Loading Preview
Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.
NĂM THỨ 26
26
th
YEARS
Mỗi tháng một số
MONTHLY
Số 5a[297]-2020
MAY 5a[297]-2020
NGÔN NGỮ & đời sống
LANGUAGE AND LIFE
TẠP CHÍ CỦA HỘI NGÔN NGỮ HỌC VIỆT NAM
JOURNAL OF LINGUISTIC SOCIETY OF VIETNAM
TỔNG BIÊN TẬP
Editor-in-Chief
GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Prof. Dr. NGUYEN VAN KHANG
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
Vice Editor-in-Chief
PGS.TS. Phạm Văn Hảo
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN HAO
PGS.TS. Phan Văn Quế
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN QUE
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP Editorial Board
Chủ tịch:
GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Chairman:
Prof. Dr. NGUYEN VAN KHANG
Các ủy viên: Members:
PGS.TS. Nguyễn Văn Chính
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN CHINH
GS.TS. Trần Trí Dõi
Prof. Dr. TRAN TRI DOI
PGS.TS. Phạm Văn Hảo
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN HAO
TS. Phạm Hiển
PGS.TS. Phan Văn Hòa
Dr. PHAM HIEN
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN HOA
PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng
Assoc.Prof. Dr. BUI MANH HUNG
TS. Bảo Khâm
Dr. BAO KHAM
PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ
Assoc.Prof. Dr. DANG NGOC LE
PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN LOC
PGS.TS. Hoàng Tuyết Minh
Assoc.Prof. Dr. HOANG TUYET MINH
PGS.TS. Nguyễn Quang Ngoạn
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN QUANG NGOAN
PGS.TS. Nguyễn Văn Nở
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN NO
PGS.TS. Trần Hữu Phúc
Assoc.Prof. Dr. TRAN HUU PHUC
PGS.TS. Ngô Đình Phương
Assoc.Prof. Dr. NGO DINH PHUONG
TS. Nguyễn Văn Quang
Dr. NGUYEN VAN QUANG
PGS.TS. Phan Văn Quế
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN QUE
PGS.TS. Hoàng Quốc
PGS.TS. Nguyễn Đăng Sửu
GS.TS. Lê Quang Thiêm
Assoc.Prof. Dr. HOANG QUOC
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN DANG SUU
Prof. Dr. LE QUANG THIEM
PGS.TS. Phạm Văn Tình
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN TINH
PGS.TS. Nguyễn Lân Trung
PGS.TS. Hồ Ngọc Trung
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN LAN TRUNG
Assoc.Prof. Dr. HO NGOC TRUNG
TRƯỞNG PHÒNG BIÊN TẬP - TRỊ SỰ
Head of Editorial-Administrative
ThS. Đặng Kim Dung
DANG KIM DUNG M.A
Trụ sở/Office: Tầng 1, nhà C, ngõ 301 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Floor 1, House C, Lane 301 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi
Điện thoại/Tel: [84] [024] 3.7624212; E-mail:
Giấy phép xuất bản/Licence: 244/GP-BTTT [7-8-2014]
Chỉ số/Index: ISSN 0868 - 3409
In tại /Printed at: Nxb Chính trị Quốc gia/National Political Publishing House
THỂ LỆ GỬI BÀI
CHO TẠP CHÍ “NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG”
1. Tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống” là tạp chí chính thức của Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, thuộc tạp chí được tính điểm ở mức cao nhất trong hệ thống tạp chí trong nước của Hội
đồng Chức danh giáo sư Nhà nước; xuất bản định kì mỗi tháng 01 số [12 số/ năm], trong đó
có 10 số bằng tiếng Việt và 02 số bằng tiếng Anh [vào giữa năm và cuối năm].
2. Bài viết gửi đăng ở tạp chí phải là công trình nghiên cứu có nội dung khoa học mới,
chưa được đăng và chưa gửi đăng ở bất cứ tạp chí nào.
3. Bài viết có độ dài trung bình khoảng dưới 10 trang được soạn trên máy vi tính, khổ
A4, cách lề trái: 2.5cm, lề phải: 2.5cm, trên: 3.6cm, dưới: 4.3cm, font: Times New Roman,
cỡ chữ 11, cách dòng: At least.
4. Bài viết trình bày theo thứ tự như sau:
Tên bài viết bằng tiếng Việt [chữ in] và tiếng Anh [chữ thường, đậm].
Thông tin về tác giả: tên tác giả [viết in] và học hàm, học vị; đơn vị làm việc: Email;
điện thoại.
Tóm tắt và từ khóa bằng tiếng Việt và tiếng Anh: Tóm tắt không quá 150 từ; Từ
khóa: 05 từ .
Nội dung bài viết.
Các chú thích cần thiết và phụ lục [nếu có].
Tài liệu tham khảo chủ yếu là tài liệu được chỉ rõ trong bài viết; hạn chế các tài liệu
không được dẫn, nhất là tài liệu ít liên quan.
5. Các trích dẫn trong bài viết phải có xuất xứ rõ ràng: nguồn dẫn; số trang; nếu dẫn lại
của tác giả khác phải ghi rõ “dẫn theo”.
6. Các bảng biểu, mô hình, sơ đồ cần được trình bày gọn, sáng rõ. Trường hợp bài viết có
kí tự đặc biệt, tác giả cần gửi cho Tòa soạn một bản chính để tiện đối chiếu.
6. Tòa soạn không trả lại bản thảo nếu bài viết không được đăng.
7. Tác giả chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung cũng như xuất xứ
tài liệu trích dẫn của bài viết.
Địa chỉ gửi bài: Email:
Tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống” xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô
giáo và bạn đọc đã luôn đồng hành cùng Tạp chí và mong luôn nhận được sự cộng tác chặt
chẽ của các Quý vị.
TẠP CHÍ “NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG”
Giá: 25.000đ
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
NGOẠI NGỮ VỚI BẢN NGỮ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC KĨ NĂNG
NGHE TIẾNG ANH TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC KẾT HỢP
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
LÊ THỊ HƯƠNG GIANG* - LÊ THỊ HƯƠNG THẢO**
TÓM TẮT: Việc nâng cao hiệu quả trong phương pháp giảng dạy và xây dựng tài liệu giảng dạy
tiếng Anh tại các cơ sở giáo dục đại học là trăn trở của rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lí giáo dục
và giáo viên. Để xây dựng được tài liệu giảng dạy phù hợp cần xác định được những kĩ năng gây khó
khăn cho người học và các yếu tố ảnh hưởng đến những kĩ năng đó. Bài báo tập trung nghiên cứu về
những yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe đến việc học tiếng Anh của sinh viên không
chuyên tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
TỪ KHÓA: học kết hợp; yếu tố ảnh hưởng; học tiếng Anh; kĩ năng nghe; bậc đại học.
NHẬN BÀI: 21/3/2020. BIÊN TẬP-CHỈNH SỬA-DUYỆT ĐĂNG: 20/5/2020
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy tiếng Anh ngày càng được chú
trọng vì những ưu điểm vượt trội so với việc giảng dạy truyền thống. Tại một số trường đại học ở
Việt Nam, việc giảng dạy và học tập tiếng Anh đã và đang được áp dụng theo mô hình học kết hợp
[HKH] - sự kết hợp giữa học trực tuyến [HTT] vào các hoạt động học trực tiếp trên lớp. Đối với sinh
viên [SV] bậc đại học, kĩ năng nghe [KNN] tiếng Anh là một trong những kĩ năng quan trọng trong
việc học tập ngôn ngữ vì KNN mang lại cho người học cơ hội cảm nhận được ngôn ngữ và nâng cao
toàn diện khả năng sử dụng ngôn ngữ. Trên thực tế, SV bậc đại học gặp nhiều khó khăn trong việc
học và phát triển KNN. Bài báo tập trung khảo sát tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc học nghe của
SV tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội [ĐHCNHN] và đề xuất giải pháp để phát triển nâng cao
tính hiệu quả trong việc học KNN tiếng Anh trong môi trường HKH.
