồn tài nguyên và các thành phần tự nhiên nói chung do hoạt động có ý thức hoặc vô ý thức của con người.

Sự ô nhiễm đó hiện nay đang diễn ra ở tất cả các thành phần từ không khí đến nước [nước sông, hồ, đầm, đại dương…], đất đai, động thực vật, đặc biệt nguy hiểm là sự ô nhiễm có ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người và nhiều khi có tác động xấu đến đời sống của các sinh vật trên toàn bộ hành tinh. Vì vậy, việc chống ô nhiễm là một mặt rất quan trọng của vấn đề bảo vệ môi trường.

Câu 35: So với miền Bắc và Đông Bắc, địa hình miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ hết sức phức tạp và đa dạng. Giải thích điều đó như thế nào?

ĐÁP: Miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ có địa hình đa dạng và phức tạp. Ở đây có dủ núi thấp [500 – 1500m], núi trung bình [1500 – 2500m], có cả thung lũng sâu, vực thẳm, sườn dốc lẫn thung lũng mở rộng, có cả các cao nguyên đá vôi rộng lẫn các đồng bằng giữa núi với diện tích đáng kể. Đặc điểm đó có liên quan chặt chẽ tới lịch sử phát triển của miền. Khác với miền Bắc và Đông Bắc là nơi có tính chuyển tiếp của một nền hoạt động, sự phức tạp của Tây Bắc và Bắc Trung Bộ là kết quả của một lịch sử phát triển đầy biến động của một địa tào điển hình trải qua hang chục triệu năm và gần đây nhất là vận động tạo sơn Himalaya ở thời kì Miôxen. Chính vận động tân kiến tạo này đã làm thay đổi bán bình nguyên cổ đưa đến bộ mặt ngày nay. Vận động này ảnh hưởng mạnh ở phần tây sâu trong lục địa [biên độ nâng có thể 1000 m và càng về phía ngoài ven biển càng yếu, có chỗ chỉ không quá 200m]. Do vậy, tại phía biên giới Việt _ Trung có rất nhiều núi cao, nhiều đỉnh vượt quá 3000m. Càng về phía châu thổ sông Mã – Chu địa hình càng thấp dần. Từ phía nam sông Cả, vận động nâng cao nhất là ở gần biên giới Việt – Lào [khoảng 900m], sau đó giảm dần về cả hai phía. Tuy nhiên, phía động dốc nhiều, phía Tây thoải dần, tạo nên dãy Trường Sơn có hai sườn không đối xứng.

Tân kiến tạo nâng mạnh nhưng nâng muộn, tạo nên những núi cao và núi trung bình. Vận động này lại có tính chất không liên tục cho nên sinh ra các bậc địa hình khác nhau từ độ cao 2200m xuống 1800 m, 1500m và 700m – Do sông suối đào lòng dữ dội nên lòng sông dốc và lắm thác ghềnh. Ở đây cũng không có vùng đồi thấp trung du rõ nét như ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Núi lại tiến ra sát biển, nên dải đồng bằng duyên hải đã hẹp lại có nhiều đồi sót rải rác, có nơi đồi sót tạo nên vách biển, có nơi tạo thành các đảo nhỏ ven bờ.

Câu 36: Tại sao ở miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ mùa đông ngắn và ít sâu sắc hơn ở miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ? Mùa hạ ở đây lại đến sớm và không có mưa phùn?

ĐÁP: Các điều kiện khí hậu có quan hệ mật thiết với vị trí địa lí và các đặc điểm địa hình trong miền. Do các khối núi cao chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam nên đã làm cho số lần phrông lạnh tràn tới miền Tây Bắc và Bắc Trung Bộ chỉ bằng trên dưới 1/2 lần của miền Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ. Như thế trung bình cứ 2 lần phrông lạnh tràn xuống Việt Nam thì có 1 lần không qua được các khối núi bình phong, nhất là vào đầu và cuối mùa lạnh. Không khí lạnh chỉ tràn vào Tây Bắc qua các thung lũng sông ăn thông xuống đồng bằng duyên hải, hoặc qua các đèo ở dãy Hoàng Liên Sơn. Do vậy, khi đến Tây Bắc, không khí lạnh đã bị biến tính [nóng lên và khô đi]. Vì thế, nền nhiệt độ ở đây so với nơi có cùng độ cao tuyệt đối của khu Việt Bắc và Đông Bắc thì nóng hơn đến 2-3°. Phải lên đến độ cao 500m mới có tháng rét dưới 15°.

