Tóm tất sách cơ sở văn hóa việt nam - trần ngọc thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Tài liệu học tập
1. Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2004.

Bố cục: 6 chương
• C1. Văn hóa học và văn hóa VN.
• C2. Văn hóa nhận thức.
• C3. Văn hóa tổ chức đời sống tập thể.
• C4. Văn hóa tổ chức đời sống cá nhân.
• C5. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên.
• C6. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội.

HÌNH THỨC THI: TỰ LUẬN
CÁCH THỨC LÀM BÀI:
1. MỞ ĐẦU
2. NỘI DUNG
3. KẾT LUẬN: CÓ LIÊN HỆ THỰC TIỄN

CHƯƠNG I

VĂN HÓA HỌC VÀ
VĂN HÓA VIỆT NAM

Page 2

YOMEDIA

Giáo trình Cơ sở Văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm có cấu trúc gồm các nội dung: Văn hóa học và văn hóa VN, văn hóa nhận thức, văn hóa tổ chức đời sống tập thể, văn hóa tổ chức đời sống cá nhân, văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, văn hóa ứng xử với môi trường xã hội. Hi vọng tài liệu sẽ giúp ích cho các bạn trong quá trình học tập cũng như muốn tìm hiểu thêm về nền Văn hóa của dân tộc.