2. Quan niệm về phương pháp học kết hợp
Trong những thập kỉ qua, phương pháp HKH được coi như một xu thế đào tạo mới, và thường
được nhắc tới trong việc tăng cường sự chuyển đổi cơ bản ở các cơ sở giáo dục đại học để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về việc cung cấp nội dung học cũng như nâng cao chất lượng, tính tiện lợi và
hiệu quả của việc học. Trong bối cảnh của Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, Chính phủ Việt Nam đã coi phương pháp kết hợp là một giải pháp cho các mục tiêu đổi mới giáo
dục đại học, trong đó hai mục tiêu là mở rộng về quy mô và cải thiện chương trình giảng dạy, phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao năng lực của người học đáp ứng nhu cầu học tập mang tính tích cực
và tương tác của người học [dẫn theo Hoang Ngoc Tue [2015]] [10]. Garison and Kanuka [2004] cho
rằng phương pháp kết hợp là sự kết hợp giữa HTT vào các hoạt động học trực tiếp. Những hoạt động
trực tuyến nhằm mục đích cải thiện hiệu quả của việc học [4]. Bonk and Graham [2012] định nghĩa
đây là phương pháp học có sự kết hợp giữa hướng dẫn học trên lớp và học có sự trợ giúp của máy
tính [3]. Theo Graham [2006, 2012], phương pháp kết hợp có thể được phân thành kết hợp trợ giúp,
kết hợp tăng cường và kết hợp chuyển thể. Phương pháp kết hợp trợ giúp tập trung vào việc cung cấp
lượng kiến thức và cơ hội học tập công bằng cho người học thông qua việc sử dụng công cụ trực
tuyến. Kết hợp tăng cường tích hợp thêm phương pháp giảng dạy hiện có bằng cách bổ sung cho các
khóa học trên lớp bằng tài liệu HTT, và thời gian học trên lớp học có thể giảm bớt, các bài học trên
* ThS; Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; Email:
** ThS; Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; Email: huongthao.hau
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
38
lớp thay thế bằng những bài học mang tính tương tác như hoạt động theo cặp, nhóm, thảo luận tranh
luận của SV. Loại thứ 3 là kết hợp chuyển thể với mục đích thay đổi phương pháp sư phạm cơ bản.
Thay vì việc học theo phương pháp người học chỉ thu nhận thông tin trên lớp thì với loại chuyển thể
này người học tích cực củng cố kiến thức và kĩ năng tiếng Anh thông qua các hoạt động tương tác đa
dạng khác nhau. Với mô hình này, việc sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ quá trình dạy và học của
người học và giáo viên [GV] là thực sự cần thiết. Đồng thời, nội dung và phương pháp học trên lớp
cần điều chỉnh để củng cố và hỗ trợ cho việc HTT [7,7], [8]. Các tác giả khác như Adas & Bakir
[2013], Ghazizadeh & Fatemipour [2017] đã chỉ ra tính hiệu quả của HKH trong việc phát triển kĩ
năng ngôn ngữ [nghe, nói, đọc và viết] của người học thay cho phương pháp học truyền thống hoặc
phương pháp HTT hoàn toàn. Cả người dạy và người học đều có nhận thức và quan điểm tích cực về
phương pháp kết hợp giữa việc HTT và học trên lớp trong giảng dạy tiếng Anh. Họ cho rằng đây là
một phương pháp học hiệu quả và sáng tạo [2], [5]. Tuy nhiên, Riel và các cộng sự [2016] cũng đã
tìm ra một số thách thức trong quá trình thực hiện phương pháp học này như xây dựng nội dung HTT
phù hợp với chương trình học trên lớp, việc quản lí HTT của GV với SV, việc tự học của SV với các
nội dung HTT, và các vấn đề về kĩ thuật xảy ra trong quá trình thực hiện chương trình học [101].
3. Kĩ năng nghe trong học ngoại ngữ
Nghe có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và hoạt động nghe chiếm khoảng 45% thời
gian giao tiếp của một người trưởng thành, thông qua quá trình nghe, người tham gia giao tiếp nghe
hiểu được thông điệp để thực hiện hội thoại thành công. Theo nhận định của Harmer [2001], nghe là
một “kĩ năng thu nhận” [receptive skill] - đó là khi người học tiếp nhận ý chính của văn bản thông
qua những gì họ nghe. Thông qua việc hiểu giọng nói, phát âm, ngữ điệu, ngữ pháp, vốn từ mà người
nói sử dụng người nghe tiếp nhận được thông tin và hiểu được ý nghĩa thông điệp của người nói [9].
Học KNN trong quá trình học ngoại ngữ là một nhiệm vụ khó khăn cho phần lớn người học. Goh
[2000] xác định 10 khó khăn trong quá trình học nghe gồm có người nghe [1] không nhận được các
từ mà họ biết trong băng nghe; [2] không nghe được nội dung sau khi họ cố gắng nghĩ đến nghĩa của
từ; [3] không theo được tốc độ nghe; [4] bỏ lỡ mất phần đầu của băng nghe; [5] quá tập trung vào
một phần hoặc không có khả năng tập trung; [6] dễ dàng quên các nội dung mà họ vừa nghe; [7]
không có khả năng khái quát lại các nội dung vừa nghe; [8] không hiểu được trình tự các phần nghe;
[9] biết được từ được nói ra nhưng không hiểu ý nghĩa của nó; [10] không xác định được ý chính của
băng nghe [6]. Hoàng Văn Vân và các cộng sự [2006] xác định người nghe thường gặp khó khăn
trong nghe âm tiếng Anh như cố gắng hiểu được tất cả các từ nhằm nắm bắt ý người nói, không hiểu
được người bản ngữ khi họ nói nhanh và tự nhiên, phải nghe đi nghe lại nhiều lần, không nắm bắt tất
cả các thông tin, không dự đoán được thông tin tiếp theo, và không tập trung khi nghe [1].
Xác định các yếu tố làm ảnh hưởng đến KNN, Rubin [1994] đưa ra năm yếu tố ảnh hưởng đến
KNN hiểu. Thứ nhất, do đặc điểm của băng nghe như tốc độ, điểm dừng, trọng âm và ngữ điệu, điểm
khác biệt giữa ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai, v.v. Thứ hai, do đặc điểm người tham gia hội
thoại như giới tính và độ thành thạo về ngôn ngữ sử dụng. Thứ ba, là đặc điểm của các nhiệm vụ
nghe như dạng bài, thể loại băng nghe. Thứ tư, yếu tố thuộc về người nghe như trí nhớ, khả năng tập
trung, tuổi tác, giới tính, độ thành thạo, khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất cũng như kiến thức nền.
Cuối cùng, việc của xử lí thông tin nghe của người nghe ví dụ như việc xử lí song song, hoặc sử dụng
các chiến lược trong khi nghe, v.v. [12].
Bên cạnh đó kiến thức nền, kiến thức văn hóa có ảnh hưởng lớn đến KNN, Rubin [1994] bổ sung
với kiến thức nền có sẵn dễ dàng giúp người nghe suy đoán để hoàn thành các nhiệm vụ nghe [12].
Yagang [1994] đưa thêm một yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN đó là yếu tố gây nhiễu bên ngoài
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
như tiếng ồn xuất hiện trong âm thanh của băng nghe hoặc tiếng ồn của môi trường đang diễn ra hoạt
động nghe làm phân tán sự tập trung nghe của người nghe [13].
Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách
quan. Trong đó yếu tố chủ quan xuất phát từ phía người học như: khả năng ghi nhớ thông tin của
người nghe, khả năng tập trung, độ thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn
ngữ thứ nhất, kiến thức nền về nội dung nghe, kĩ năng xử lí thông tin nghe, độ tuổi và giới tính của
người nghe. Các nhân tố khách quan có thể nêu ra gồm: nội dung của băng nghe [thể loại đoạn băng
nghe, nội dung chuyên ngành hay thường thức...], chất lượng của băng nghe [tốc độ, điểm dừng, yếu
tố gây nhiễu trong băng nghe...], người thực hiện đoạn băng nghe [giọng nói, giới tính, trọng âm và
ngữ điệu, độ thành thạo của ngôn ngữ...] và các tác vụ nghe [dạng bài, dạng câu hỏi...], môi trường
thực hiện nhiệm vụ nghe [phòng cách âm, yếu tố gây nhiễu bên ngoài như tiếng nói chuyện, tiếng xe
cộ...], trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [nghe loa, nghe tai nghe, nghe đài...]. Đây là cơ sở để
nhóm tác giả xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh của SV và đề xuất một số
giải pháp nâng cao việc học KNN cho SV đại học tại trường.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe trong môi trường học kết hợp
Tại trường ĐHCNHN, việc giảng dạy tiếng Anh được thực hiện theo phương pháp kết hợp chuyển
thể trong đó kết hợp HTT và học trên lớp. SV được cung cấp kiến thức và luyện tập một số kĩ năng
tiếng Anh trên trang HTT trước khi lên lớp học trực tiếp và luyện tập các kĩ năng với GV. Nhóm tác
giả thực hiện khảo sát nhằm xác định kĩ năng tiếng Anh gây khó khăn nhất cho SV và sau đó nhóm
tác giả tiếp tục tiến hành khảo sát nhằm xác định kĩ năng tiếng Anh gây khó khăn cho SV và các yếu
tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng đó trong môi trường HKH của SV đại học tại trường. Nhóm
nghiên cứu tiến hành khảo sát lấy ý kiến của 880 SV đại học đang học tiếng Anh và 48 GV tham gia
giảng dạy tiếng Anh tại trường ĐHCNHN.