Ở phía Mianma [Miến Điện] và có khi lấn sang Tây Bắc Việt Nam hay xuất hiện một áp thấp ngay cả trong mùa đông: khi có áp thấp, thời tiết nóng dễ xuất hiện, đôi khi có cả giông trái mùa. Đây cũng là điều kiện làm cho mùa đông ở Tây Bắc có phần nóng và ngắn, mùa hạ đến sớm, không có mùa xuân mưa phùn ảm đạm như Bắc Bộ và Thanh Hóa.

Câu 37: “Lũ tiểu mãn” là thế nào? Tại sao có lũ “tiểu mãn”?

ĐÁP: Tiểu mãn là 1 trong 24 tiết của âm dương lịch. Tiết này bao giờ cũng vào tháng 5 [ngày 21-5]. Hàng năm ở Bắc Trung Bộ thường có một trận lũ sớm vào tháng này, nên gọi là “lũ tiểu mãn”

Nguyên nhân của lũ này là do các cơn giông đầu mùa nóng gây nên. Các cơn giông này có liên quan đến hoạt động của phrông cực và đường hội tụ nhiệt đới.

Câu 38: Đầm phá là một dạng địa hình độc đáo ở duyên hải miền Trung, đặc biệt ở Thừa Thiên – Huế. Nguyên nhân hình thành và diện mạo của địa hình ra sao?

ĐÁP: Đầm phá nói ở đây là đầm phá tự nhiên. Ở ven biển Thừa Thiên – Huế có một dải đầm phá dài 60 km, rộng từ 1 đến 6 km, sâu từ 0.1 – 0.3 km. Các đầm phá này thông với nhau, tạo thành một dải và bị ngăn cách với biển bằng một lưỡi cát kéo dài, có chỗ cao 30 m. Đầm phá thông với biển qua các cửa hẹp [mỗi cửa rộng khoảng 1 – 1,5 km]. Đầm phá cũng là nơi các con sông đổ nước vào, do đó ở đây có nước lợ và rất giàu tôm, cá, rau câu…

Dải đầm phá ở Bắc Trung Bộ được hình thành cách đây trên 3000 năm. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tích tụ vật liệu trầm tích ở sau một mũi đất nhô ra biển, hình thành trên một doi cát. Doi cát này càng ngày càng dài ra , vây kín một vùng nước biển tạo thành đầm. Đầm vẫn có nước sông trong đất liền chảy ra và vẫn có cửa thông với biển nên gọi là phá. Ví dụ: phá Tam Giang.

Câu 39: Việc xây dựng các hồ chứa nước kết hợp với việc phát triển thủy điện ở phần thượng lưu của các con sông ở phía bắc có tác dụng như thế nào?

ĐÁP: Tiềm năng thủy điện của các con sông miền núi ở phía Bắc rất lớn. Việc khai thác tiềm năng đó bằng cách xây dựng các nhà máy thủy điện từ trước tới nay ta đã làm nhiều. Ngoài những nhà máy nhỏ, ta đã có một số nhà máy, ta đã có một số nhà máy thủy điện lớn mà nổi bật là nhà máy thủy điện Hòa Bình, có công suất lớn nhất Đông Dương, cung cấp điện cho cả nước,

Đi đôi với việc xây dựng các đập thủy điện, cần có những hồ nước nhân tạo để đảm bảo khối lượng nước chảy thường xuyên trong lòng sông phục vụ cho hoạt động của nhà máy thủy điện.