Kết quả khảo sát về kĩ năng gây khó khăn với SV trong môi trường HKH theo quan điểm của GV
và SV được thể hiện trong bảng 1 và bảng 2 dưới đây.
Bảng 1. Quan điểm của sinh viên về mức độ khó khăn của các kĩ năng tiếng Anh
Kết quả khảo sát cho thấy, KNN được đánh giá là gây nhiều khó khăn nhất với tỉ lệ 58% [511 SV]
nhận định là gây nhiều khó khăn và 32% [279 SV] nhận định KNN gây khó khăn trong việc học
tiếng Anh. Kĩ năng nói cũng được coi là kĩ năng thử thách đối với SV học tiếng Anh với tỉ lệ 51%
[452 SV] lựa chọn gây nhiều khó khăn và 34% [301 SV] đánh giá là gây khó khăn. Kĩ năng viết và
đọc cũng được coi là kĩ năng gây khá nhiều khó khăn cho SV khi học tiếng Anh với các tỉ lệ tương
ứng 28% [250 SV], 23% [202 SV] đánh giá gây nhiều khó khăn và 38% [332 SV], 35% [305 SV]
gây khó khăn.
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
40
Bảng 2. Quan điểm của giáo viên về mức độ khó khăn của các kĩ năng tiếng Anh đối với sinh viên
Theo quan điểm của những GV tham gia khảo sát, kĩ năng nói được đánh giá là gây nhiều khó
khăn nhất cho SV với 85% số GV cho rằng kĩ năng này gây khó khăn và nhiều khó khăn cho SV.
Đồng tình với quan điểm của SV, 54% [26 GV] nhận định nghe là kĩ năng SV gặp nhiều khó khăn và
21% [10 GV] cho rằng đây là kĩ năng SV gặp khó khăn. Kĩ năng viết với lệ tương ứng 42% và 31%
GV nhận định ở mức gây nhiều khó khăn và khó khăn. Kĩ năng đọc được coi là gây ít khó khăn nhất
với tỉ lệ 60% [29 GV] đánh giá là kĩ năng này không gây khó khăn và ít khó khăn cho SV.
Như vậy, theo kết quả khảo sát cho thấy tư duy gần như tương đồng của GV về kĩ năng gây nhiều
khó khăn cho SV với thực tế SV gặp khó khăn với kĩ năng nào khi học ngoại ngữ. Những phát hiện
này có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn tài liệu giảng dạy và phương pháp giảng dạy phù hợp
trong chương trình HKH để có những hỗ trợ tốt nhất cho người học. Theo quan điểm của SV và
nhóm GV tham gia khảo sát, KNN và nói được cho là kĩ năng gây nhiều khó khăn cho người học
ngoại ngữ, 2 kĩ năng này luôn gắn liền với nhau trong môi trường học tập và giao tiếp. Trong phạm
vi của nghiên cứu của bài báo, tác giả tiếp tục tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN
của SV trong môi trường HKH và kết quả khảo sát được tóm tắt như sau:
Bảng 3. Quan điểm của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe
Bảng 3 thể hiện quan điểm của SV về các yếu tố ảnh hưởng đến KNN tiếng Anh. Trong các yếu
tố chủ quan, yếu tố có kĩ năng xử lí thông tin nghe, mức độ thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
thứ 2 [Tiếng Anh] và khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu được đánh giá là có ảnh hưởng nhiều
nhất với tỉ lệ tương ứng là 64%, 61% và 59% SV tham gia khảo sát đánh giá ảnh hưởng rất nhiều và
34%, 35%, 38% đánh giá ảnh hưởng nhiều đến việc học KNN. 447 SV tham gia khảo sát [với tỉ lệ
51%] cho rằng khả năng tập trung khi nghe hiểu ảnh hưởng rất nhiều đến việc học kĩ năng nghe hiểu
và 396 SV [45%] có quan điểm là kiến thức nền về nội dung nghe ảnh hưởng nhiều đến việc học kĩ
năng này. Khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất, giới tính và độ tuổi được đánh giá là những yếu tố ít
ảnh hưởng đến việc nghe của SV.
Trong các yếu tố khách quan, hơn 98% số SV tham gia đánh giá yếu tố nội dung của băng nghe
[thể loại đoạn băng nghe, nội dung chuyên ngành hay thường thức], chất lượng của băng nghe [tốc
độ, điểm dừng, yếu tố gây nhiễu trong băng nghe] và người thực hiện đoạn băng nghe [giọng nói,
giới tính, trọng âm và ngữ điệu, độ thành thạo của ngôn ngữ] là 3 yếu tố ảnh hưởng nhiều và rất
nhiều đến việc học KNN. Các yếu tố ảnh hưởng khách quan còn lại cũng được đánh giá là ảnh hưởng
nhiều và rất nhiều với tỉ lệ lựa chọn quanh mức 90%. Một số SV bổ sung yếu tố khác ảnh hưởng khác
đến việc học KNN của các em trong môi trường HKH có liên quan đến đường truyền Internet, hoặc
lỗi kĩ thuật của trang HKH. Do đó, có thể xảy ra việc SV đang thực hiện nghe thì bị lỗi không nghe
được hoặc lỗi mạng do nhiều người vào học một lúc trong những giờ cao điểm. Hoặc lỗi không nghe
được do băng nghe được tải lên hệ thống không được hỗ trợ trên tất cả các thiết bị máy tính và điện
thoại thông minh.
Bảng 4. Quan điểm của giáo viên về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe của sinh
viên
Bảng 4 thể hiện quan điểm của GV giảng dạy tiếng Anh về các yếu tổ ảnh hưởng đến việc học
KNN của SV trong môi trường HKH. Yếu tố liên quan đến kĩ năng xử lí thông tin, mức độ thành
thạo ngôn ngữ thứ 2, khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu, khả năng tập trung khi nghe hiểu và
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
42
kiến thức nền về nội dung nghe [yếu tố chủ quan] được đánh giá là ảnh hưởng nhiều và rất nhiều với
tỉ lệ đánh giá tương ứng là 98%, 95%, 94%, 94% và 90% và 73%. Các yếu tố khách quan bao gồm
nội dung của băng nghe, chất lượng băng nghe, người thực hiện đoạn băng nghe và các tác vụ nghe
được đánh giá ở mức ảnh hưởng nhiều và rất nhiều với tổng các tỉ lệ tương ứng là 92%, 89%, 88% và
83%. Các yếu tố: khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất, giới tính và độ tuổi của người nghe [yếu tố
chủ quan] và yếu tố môi trường thực hiện nhiệm vụ nghe, trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [yếu
tố khách quan] được đánh giá là ít ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh.
Biểu đồ 1 và biểu đồ 2 minh họa mối quan hệ giữa quan điểm của giáo viên và sinh viên tại
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội về các yếu chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến việc học kỹ
năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết hợp. Tác giả nhận thấy sự đồng tình trong quan điểm
của hai nhóm đối tượng trên về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới việc học kĩ năng nghe của sinh
viên. Bên cạnh đó, mức độ ảnh hưởng của yếu tố chủ quan [khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất] và
hai yếu tố khách quan [Môi trường thực hiện nhiệm vụ nghe [phòng cách âm, yếu tố gây nhiễu bên
ngoài như tiếng nói chuyện, tiếng xe cộ...] và trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [nghe loa tổng,
nghe tai nghe, nghe đài]] là có sự khác biệt, tuy nhiên sự khác biệt không quá lớn.
Biểu đồ 1: Biểu đồ so sánh quan điểm của giáo
viên và sinh viên về các yếu tố chủ quan ảnh
hưởng đến việc học kỹ năng nghe tiếng Anh
Biểu đồ 2: Biểu đồ so sánh quan điểm của giáo
viên và sinh viên về các yếu tố khách quan ảnh
hưởng đến việc học kỹ năng nghe tiếng Anh
5. Giải pháp học kĩ năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết hợp
KNN luôn là một thách thức đối với SV học tiếng Anh nói chung và trong môi trường HKH nói
riêng. Sau khi xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh, xét trên các yếu tố
chủ quan và khách quan, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nâng cao tính hiệu
quả trong việc tự học KNN tiếng Anh trong môi trường HKH.
Với người học, nhằm nâng cao kĩ năng xử lí thông tin nghe, mức độ thành thạo trong việc sử dụng
ngôn ngữ [Tiếng Anh] và khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu người học bên cạnh việc học tập
từ các nguồn nghe trực tuyến trong môi trường HKH, cần tạo cho mình một thói quen luyện nghe
mỗi ngày qua các trang báo chính thống hoặc nghe bản tin [có chủ đề đa dạng] bằng cả tiếng Anh và
tiếng Việt để nâng cao khả năng ngôn ngữ. Thói quen nghe hàng ngày sẽ rèn luyện cho người học
KNN tiếng Anh, khả năng phản xạ và xử lí thông tin và lối tư duy theo người bản ngữ. Ngoài ra một
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
số kĩ năng luyện nghe qua bài hát, qua xem phim hay nghe các bài thuyết trình nói chuyện trên mạng,
luyện nghe qua các bài tập nghe và việc thực hiện việc chép chính tả với các nội dung nghe mỗi ngày
cũng là một kĩ thuật để tăng vốn từ vựng, rèn luyện KNN, độ thành thạo về ngôn ngữ của người học.
Đây cũng chính là một trong các yếu tố giúp người học làm giàu kiến thức nền, kiến thức văn hóa xã
hội giúp cho việc học kĩ nghe hiệu quả hơn.
Với GV giảng dạy KNN, bản thân GV cần liên tục nghiên cứu tìm tòi các kĩ thuật và chiến lược
nghe tốt, nâng cao kiến thức nền tảng, kiến thức xã hội để hướng dẫn và định hướng cho người học.
Bên cạnh đó, GV có thể giới thiệu và định hướng một số tài liệu học, trang báo hay trang mạng phù
hợp cho học viên tự học. Trong quá trình giảng dạy, GV cần truyền cảm hứng cho người học và nhấn
mạnh vai trò của việc nâng cao khả năng ngôn ngữ, sự thành thạo của ngôn ngữ, khả năng tập trung
thông qua việc lên kế hoạch rèn luyện KNN mỗi ngày. GV trong giờ học trực tiếp trên lớp cần chú ý
đến việc chỉnh sửa phát âm, cách đọc cho người học giúp họ cải thiện khả năng nói tốt sẽ giúp cho
người học nghe được chuẩn hơn và chính xác hơn.
Với các yếu tố khách quan liên quan đến nội dung, chất lượng, tốc độ, v.v của đoạn băng nghe
nhiệm vụ nghe, việc xây dựng tài liệu và giáo trình học nghe trong môi trường HKH cần tạo ra sự
liên kết chặt chẽ giữa các nội dung HTT và học trên lớp nhằm hỗ trợ và tăng tính hiệu quả. Với
nguồn tài liệu nghe cung cấp cho SV, trước hết cần sử dụng các băng nghe chuẩn của người bản ngữ
có nội dung phù hợp với chủ điểm của bài học. Với các nội dung nghe không có nguồn bài nghe phù
hợp có thể tiến hành thiết kế các bài nói, bài hội thoại trước khi thực hiện ghi âm. Sau đó, GV có thể
tự thiết kế các nhiệm vụ nghe, bài tập đi kèm phù hợp với trình độ của người học. Các băng nghe sử
dụng cho người học để đảm bảo phải được thu âm trong phòng thu âm chuẩn, có cách âm tốt, có tốc
độ phù hợp với trình độ của người học. Các câu hỏi thiết kế theo băng nghe cần đảm bảo rõ ràng, độ
dài phù hợp với trình độ, độ khó không vượt quá so với băng nghe về từ vựng và ngữ pháp, dạng bài
phù hợp với thể loại của băng nghe. Và luôn luôn hướng dẫn nhắc nhở người học về việc thực hiện
hoạt động nghe trong môi trường yên tĩnh để tăng độ tập trung trong suốt quá trình nghe.
Cuối cùng, trong quá trình xây dựng chương trình HKH, yếu tố về kĩ thuật đóng vai trò quyết
định. Do đó, Nhà trường cần đảm bảo đường truyền, hệ thống mạng được ổn định để có thể phục vụ
việc HTT của tất cả SV được thuận lợi và suôn sẻ. Với việc học KNN, hệ thống cần xây dựng các
công cụ nghe được hỗ trợ trên hầu hết các thiết bị bao gồm cả máy tính và điện thoại thông minh,
giúp tăng tính tiện lợi và hiệu quả của việc học.
6. Kết luận
Nghiên cứu thực hiện khảo sát, phân tích quan điểm của giáo viên và sinh viên tại trường
ĐHCNHN về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết
hợp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 14 yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học kĩ năng nghe ngoại ngữ
của người học với 8 yếu tố chủ quan và 6 yếu tố khách quan trong đó có 4 yếu tố chủ quan và 6 yếu
tố khách quan ảnh hưởng nhiều đến người học. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm hạn chế các yếu tổ ảnh hưởng mang tính khách quan và chủ quan đó trong quá trình học kĩ
năng nghe theo các phạm trù là từ phía người học, từ phía giáo viên, tài liệu học tập dành cho việc
học kĩ năng nghe và hệ thống mạng hỗ trợ thực hiện phương pháp học này. Bài báo góp phần vào quá
trình nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập kĩ năng nghe tiếng Anh tại trường và các cơ sở giáo
dục bậc đại học.
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Chi, Hoàng Thị Xuân Hoa [2006], Đổi mới phương pháp
dạy tiếng Anh ở trung học phổ thông Việt Nam. Nxb Giáo dục Việt Nam.
Tiếng Anh
2. Adas, D., & Bakir, A. [2013], Writing difficulties and new solutions: Blended learning as
an approach to improve writing abilities. International Journal of Humanities and Social
Science, 3[9], 254-266.
3. Bonk, C. J., & Graham, C. R. [2012], The handbook of blended learning: Global
perspectives, local designs. San Francisco, CA: John Wiley & Sons.
4. Garrison, D. R. & Kanuka, H. [2004], Blended learning: Uncovering its transformative
potential in higher education. The Internet and higher education, 7[2], 95-105.
5. Ghazizadeh, T., & Fatemipour, H. [2017], The effect of blended learning on EFL
learners’ reading proficiency. Journal of Language Teaching and Research, 8[3], 606-
614.
6. Goh, Ch [2000], A cognitive perspective on language learners listening comprehension
problems. System, 28, 55-75.
7. Graham, C. R. [2006], Blended learning systems: Definition, current trends, and future
directions. In C. J. Bonk & C. R. Graham [Eds.], Handbook of blended learning: Global
perspectives, local designs [pp. 3-21]. San Francisco, CA: pfeiffer.
8. Graham, C. R. [2012], Blended learning systems: Definition, current trends and future
directions. In C. J. Bonk & C. R. Graham [Eds.], The handbook of blended learning:
Global perspectives, local designs [pp. 63-95]. Hoboken: Pfeiffer.
9. Harmer, J. [2001], The Practice of English Language Teaching. Longman.
10. Hoang, Ngoc Tue [2015], EFL teachers' perceptions and experiences of blended learning
in a Vietnamese university. Diss. Queensland University of Technology.
11. Riel, J., Lawless, K. A., & Brown, S. W. [2016], Listening to the teachers: Using weekly
online teacher logs for ROPD to identify teachers’ persistent challenges when
implementing a blended learning curriculum. Journal of Online Learning Research, 2[2],
169-200.
12. Rubin, J. [1994], A view of second language listening comprehension research. Modern
Language Journal. 78[2], 199-217.
13. Yagang, F. [1994], Listening: Problems and Solutions. English Teaching Forum. 3[1].
Affective factors involved in English listening blended learning at higher education
Abstract: Improving the effectiveness of teaching methods and developing English teaching
materials at higher education institutions is the concern of many researchers, educational
administrators and lecturers. In order to develop appropriate teaching materials, it is necessary to
identify the skills that learners have encountered and the factors that affect those skills. The paper
focuses on researching factors affecting non-majored students' listening skills in learning English at
Hanoi University of Industry.
Key words: blended learning; affective factors; learning English; listening skills; higher
education.