Ngoài ra, việc xây dựng các hồ chứa nước còn có tác dụng điều tiết chế độ nước của các sông trong mùa cạn và mùa lũ, góp phần hạn chế ngập lụt ở đồng bằng hạ lưu trong mùa mưa, đồng thời phần nào cũng đảm bảo được việc giao thông vận tải trên sông và phát triển được việc nuôi trồng thủy sản.



  • Chia sẻ:
  • |
  • In bài viết

Địa hình.

Do cấu tạo của dãy Trường Sơn, địa hình Quảng Trị thấp dần từ Tây sang Đông, Đông Nam và chia thành 4 dạng địa hình: vùng núi cao phân bố ở phía Tây từ đỉnh dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp; vùng trung du và đồng bằng nhỏ hẹp chạy dọc tỉnh; kế đến là vùng cát nội đồng và ven biển. Do địa hình phía Tây núi cao, chiều ngang nhỏ hẹp nên hệ thống sông suối đều ngắn và dốc.

- Địa hình núi cao.Phân bố ở phía Tây từ dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp, chiếm diện tích lớn nhất, có độ cao từ 250-2000 m, độ dốc 20-300. Địa hình phân cắt mạnh, độ dốc lớn, quá trình xâm thực và rửa trôi mạnh. Các khối núi điển hình là Động Voi Mẹp, Động Sa Mui, Động Châu, Động Vàng. Địa hình vùng núi có thể phát triển trồng rừng, trồng cây lâu năm và chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên phần lớn địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối, đèo dốc nên đi lại khó khăn, làm hạn chế trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, mạng lưới điện... cũng như tổ chức đời sống xã hội và sản xuất. Tuy nhiên có tiềm năng thủy điện nhỏ khá phong phú.

- Địa hình gò đồi, núi thấp.Là phần chuyển tiếp từ địa hình núi cao đến địa hình đồng bằng, chạy dài dọc theo tỉnh. Có độ cao từ 50-250m, một vài nơi có độ cao trên 500 m. Địa hình gò đồi, núi thấp [vùng gò đồi trung du] tạo nên các dải thoải, lượn sóng, độ phân cắt từ sâu đến trung bình. Khối bazan Gio Linh - Cam Lộ có độ cao xấp xỉ 100 - 250 m dạng bán bình nguyên, lượn sóng thoải, vỏ phong hóa dày, khối bazan Vĩnh Linh nằm sát ven biển, có độ cao tuyệt đối từ 50-100m. Địa hình gò đồi, núi thấp thích hợp cho trồng cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cây ăn quả lâu năm.

- Địa hình đồng bằng.Là những vùng đất được bồi đắp phù sa từ hệ thống các sông, địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao tuyệt đối từ 25-30 m. Bao gồm đồng bằng Triệu Phong được bồi tụ từ phù sa sông Thạch Hãn khá màu mỡ; đồng bằng Hải Lăng, đồng bằng sông Bến Hải tương đối phì nhiêu. Đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, nhất là sản xuất lúa ở các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh.

- Địa hình ven biển.Chủ yếu là các cồn cát, đụn cát phân bố dọc ven biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc phân bố dân cư. Một số khu vực có địa hình phân hóa thành các bồn trũng cục bộ dễ bị ngập úng khi có mưa lớn hoặc một số khu vực chỉ là các cồn cát khô hạn, sản xuất chưa thuận lợi, làm cho đời sống dân cư thiếu ổn định.

Nhìn chung với địa hình đa dạng, phân hoá thành các tiểu khu vực, nhiều vùng sinh thái khác nhau tạo cho Quảng Trị có thể phát triển toàn diện các ngành kinh tế, đặc biệt là tạo nên các vùng tiểu khí hậu rất thuận lợi cho đa dạng hóa các loại cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

Khí hậu

Quảng Trị nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nền nhiệt độ cao, chế độ ánh sáng và mưa, ẩm dồi dào, tổng tích ôn cao... là những thuận lợi cơ bản cho phát triển các loại cây trồng nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, Quảng Trị được coi là vùng có khí hậu khá khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng thổi mạnh từ tháng 3 đến tháng 9 thường gây nên hạn hán. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc kèm theo mưa nên dễ gây nên lũ lụt.