NĂM THỨ 26
26
th
YEARS
Mỗi tháng một số
MONTHLY
Số 5a[297]-2020
MAY 5a[297]-2020
NGÔN NGỮ & đời sống
LANGUAGE AND LIFE
TẠP CHÍ CỦA HỘI NGÔN NGỮ HỌC VIỆT NAM
JOURNAL OF LINGUISTIC SOCIETY OF VIETNAM
TỔNG BIÊN TẬP
Editor-in-Chief
GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Prof. Dr. NGUYEN VAN KHANG
PHÓ TỔNG BIÊN TẬP
Vice Editor-in-Chief
PGS.TS. Phạm Văn Hảo
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN HAO
PGS.TS. Phan Văn Quế
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN QUE
HỘI ĐỒNG BIÊN TẬP Editorial Board
Chủ tịch:
GS.TS. Nguyễn Văn Khang
Chairman:
Prof. Dr. NGUYEN VAN KHANG
Các ủy viên: Members:
PGS.TS. Nguyễn Văn Chính
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN CHINH
GS.TS. Trần Trí Dõi
Prof. Dr. TRAN TRI DOI
PGS.TS. Phạm Văn Hảo
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN HAO
TS. Phạm Hiển
PGS.TS. Phan Văn Hòa
Dr. PHAM HIEN
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN HOA
PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng
Assoc.Prof. Dr. BUI MANH HUNG
TS. Bảo Khâm
Dr. BAO KHAM
PGS.TS. Đặng Ngọc Lệ
Assoc.Prof. Dr. DANG NGOC LE
PGS.TS. Nguyễn Văn Lộc
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN LOC
PGS.TS. Hoàng Tuyết Minh
Assoc.Prof. Dr. HOANG TUYET MINH
PGS.TS. Nguyễn Quang Ngoạn
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN QUANG NGOAN
PGS.TS. Nguyễn Văn Nở
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN VAN NO
PGS.TS. Trần Hữu Phúc
Assoc.Prof. Dr. TRAN HUU PHUC
PGS.TS. Ngô Đình Phương
Assoc.Prof. Dr. NGO DINH PHUONG
TS. Nguyễn Văn Quang
Dr. NGUYEN VAN QUANG
PGS.TS. Phan Văn Quế
Assoc.Prof. Dr. PHAN VAN QUE
PGS.TS. Hoàng Quốc
PGS.TS. Nguyễn Đăng Sửu
GS.TS. Lê Quang Thiêm
Assoc.Prof. Dr. HOANG QUOC
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN DANG SUU
Prof. Dr. LE QUANG THIEM
PGS.TS. Phạm Văn Tình
Assoc.Prof. Dr. PHAM VAN TINH
PGS.TS. Nguyễn Lân Trung
PGS.TS. Hồ Ngọc Trung
Assoc.Prof. Dr. NGUYEN LAN TRUNG
Assoc.Prof. Dr. HO NGOC TRUNG
TRƯỞNG PHÒNG BIÊN TẬP - TRỊ SỰ
Head of Editorial-Administrative
ThS. Đặng Kim Dung
DANG KIM DUNG M.A
Trụ sở/Office: Tầng 1, nhà C, ngõ 301 đường Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
Floor 1, House C, Lane 301 Nguyen Trai Street, Thanh Xuan District, Hanoi
Điện thoại/Tel: [84] [024] 3.7624212; E-mail:
Giấy phép xuất bản/Licence: 244/GP-BTTT [7-8-2014]
Chỉ số/Index: ISSN 0868 - 3409
In tại /Printed at: Nxb Chính trị Quốc gia/National Political Publishing House
THỂ LỆ GỬI BÀI
CHO TẠP CHÍ “NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG”
1. Tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống” là tạp chí chính thức của Hội Ngôn ngữ học Việt
Nam, thuộc tạp chí được tính điểm ở mức cao nhất trong hệ thống tạp chí trong nước của Hội
đồng Chức danh giáo sư Nhà nước; xuất bản định kì mỗi tháng 01 số [12 số/ năm], trong đó
có 10 số bằng tiếng Việt và 02 số bằng tiếng Anh [vào giữa năm và cuối năm].
2. Bài viết gửi đăng ở tạp chí phải là công trình nghiên cứu có nội dung khoa học mới,
chưa được đăng và chưa gửi đăng ở bất cứ tạp chí nào.
3. Bài viết có độ dài trung bình khoảng dưới 10 trang được soạn trên máy vi tính, khổ
A4, cách lề trái: 2.5cm, lề phải: 2.5cm, trên: 3.6cm, dưới: 4.3cm, font: Times New Roman,
cỡ chữ 11, cách dòng: At least.
4. Bài viết trình bày theo thứ tự như sau:
Tên bài viết bằng tiếng Việt [chữ in] và tiếng Anh [chữ thường, đậm].
Thông tin về tác giả: tên tác giả [viết in] và học hàm, học vị; đơn vị làm việc: Email;
điện thoại.
Tóm tắt và từ khóa bằng tiếng Việt và tiếng Anh: Tóm tắt không quá 150 từ; Từ
khóa: 05 từ .
Nội dung bài viết.
Các chú thích cần thiết và phụ lục [nếu có].
Tài liệu tham khảo chủ yếu là tài liệu được chỉ rõ trong bài viết; hạn chế các tài liệu
không được dẫn, nhất là tài liệu ít liên quan.
5. Các trích dẫn trong bài viết phải có xuất xứ rõ ràng: nguồn dẫn; số trang; nếu dẫn lại
của tác giả khác phải ghi rõ “dẫn theo”.
6. Các bảng biểu, mô hình, sơ đồ cần được trình bày gọn, sáng rõ. Trường hợp bài viết có
kí tự đặc biệt, tác giả cần gửi cho Tòa soạn một bản chính để tiện đối chiếu.
6. Tòa soạn không trả lại bản thảo nếu bài viết không được đăng.
7. Tác giả chịu hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung cũng như xuất xứ
tài liệu trích dẫn của bài viết.
Địa chỉ gửi bài: Email:
Tạp chí “Ngôn ngữ & Đời sống” xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các thầy cô
giáo và bạn đọc đã luôn đồng hành cùng Tạp chí và mong luôn nhận được sự cộng tác chặt
chẽ của các Quý vị.
TẠP CHÍ “NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG”
Giá: 25.000đ
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
NGOẠI NGỮ VỚI BẢN NGỮ
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HỌC KĨ NĂNG
NGHE TIẾNG ANH TRONG MÔI TRƯỜNG HỌC KẾT HỢP
CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC
LÊ THỊ HƯƠNG GIANG* - LÊ THỊ HƯƠNG THẢO**
TÓM TẮT: Việc nâng cao hiệu quả trong phương pháp giảng dạy và xây dựng tài liệu giảng dạy
tiếng Anh tại các cơ sở giáo dục đại học là trăn trở của rất nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lí giáo dục
và giáo viên. Để xây dựng được tài liệu giảng dạy phù hợp cần xác định được những kĩ năng gây khó
khăn cho người học và các yếu tố ảnh hưởng đến những kĩ năng đó. Bài báo tập trung nghiên cứu về
những yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe đến việc học tiếng Anh của sinh viên không
chuyên tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
TỪ KHÓA: học kết hợp; yếu tố ảnh hưởng; học tiếng Anh; kĩ năng nghe; bậc đại học.
NHẬN BÀI: 21/3/2020. BIÊN TẬP-CHỈNH SỬA-DUYỆT ĐĂNG: 20/5/2020
1. Đặt vấn đề
Trên thế giới, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào việc dạy tiếng Anh ngày càng được chú
trọng vì những ưu điểm vượt trội so với việc giảng dạy truyền thống. Tại một số trường đại học ở
Việt Nam, việc giảng dạy và học tập tiếng Anh đã và đang được áp dụng theo mô hình học kết hợp
[HKH] - sự kết hợp giữa học trực tuyến [HTT] vào các hoạt động học trực tiếp trên lớp. Đối với sinh
viên [SV] bậc đại học, kĩ năng nghe [KNN] tiếng Anh là một trong những kĩ năng quan trọng trong
việc học tập ngôn ngữ vì KNN mang lại cho người học cơ hội cảm nhận được ngôn ngữ và nâng cao
toàn diện khả năng sử dụng ngôn ngữ. Trên thực tế, SV bậc đại học gặp nhiều khó khăn trong việc
học và phát triển KNN. Bài báo tập trung khảo sát tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc học nghe của
SV tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội [ĐHCNHN] và đề xuất giải pháp để phát triển nâng cao
tính hiệu quả trong việc học KNN tiếng Anh trong môi trường HKH.