- Nhiệt độ.Nhiệt độ trung bình năm từ 240-250C ở vùng đồng bằng, 220-230C ở độ cao trên 500 m. Mùa lạnh có 3 tháng [12 và 1, 2 năm sau], nhiệt độ xuống thấp, tháng lạnh nhất nhiệt độ xuống dưới 220C ở đồng bằng, dưới 200C ở độ cao trên 500 m. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 8 nhiệt độ cao trung bình 280C, tháng nóng nhất từ tháng 6, 7, nhiệt độ tối cao có thể lên tới 400-420C. Biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm chênh lệch 70-90C. Chế độ nhiệt trên địa bàn tỉnh thuận lợi cho phát triển thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp.

- Chế độ mưa.Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.200-2.500 mm; số ngày mưa trong năm dao động từ 154-190 ngày. Chế độ mưa ở Quảng Trị biến động rất mạnh theo các mùa và cả các năm. Trên 70% lượng mưa tập trung vào các tháng 9, 10, 11. Có năm lượng mưa trong 1 tháng mùa mưa chiếm xấp xỉ 65% lượng mưa trung bình nhiều năm. Mùa khô thường từ tháng 12 đến tháng 7 năm sau, khô nhất vào tháng 7, đây là thời kỳ có gió Tây Nam thịnh hành. Tính biến động của chế độ mưa ảnh hưởng nhiều tới sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cũng như thi công các công trình xây dựng... Mùa mưa, lượng mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn thường gây nên lũ lụt; mùa hè, thời gian mưa ít kéo dài thường gây nên thiếu nước, khô hạn.

- Độ ẩm.Quảng Trị có độ ẩm tương đối, trung bình năm khoảng 83-88%. Giữa hai miền Đông và Tây Trường Sơn chế độ ẩm cũng phân hóa theo thời gian. Tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 4, độ ẩm thấp nhất có khi xuống đến 22%; trong những tháng mùa mưa, độ ẩm tương đối trung bình thường trên 85%, có khi lên đến 88-90%.

- Nắng.Quảng Trị có số giờ nắng khá cao, trung bình 5-6 giờ/ ngày, có sự phân hóa theo thời gian và không gian rõ rệt: miền Đông có tổng số giờ nắng lên tới 1.910 giờ, miền Tây chỉ đạt 1.840 giờ. Các tháng có số giờ nắng cao thường vào tháng 5, 6, 7, 8, đạt trên 200 giờ. Nắng nhiều là điều kiện rất thuận lợi cho quang hợp, tăng năng suất sinh học cây trồng. Tuy nhiên, nắng nhiều và kéo dài, nhiệt độ cao dẫn đến hạn hán ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống dân cư.

-Gió.Tỉnh Quảng Trịchịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Đặc biệt gió Tây Nam khô nóng ở Quảng Trị là hiện tượng rất điển hình, được đánh giá là dữ dội nhất ở nước ta. Trung bình mỗi năm có khoảng 45 ngày. Trong các đợt gió Tây Nam khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 400- 420C. Gió Tây Nam khô nóng làm ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.

- Bão và áp thấp nhiệt đới.Quảng Trị nằm trong khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão. Mùa bão thường tập trung vào các tháng 9 và 10. Bão có cường suất gió mạnh kèm theo mưa lớn tạo ra lũ quét ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư.

Nhìn chung điều kiện tự nhiên của Quảng Trị có những thuận lợi khá cơ bản: do sự phân hóa đa dạng của độ cao địa hình tạo nên các vùng tiểu khí hậu thích hợp cho sự phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với các loại cây trồng vật nuôi có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt và cận ôn đới, có giá trị kinh tế cao. Điều này mang lại lợi thế cạnh tranh trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Tiểu vùng khí hậu đỉnh Trường Sơn với tính ôn hoà là tài nguyên quý mang lại sức hấp dẫn cho sự phát triển các hoạt động dịch vụ, du lịch, tạo không gian mát mẻ cho tham quan, nghỉ dưỡng, đặc biệt là trong mùa hè nóng gay gắt của vùng Bắc Trung Bộ. Đây là điểm độc đáo của khí hậu Quảng Trị.