2. Quan niệm về phương pháp học kết hợp
Trong những thập kỉ qua, phương pháp HKH được coi như một xu thế đào tạo mới, và thường
được nhắc tới trong việc tăng cường sự chuyển đổi cơ bản ở các cơ sở giáo dục đại học để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng về việc cung cấp nội dung học cũng như nâng cao chất lượng, tính tiện lợi và
hiệu quả của việc học. Trong bối cảnh của Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, Chính phủ Việt Nam đã coi phương pháp kết hợp là một giải pháp cho các mục tiêu đổi mới giáo
dục đại học, trong đó hai mục tiêu là mở rộng về quy mô và cải thiện chương trình giảng dạy, phương
pháp giảng dạy nhằm nâng cao năng lực của người học đáp ứng nhu cầu học tập mang tính tích cực
và tương tác của người học [dẫn theo Hoang Ngoc Tue [2015]] [10]. Garison and Kanuka [2004] cho
rằng phương pháp kết hợp là sự kết hợp giữa HTT vào các hoạt động học trực tiếp. Những hoạt động
trực tuyến nhằm mục đích cải thiện hiệu quả của việc học [4]. Bonk and Graham [2012] định nghĩa
đây là phương pháp học có sự kết hợp giữa hướng dẫn học trên lớp và học có sự trợ giúp của máy
tính [3]. Theo Graham [2006, 2012], phương pháp kết hợp có thể được phân thành kết hợp trợ giúp,
kết hợp tăng cường và kết hợp chuyển thể. Phương pháp kết hợp trợ giúp tập trung vào việc cung cấp
lượng kiến thức và cơ hội học tập công bằng cho người học thông qua việc sử dụng công cụ trực
tuyến. Kết hợp tăng cường tích hợp thêm phương pháp giảng dạy hiện có bằng cách bổ sung cho các
khóa học trên lớp bằng tài liệu HTT, và thời gian học trên lớp học có thể giảm bớt, các bài học trên
* ThS; Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; Email:
** ThS; Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội; Email: huongthao.hau
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
38
lớp thay thế bằng những bài học mang tính tương tác như hoạt động theo cặp, nhóm, thảo luận tranh
luận của SV. Loại thứ 3 là kết hợp chuyển thể với mục đích thay đổi phương pháp sư phạm cơ bản.
Thay vì việc học theo phương pháp người học chỉ thu nhận thông tin trên lớp thì với loại chuyển thể
này người học tích cực củng cố kiến thức và kĩ năng tiếng Anh thông qua các hoạt động tương tác đa
dạng khác nhau. Với mô hình này, việc sử dụng công nghệ thông tin hỗ trợ quá trình dạy và học của
người học và giáo viên [GV] là thực sự cần thiết. Đồng thời, nội dung và phương pháp học trên lớp
cần điều chỉnh để củng cố và hỗ trợ cho việc HTT [7,7], [8]. Các tác giả khác như Adas & Bakir
[2013], Ghazizadeh & Fatemipour [2017] đã chỉ ra tính hiệu quả của HKH trong việc phát triển kĩ
năng ngôn ngữ [nghe, nói, đọc và viết] của người học thay cho phương pháp học truyền thống hoặc
phương pháp HTT hoàn toàn. Cả người dạy và người học đều có nhận thức và quan điểm tích cực về
phương pháp kết hợp giữa việc HTT và học trên lớp trong giảng dạy tiếng Anh. Họ cho rằng đây là
một phương pháp học hiệu quả và sáng tạo [2], [5]. Tuy nhiên, Riel và các cộng sự [2016] cũng đã
tìm ra một số thách thức trong quá trình thực hiện phương pháp học này như xây dựng nội dung HTT
phù hợp với chương trình học trên lớp, việc quản lí HTT của GV với SV, việc tự học của SV với các
nội dung HTT, và các vấn đề về kĩ thuật xảy ra trong quá trình thực hiện chương trình học [101].
3. Kĩ năng nghe trong học ngoại ngữ
Nghe có vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày và hoạt động nghe chiếm khoảng 45% thời
gian giao tiếp của một người trưởng thành, thông qua quá trình nghe, người tham gia giao tiếp nghe
hiểu được thông điệp để thực hiện hội thoại thành công. Theo nhận định của Harmer [2001], nghe là
một “kĩ năng thu nhận” [receptive skill] - đó là khi người học tiếp nhận ý chính của văn bản thông
qua những gì họ nghe. Thông qua việc hiểu giọng nói, phát âm, ngữ điệu, ngữ pháp, vốn từ mà người
nói sử dụng người nghe tiếp nhận được thông tin và hiểu được ý nghĩa thông điệp của người nói [9].
Học KNN trong quá trình học ngoại ngữ là một nhiệm vụ khó khăn cho phần lớn người học. Goh
[2000] xác định 10 khó khăn trong quá trình học nghe gồm có người nghe [1] không nhận được các
từ mà họ biết trong băng nghe; [2] không nghe được nội dung sau khi họ cố gắng nghĩ đến nghĩa của
từ; [3] không theo được tốc độ nghe; [4] bỏ lỡ mất phần đầu của băng nghe; [5] quá tập trung vào
một phần hoặc không có khả năng tập trung; [6] dễ dàng quên các nội dung mà họ vừa nghe; [7]
không có khả năng khái quát lại các nội dung vừa nghe; [8] không hiểu được trình tự các phần nghe;
[9] biết được từ được nói ra nhưng không hiểu ý nghĩa của nó; [10] không xác định được ý chính của
băng nghe [6]. Hoàng Văn Vân và các cộng sự [2006] xác định người nghe thường gặp khó khăn
trong nghe âm tiếng Anh như cố gắng hiểu được tất cả các từ nhằm nắm bắt ý người nói, không hiểu
được người bản ngữ khi họ nói nhanh và tự nhiên, phải nghe đi nghe lại nhiều lần, không nắm bắt tất
cả các thông tin, không dự đoán được thông tin tiếp theo, và không tập trung khi nghe [1].
Xác định các yếu tố làm ảnh hưởng đến KNN, Rubin [1994] đưa ra năm yếu tố ảnh hưởng đến
KNN hiểu. Thứ nhất, do đặc điểm của băng nghe như tốc độ, điểm dừng, trọng âm và ngữ điệu, điểm
khác biệt giữa ngôn ngữ thứ nhất và ngôn ngữ thứ hai, v.v. Thứ hai, do đặc điểm người tham gia hội
thoại như giới tính và độ thành thạo về ngôn ngữ sử dụng. Thứ ba, là đặc điểm của các nhiệm vụ
nghe như dạng bài, thể loại băng nghe. Thứ tư, yếu tố thuộc về người nghe như trí nhớ, khả năng tập
trung, tuổi tác, giới tính, độ thành thạo, khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất cũng như kiến thức nền.
Cuối cùng, việc của xử lí thông tin nghe của người nghe ví dụ như việc xử lí song song, hoặc sử dụng
các chiến lược trong khi nghe, v.v. [12].
Bên cạnh đó kiến thức nền, kiến thức văn hóa có ảnh hưởng lớn đến KNN, Rubin [1994] bổ sung
với kiến thức nền có sẵn dễ dàng giúp người nghe suy đoán để hoàn thành các nhiệm vụ nghe [12].
Yagang [1994] đưa thêm một yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN đó là yếu tố gây nhiễu bên ngoài
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
như tiếng ồn xuất hiện trong âm thanh của băng nghe hoặc tiếng ồn của môi trường đang diễn ra hoạt
động nghe làm phân tán sự tập trung nghe của người nghe [13].
Như vậy, các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách
quan. Trong đó yếu tố chủ quan xuất phát từ phía người học như: khả năng ghi nhớ thông tin của
người nghe, khả năng tập trung, độ thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả năng sử dụng ngôn
ngữ thứ nhất, kiến thức nền về nội dung nghe, kĩ năng xử lí thông tin nghe, độ tuổi và giới tính của
người nghe. Các nhân tố khách quan có thể nêu ra gồm: nội dung của băng nghe [thể loại đoạn băng
nghe, nội dung chuyên ngành hay thường thức...], chất lượng của băng nghe [tốc độ, điểm dừng, yếu
tố gây nhiễu trong băng nghe...], người thực hiện đoạn băng nghe [giọng nói, giới tính, trọng âm và
ngữ điệu, độ thành thạo của ngôn ngữ...] và các tác vụ nghe [dạng bài, dạng câu hỏi...], môi trường
thực hiện nhiệm vụ nghe [phòng cách âm, yếu tố gây nhiễu bên ngoài như tiếng nói chuyện, tiếng xe
cộ...], trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [nghe loa, nghe tai nghe, nghe đài...]. Đây là cơ sở để
nhóm tác giả xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh của SV và đề xuất một số
giải pháp nâng cao việc học KNN cho SV đại học tại trường.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe trong môi trường học kết hợp
Tại trường ĐHCNHN, việc giảng dạy tiếng Anh được thực hiện theo phương pháp kết hợp chuyển
thể trong đó kết hợp HTT và học trên lớp. SV được cung cấp kiến thức và luyện tập một số kĩ năng
tiếng Anh trên trang HTT trước khi lên lớp học trực tiếp và luyện tập các kĩ năng với GV. Nhóm tác
giả thực hiện khảo sát nhằm xác định kĩ năng tiếng Anh gây khó khăn nhất cho SV và sau đó nhóm
tác giả tiếp tục tiến hành khảo sát nhằm xác định kĩ năng tiếng Anh gây khó khăn cho SV và các yếu
tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng đó trong môi trường HKH của SV đại học tại trường. Nhóm
nghiên cứu tiến hành khảo sát lấy ý kiến của 880 SV đại học đang học tiếng Anh và 48 GV tham gia
giảng dạy tiếng Anh tại trường ĐHCNHN.
Kết quả khảo sát về kĩ năng gây khó khăn với SV trong môi trường HKH theo quan điểm của GV
và SV được thể hiện trong bảng 1 và bảng 2 dưới đây.
Bảng 1. Quan điểm của sinh viên về mức độ khó khăn của các kĩ năng tiếng Anh
Kết quả khảo sát cho thấy, KNN được đánh giá là gây nhiều khó khăn nhất với tỉ lệ 58% [511 SV]
nhận định là gây nhiều khó khăn và 32% [279 SV] nhận định KNN gây khó khăn trong việc học
tiếng Anh. Kĩ năng nói cũng được coi là kĩ năng thử thách đối với SV học tiếng Anh với tỉ lệ 51%
[452 SV] lựa chọn gây nhiều khó khăn và 34% [301 SV] đánh giá là gây khó khăn. Kĩ năng viết và
đọc cũng được coi là kĩ năng gây khá nhiều khó khăn cho SV khi học tiếng Anh với các tỉ lệ tương
ứng 28% [250 SV], 23% [202 SV] đánh giá gây nhiều khó khăn và 38% [332 SV], 35% [305 SV]
gây khó khăn.
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
40
Bảng 2. Quan điểm của giáo viên về mức độ khó khăn của các kĩ năng tiếng Anh đối với sinh viên
Theo quan điểm của những GV tham gia khảo sát, kĩ năng nói được đánh giá là gây nhiều khó
khăn nhất cho SV với 85% số GV cho rằng kĩ năng này gây khó khăn và nhiều khó khăn cho SV.
Đồng tình với quan điểm của SV, 54% [26 GV] nhận định nghe là kĩ năng SV gặp nhiều khó khăn và
21% [10 GV] cho rằng đây là kĩ năng SV gặp khó khăn. Kĩ năng viết với lệ tương ứng 42% và 31%
GV nhận định ở mức gây nhiều khó khăn và khó khăn. Kĩ năng đọc được coi là gây ít khó khăn nhất
với tỉ lệ 60% [29 GV] đánh giá là kĩ năng này không gây khó khăn và ít khó khăn cho SV.
Như vậy, theo kết quả khảo sát cho thấy tư duy gần như tương đồng của GV về kĩ năng gây nhiều
khó khăn cho SV với thực tế SV gặp khó khăn với kĩ năng nào khi học ngoại ngữ. Những phát hiện
này có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn tài liệu giảng dạy và phương pháp giảng dạy phù hợp
trong chương trình HKH để có những hỗ trợ tốt nhất cho người học. Theo quan điểm của SV và
nhóm GV tham gia khảo sát, KNN và nói được cho là kĩ năng gây nhiều khó khăn cho người học
ngoại ngữ, 2 kĩ năng này luôn gắn liền với nhau trong môi trường học tập và giao tiếp. Trong phạm
vi của nghiên cứu của bài báo, tác giả tiếp tục tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN
của SV trong môi trường HKH và kết quả khảo sát được tóm tắt như sau:
Bảng 3. Quan điểm của sinh viên về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe
Bảng 3 thể hiện quan điểm của SV về các yếu tố ảnh hưởng đến KNN tiếng Anh. Trong các yếu
tố chủ quan, yếu tố có kĩ năng xử lí thông tin nghe, mức độ thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
thứ 2 [Tiếng Anh] và khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu được đánh giá là có ảnh hưởng nhiều
nhất với tỉ lệ tương ứng là 64%, 61% và 59% SV tham gia khảo sát đánh giá ảnh hưởng rất nhiều và
34%, 35%, 38% đánh giá ảnh hưởng nhiều đến việc học KNN. 447 SV tham gia khảo sát [với tỉ lệ
51%] cho rằng khả năng tập trung khi nghe hiểu ảnh hưởng rất nhiều đến việc học kĩ năng nghe hiểu
và 396 SV [45%] có quan điểm là kiến thức nền về nội dung nghe ảnh hưởng nhiều đến việc học kĩ
năng này. Khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất, giới tính và độ tuổi được đánh giá là những yếu tố ít
ảnh hưởng đến việc nghe của SV.
Trong các yếu tố khách quan, hơn 98% số SV tham gia đánh giá yếu tố nội dung của băng nghe
[thể loại đoạn băng nghe, nội dung chuyên ngành hay thường thức], chất lượng của băng nghe [tốc
độ, điểm dừng, yếu tố gây nhiễu trong băng nghe] và người thực hiện đoạn băng nghe [giọng nói,
giới tính, trọng âm và ngữ điệu, độ thành thạo của ngôn ngữ] là 3 yếu tố ảnh hưởng nhiều và rất
nhiều đến việc học KNN. Các yếu tố ảnh hưởng khách quan còn lại cũng được đánh giá là ảnh hưởng
nhiều và rất nhiều với tỉ lệ lựa chọn quanh mức 90%. Một số SV bổ sung yếu tố khác ảnh hưởng khác
đến việc học KNN của các em trong môi trường HKH có liên quan đến đường truyền Internet, hoặc
lỗi kĩ thuật của trang HKH. Do đó, có thể xảy ra việc SV đang thực hiện nghe thì bị lỗi không nghe
được hoặc lỗi mạng do nhiều người vào học một lúc trong những giờ cao điểm. Hoặc lỗi không nghe
được do băng nghe được tải lên hệ thống không được hỗ trợ trên tất cả các thiết bị máy tính và điện
thoại thông minh.
Bảng 4. Quan điểm của giáo viên về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe của sinh
viên
Bảng 4 thể hiện quan điểm của GV giảng dạy tiếng Anh về các yếu tổ ảnh hưởng đến việc học
KNN của SV trong môi trường HKH. Yếu tố liên quan đến kĩ năng xử lí thông tin, mức độ thành
thạo ngôn ngữ thứ 2, khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu, khả năng tập trung khi nghe hiểu và
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
42
kiến thức nền về nội dung nghe [yếu tố chủ quan] được đánh giá là ảnh hưởng nhiều và rất nhiều với
tỉ lệ đánh giá tương ứng là 98%, 95%, 94%, 94% và 90% và 73%. Các yếu tố khách quan bao gồm
nội dung của băng nghe, chất lượng băng nghe, người thực hiện đoạn băng nghe và các tác vụ nghe
được đánh giá ở mức ảnh hưởng nhiều và rất nhiều với tổng các tỉ lệ tương ứng là 92%, 89%, 88% và
83%. Các yếu tố: khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất, giới tính và độ tuổi của người nghe [yếu tố
chủ quan] và yếu tố môi trường thực hiện nhiệm vụ nghe, trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [yếu
tố khách quan] được đánh giá là ít ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh.
Biểu đồ 1 và biểu đồ 2 minh họa mối quan hệ giữa quan điểm của giáo viên và sinh viên tại
trường Đại học Công nghiệp Hà Nội về các yếu chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến việc học kỹ
năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết hợp. Tác giả nhận thấy sự đồng tình trong quan điểm
của hai nhóm đối tượng trên về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố tới việc học kĩ năng nghe của sinh
viên. Bên cạnh đó, mức độ ảnh hưởng của yếu tố chủ quan [khả năng sử dụng ngôn ngữ thứ nhất] và
hai yếu tố khách quan [Môi trường thực hiện nhiệm vụ nghe [phòng cách âm, yếu tố gây nhiễu bên
ngoài như tiếng nói chuyện, tiếng xe cộ...] và trang thiết bị thực hiện nhiệm vụ nghe [nghe loa tổng,
nghe tai nghe, nghe đài]] là có sự khác biệt, tuy nhiên sự khác biệt không quá lớn.
Biểu đồ 1: Biểu đồ so sánh quan điểm của giáo
viên và sinh viên về các yếu tố chủ quan ảnh
hưởng đến việc học kỹ năng nghe tiếng Anh
Biểu đồ 2: Biểu đồ so sánh quan điểm của giáo
viên và sinh viên về các yếu tố khách quan ảnh
hưởng đến việc học kỹ năng nghe tiếng Anh
5. Giải pháp học kĩ năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết hợp
KNN luôn là một thách thức đối với SV học tiếng Anh nói chung và trong môi trường HKH nói
riêng. Sau khi xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến việc học KNN tiếng Anh, xét trên các yếu tố
chủ quan và khách quan, nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nâng cao tính hiệu
quả trong việc tự học KNN tiếng Anh trong môi trường HKH.