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi cơ bản, điều kiện khí hậu, thời tiết của Quảng Trị cũng như ở các tỉnh miền Trung mang tính chất khắc nghiệt: thường xảy ra hạn hán về mùa khô và lũ lụt vào mùa mưa. Do đó việc khắc phục thiên tai, xây dựng các công trình thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn để giữ nước chống lũ lụt nhằm ổn định sản xuất và đời sống có ý nghĩa to lớn cần được quan tâm.

Thuỷ văn.

Quảng Trị có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, mật độ trung bình 0,8-1 km/km2. Do đặc điểm địa hình bề ngang hẹp, có dãy Trường Sơn núi cao ở phía Tây nên các sông của Quảng Trị có đặc điểm chung là ngắn và dốc. Toàn tỉnh có 12 con sông lớn nhỏ, tạo thành 03 hệ thống sông chính là sông Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu [Mỹ Chánh].

- Hệ thống sông Bến Hải.Bắt nguồn từ khu vực động Châu có độ cao 1.257 m, có chiều dài 65 km. Lưu lượng trung bình năm 43,4 m3/s. Diện tích lưu vực rộng khoảng 809 km2. Sông Bến Hải đổ ra biển ở Cửa Tùng.

- Hệ thống sông Thạch Hãn.Có chiều dài 155 km, diện tích lưu vực lớn nhất 2.660 km2. Nhánh sông chính là Thạch Hãn bắt nguồn từ các dãy núi lớn Động Sa Mui, Động Voi Mẹp [nhánh Rào Quán] và động Ba Lê, động Dang [nhánh Đakrông]. Sông Thạch Hãn đổ ra biển ở Cửa Việt.

- Hệ thống sông Ô Lâu [sông Mỹ Chánh].Được hợp bởi hai nhánh sông chính là Ô Lâu ở phía Nam và sông Mỹ Chánh ở phía Bắc. Diện tích lưu vực của hai nhánh sông khoảng 900 km2, chiều dài 65 km. Sông đổ ra phá Tam Giang thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ngoài ra, ở phía Tây giáp biên giới Việt - Lào có một số sông nhánh chảy theo hướng Tây thuộc hệ thống sông Mê Kông. Các nhánh điển hình là sông Sê Pôn đoạn cửa khẩu Lao Bảo - A Đớt, sông Sê Păng Hiêng đoạn đồn biên phòng Cù Bai, Hướng Lập [Hướng Hóa].

Hệ thống suối.Phân bố dày đặc ở vùng thượng nguồn. Các thung lũng suối phần lớn rất hẹp, độ dốc lớn tạo ra nhiều thác cao hàng trăm mét và phân bậc phức tạp. Nhìn chung, hệ thống sông suối của Quảng Trị phân bố đều khắp, điều kiện thủy văn thuận lợi cung cấp nguồn nước dồi dào phục vụ cho sản xuất và đời sống, đồng thời có tiềm năng thủy điện cho phép xây dựng một số nhà máy thuỷ điện với công suất vừa và nhỏ.

Thuỷ triều trên dải bờ biển Quảng Trị có chế độ bán nhật triều không đều, gần ½ số ngày trong hàng tháng có 2 lần nước lớn, 2 lần nước ròng. Mực nước đỉnh triều tương đối lớn từ tháng 8 đến tháng 12 và nhỏ hơn từ tháng 1 đến tháng 7. Biên độ triều lên lớn nhất hàng tháng trong các năm không lớn, dao động từ 59 - 116 cm. Biên độ triều xuống lớn nhất cũng chênh lệch không nhiều so với giá trị trên. Độ lớn triều vào kỳ nước cường có thể đạt tới 2,5m.

Video liên quan

Chủ Đề