Với người học, nhằm nâng cao kĩ năng xử lí thông tin nghe, mức độ thành thạo trong việc sử dụng
ngôn ngữ [Tiếng Anh] và khả năng ghi nhớ thông tin khi nghe hiểu người học bên cạnh việc học tập
từ các nguồn nghe trực tuyến trong môi trường HKH, cần tạo cho mình một thói quen luyện nghe
mỗi ngày qua các trang báo chính thống hoặc nghe bản tin [có chủ đề đa dạng] bằng cả tiếng Anh và
tiếng Việt để nâng cao khả năng ngôn ngữ. Thói quen nghe hàng ngày sẽ rèn luyện cho người học
KNN tiếng Anh, khả năng phản xạ và xử lí thông tin và lối tư duy theo người bản ngữ. Ngoài ra một
Số 5a[297]-2020 NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG
số kĩ năng luyện nghe qua bài hát, qua xem phim hay nghe các bài thuyết trình nói chuyện trên mạng,
luyện nghe qua các bài tập nghe và việc thực hiện việc chép chính tả với các nội dung nghe mỗi ngày
cũng là một kĩ thuật để tăng vốn từ vựng, rèn luyện KNN, độ thành thạo về ngôn ngữ của người học.
Đây cũng chính là một trong các yếu tố giúp người học làm giàu kiến thức nền, kiến thức văn hóa xã
hội giúp cho việc học kĩ nghe hiệu quả hơn.
Với GV giảng dạy KNN, bản thân GV cần liên tục nghiên cứu tìm tòi các kĩ thuật và chiến lược
nghe tốt, nâng cao kiến thức nền tảng, kiến thức xã hội để hướng dẫn và định hướng cho người học.
Bên cạnh đó, GV có thể giới thiệu và định hướng một số tài liệu học, trang báo hay trang mạng phù
hợp cho học viên tự học. Trong quá trình giảng dạy, GV cần truyền cảm hứng cho người học và nhấn
mạnh vai trò của việc nâng cao khả năng ngôn ngữ, sự thành thạo của ngôn ngữ, khả năng tập trung
thông qua việc lên kế hoạch rèn luyện KNN mỗi ngày. GV trong giờ học trực tiếp trên lớp cần chú ý
đến việc chỉnh sửa phát âm, cách đọc cho người học giúp họ cải thiện khả năng nói tốt sẽ giúp cho
người học nghe được chuẩn hơn và chính xác hơn.
Với các yếu tố khách quan liên quan đến nội dung, chất lượng, tốc độ, v.v của đoạn băng nghe
nhiệm vụ nghe, việc xây dựng tài liệu và giáo trình học nghe trong môi trường HKH cần tạo ra sự
liên kết chặt chẽ giữa các nội dung HTT và học trên lớp nhằm hỗ trợ và tăng tính hiệu quả. Với
nguồn tài liệu nghe cung cấp cho SV, trước hết cần sử dụng các băng nghe chuẩn của người bản ngữ
có nội dung phù hợp với chủ điểm của bài học. Với các nội dung nghe không có nguồn bài nghe phù
hợp có thể tiến hành thiết kế các bài nói, bài hội thoại trước khi thực hiện ghi âm. Sau đó, GV có thể
tự thiết kế các nhiệm vụ nghe, bài tập đi kèm phù hợp với trình độ của người học. Các băng nghe sử
dụng cho người học để đảm bảo phải được thu âm trong phòng thu âm chuẩn, có cách âm tốt, có tốc
độ phù hợp với trình độ của người học. Các câu hỏi thiết kế theo băng nghe cần đảm bảo rõ ràng, độ
dài phù hợp với trình độ, độ khó không vượt quá so với băng nghe về từ vựng và ngữ pháp, dạng bài
phù hợp với thể loại của băng nghe. Và luôn luôn hướng dẫn nhắc nhở người học về việc thực hiện
hoạt động nghe trong môi trường yên tĩnh để tăng độ tập trung trong suốt quá trình nghe.
Cuối cùng, trong quá trình xây dựng chương trình HKH, yếu tố về kĩ thuật đóng vai trò quyết
định. Do đó, Nhà trường cần đảm bảo đường truyền, hệ thống mạng được ổn định để có thể phục vụ
việc HTT của tất cả SV được thuận lợi và suôn sẻ. Với việc học KNN, hệ thống cần xây dựng các
công cụ nghe được hỗ trợ trên hầu hết các thiết bị bao gồm cả máy tính và điện thoại thông minh,
giúp tăng tính tiện lợi và hiệu quả của việc học.
6. Kết luận
Nghiên cứu thực hiện khảo sát, phân tích quan điểm của giáo viên và sinh viên tại trường
ĐHCNHN về các yếu tố ảnh hưởng đến việc học kĩ năng nghe tiếng Anh trong môi trường học kết
hợp. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 14 yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học kĩ năng nghe ngoại ngữ
của người học với 8 yếu tố chủ quan và 6 yếu tố khách quan trong đó có 4 yếu tố chủ quan và 6 yếu
tố khách quan ảnh hưởng nhiều đến người học. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất các giải pháp
nhằm hạn chế các yếu tổ ảnh hưởng mang tính khách quan và chủ quan đó trong quá trình học kĩ
năng nghe theo các phạm trù là từ phía người học, từ phía giáo viên, tài liệu học tập dành cho việc
học kĩ năng nghe và hệ thống mạng hỗ trợ thực hiện phương pháp học này. Bài báo góp phần vào quá
trình nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập kĩ năng nghe tiếng Anh tại trường và các cơ sở giáo
dục bậc đại học.
NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5a[297]-2020
44
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Văn Vân, Nguyễn Thị Chi, Hoàng Thị Xuân Hoa [2006], Đổi mới phương pháp
dạy tiếng Anh ở trung học phổ thông Việt Nam. Nxb Giáo dục Việt Nam.
Tiếng Anh
2. Adas, D., & Bakir, A. [2013], Writing difficulties and new solutions: Blended learning as
an approach to improve writing abilities. International Journal of Humanities and Social
Science, 3[9], 254-266.
3. Bonk, C. J., & Graham, C. R. [2012], The handbook of blended learning: Global
perspectives, local designs. San Francisco, CA: John Wiley & Sons.
4. Garrison, D. R. & Kanuka, H. [2004], Blended learning: Uncovering its transformative
potential in higher education. The Internet and higher education, 7[2], 95-105.
5. Ghazizadeh, T., & Fatemipour, H. [2017], The effect of blended learning on EFL
learners’ reading proficiency. Journal of Language Teaching and Research, 8[3], 606-
614.
6. Goh, Ch [2000], A cognitive perspective on language learners listening comprehension
problems. System, 28, 55-75.
7. Graham, C. R. [2006], Blended learning systems: Definition, current trends, and future
directions. In C. J. Bonk & C. R. Graham [Eds.], Handbook of blended learning: Global
perspectives, local designs [pp. 3-21]. San Francisco, CA: pfeiffer.
8. Graham, C. R. [2012], Blended learning systems: Definition, current trends and future
directions. In C. J. Bonk & C. R. Graham [Eds.], The handbook of blended learning:
Global perspectives, local designs [pp. 63-95]. Hoboken: Pfeiffer.
9. Harmer, J. [2001], The Practice of English Language Teaching. Longman.
10. Hoang, Ngoc Tue [2015], EFL teachers' perceptions and experiences of blended learning
in a Vietnamese university. Diss. Queensland University of Technology.
11. Riel, J., Lawless, K. A., & Brown, S. W. [2016], Listening to the teachers: Using weekly
online teacher logs for ROPD to identify teachers’ persistent challenges when
implementing a blended learning curriculum. Journal of Online Learning Research, 2[2],
169-200.
12. Rubin, J. [1994], A view of second language listening comprehension research. Modern
Language Journal. 78[2], 199-217.
13. Yagang, F. [1994], Listening: Problems and Solutions. English Teaching Forum. 3[1].
Affective factors involved in English listening blended learning at higher education
Abstract: Improving the effectiveness of teaching methods and developing English teaching
materials at higher education institutions is the concern of many researchers, educational
administrators and lecturers. In order to develop appropriate teaching materials, it is necessary to
identify the skills that learners have encountered and the factors that affect those skills. The paper
focuses on researching factors affecting non-majored students' listening skills in learning English at
Hanoi University of Industry.
Key words: blended learning; affective factors; learning English; listening skills; higher
education.