15-11-2016 3649 218

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAMTái bản lần thứ 2 LỜI GIỚI THIỆUTừ các chương trình được soạn thảo công phu của gần ba mươitrường đại học, một số giáo sư có kinh nghiệm về xây dựng chương trìnhđào tạo đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo mời xây dựng Bộ chương trìnhĐại học đại cương dùng cho các năm đầu ở bậc đại học.Bộ chương trình nêu trên đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo banhành dưới dạng Bộ chương trình mẫu [theo quyết định 3244/GD-ĐT ngày12 tháng 9 năm 1995] và đang được các trường đại học và cao đẳng ápdụng. Đây là chuẩn mực tối thiểu về phần kiến thức nền tảng của bậc đạihọc để các cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng áp dụng nhằm nâng dầnmặt bằng kiến thức bậc đại học nước ta ngang tầm với các nước trongkhu vực và trên thế giới. Mong mỏi chung của người học và người dạy làcó được các sách giáo khoa phù hợp với bộ chương trình này do nhữngchuyên gia có kinh nghiệm biên soạn.Đáp ứng nguyện vọng trên, Ban chủ nhiệm Chương trình Giáo trìnhđại học đã mời PGS. TS. Trần Ngọc Thêm viết cuốn Cơ sở văn hoá ViệtNam phục vụ cho chương trình Đại học đại cương. Ban chủ nhiệm Chương trình Giáo trình đại học trân trọng giới thiệuvới bạn đọc và mong nhận được sự góp ý để cuốn sách ngày càng hoànthiện.Ban chủ nhiệmCHƯƠNG TRÌNH GIÁO TRÌNH ĐẠI HỌCBộ Giáo dục và Đào tạo Lời nói đầu bản in năm 1997Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế ngày càng phát triển và các quốcgia trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau thì văn hóa dân tộc ngàycàng trở thành trung tâm của sự chú ý. Những năm gần đây, văn kiện củaĐảng và Nhà nước Việt Nam nhiều lần khẳng định vai trò quan trọng củavăn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đồng thờiđặt mục tiêu "xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dântộc".Chính là nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đó, từ năm học 1990-1991, trong khuôn khổ nhóm ngành ngoại ngữ của hệ thống đại học đã bắtđầu giảng dạy môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam. Đây là môn học nhằmcung cấp cho sinh viên những tri thức cơ bản cần thiết cho việc hiểu mộtnền văn hóa, giúp họ nắm được các đặc trưng cơ bản cùng các quy luậthình thành và phát triển của văn hóa Việt Nam. Với một số bổ sung vàđiều chỉnh, chương trình Cơ sở văn hóa Việt Nam đã được chính thức banhành năm 1995 trong bộ chương trình giáo dục đại học đại cương nhưmột môn học bắt buộc cho chương trình 6 và lựa chọn cho các chươngtrình còn lại.Với tư cách là Chủ tịch Hội đồng Ngữ học và Việt Nam học cho khốiđại học ngoại ngữ của Bộ Giáo dục và Đào tạo và chủ trì xây dựngchương trình môn Cơ sở văn hóa Việt Nam từ năm 1990, chúng tôi đãnhận trách nhiệm xây dựng giáo trình môn học này theo tinh thần của vănhóa học - khoa học về văn hóa. Các kết quả được công bố từng bước mộtcách thận trọng: từ những phác thảo đầu tiên năm 1991 [do Trường Đạihọc Ngoại ngữ Hà Nội xuất bản], rồi được nghiệm thu với tư cách đề tàikhoa học cấp Bộ vào năm 1994 và được Bộ GD và ĐT tặng Bằng khentrong đợt bình tuyển các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệtrong 5 năm 1991-1995, cho đến bản in tương đối hoàn chỉnh dày 504trang vào năm 1995 [do Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM xuất bản].Bản in này đã thực sự thu hút sự chú ý rộng rãi của dư luận trong nước vàViệt kiều ở nước ngoài.Xuất phát từ cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam năm 1995, chúng tôi đãtiếp tục công việc theo hai hướng: Một mặt, bổ sung tư liệu và củng cố cáclập luận để mở rộng thành một CHUYÊN LUẬN KHOA HỌC xuất bản dướitên gọi Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam: cái nhìn hệ thống - loại hình[NXB Tp. HCM, tháng 7-1996, 672 trang] và tái bản sau 5 tháng [tháng 1-1997, 684 trang]. Mặt khác, tiếp thu ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúngtôi đã gạn lọc giữ lại những nội dung có sự thống nhất ở một mức độ nhấtđịnh trong giới khoa học để soạn thành GIÁO TRÌNH, theo hướng này, đãlần lượt ra đời các bản giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam do TrườngĐHTH Tp. HCM xuất bản năm 1996 [381 trang], ĐHKHXH và NV thuộcĐHQG Tp. HCM xuất bản tháng 2-1997 [283 trang]. Cuốn sách bạn đọcđang cầm trong tay được hoàn thiện trên cơ sở bản in tháng 2-1997.Những nội dung gây tranh luận [như sự đối lập quá rạch ròi hai loại hìnhvăn hóa, những lý giải về nguồn gốc âm dương, ngũ hành ], cũng nhưnhững gì quá đi sâu đều đã được loại bỏ hoặc đưa vào các phần chúthích, đọc thêm.Giáo trình được biên soạn theo sát chương trình do Bộ GD và ĐTban hành năm 1995. Theo đó, hệ thống văn hóa Việt Nam được xem xétmột cách đồng đại theo bốn thành tố, nhưng trong mỗi thành tố, một bộphận của thành tố lại chú trọng tới tính lịch đại của nó. Tiến trình văn hóaViệt Nam không chỉ được phác thảo trong chương I [§3], mà còn bao trùmlên toàn bộ cuốn sách: Khởi đầu từ các điều kiện vật chất quy định và địnhvị văn hóa Việt Nam [chương I-§2], ta thu được cái tinh thần là văn hóanhận thức và văn hóa tổ chức đời sống cộng đồng [chương II-IV], để rồicái tinh thần đó lại tác động trở lại đời sống vật chất [chương V: ăn - mặc -ở - đi lại], cũng như cách thức ứng xử và thành quả giao lưu với môitrường xã hội [chương VI]. Từ quá khứ [văn hóa bản địa và giao lưu vớikhu vực], chúng ta đã đi dần đến hiện lại [giao lưu với phương Tây], để rồicuối cùng kết thúc bằng việc xem xét cuộc "đối mặt" đang diễn ra giữa vănhóa cổ truyền với nền kinh tế thị trường và sự thâm nhập của văn minhphương Tây hiện đại.Trong sách, các thông tin bổ trợ để đọc thêm được phân biệt bằngkiểu chữ riêng, với cỡ chữ nhỏ hơn; để nắm được nội dung cơ bản, có thểbỏ qua không cần đọc những đoạn này. Ngược lại, để mở rộng kiến thứcthì, ngoài những thông tin phụ in bằng kiểu chữ riêng, ở cuối sách giớithiệu một danh mục tài liệu đọc thêm tối thiểu. Để tiện cho việc sử dụng,cuối sách còn có các câu hỏi cho từng chương và một số câu hỏi chung,đòi hỏi sự tổng hợp kiến thức và suy luận; đây chỉ là những câu hỏi mangtính chất gợi ý, các thầy cô có thể cụ thể hóa hoặc tiếp tục bổ sung thêm.Để có được giáo trình này, trong những năm qua, tác giả đã nhậnđược sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Vụ Đào tạo đại học Bộ GD và ĐT,của Hội đồng liên ngành Ngoại ngữ, của Ban chủ nhiệm Chương trìnhmục tiêu về Giáo trình Đại học, của Trường ĐH Tổng hợp Tp. HCM [trướcđây] và Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc giaTp. Hồ Chí Minh [hiện nay], của các nhà nghiên cứu lớp đàn anh như GS.Lương Duy Thứ, GS. Nguyễn Tài Cẩn, GS. Phạm Đức Dương. GS.Nguyên Tấn Đắc, TS. Dương Thiệu Tống, PGS.PTS. Tạ Văn Thành, PGS.Chu Xuân Diên, PGS. Trần Thanh Đạm, GS. Lý Chánh Trung, nhà nghiêncứu Phật học Minh Chi, cùng nhiều bậc đàn anh và nhiều đồng nghiệp bạnbè khác ở trong nước và nước ngoài. Trước khi xuất bản, sách lại được GS. Phạm Đức Dương [Chủ tịchHội Đông Nam Á học Việt Nam], GS. Đinh Gia Khánh [nguyên viện trưởngViện Nghiên cứu văn hóa dân gian] và GS. Nguyễn Khắc Phi [chuyên giavăn học Trung Quốc, NXB Giáo dục] đọc góp ý. Đặc biệt, những nhận xétrất kỹ càng và chính xác của GS. Đinh Gia Khánh và GS. Nguyễn KhắcPhi đã giúp cho bản thảo hoàn thiện hơn rất nhiều. Chúng tôi cũng bày tỏnơi đây lòng biết ơn chân thành đối với GS. Nguyễn Như Ý [Tổng biên tậpNXB Giáo dục] và PTS. Tăng Kim Ngân [biên tập viên], những người đãgóp phần quan trọng cho sự ra mắt chính thức của giáo trình.Cuối cùng, dù cố gắng đến mấy, sách chắc vẫn chưa tránh khỏi hếtmọi sai sót. Kính mong độc giả cùng các bạn sinh viên tiếp tục góp ý, phêbình để giáo trình này ngày một hoàn thiện hơn.Tp. Hồ Chí Minh, mùa thu năm Đinh Sửu 1997PGS.TS. TRẦN NGỌC THÊMĐôi điều về tác giả:Trần Ngọc Thêm. Sinh năm 1952 tại x. Hiền Đa, h. Sông Thao, t. Phú ThọTốt nghiệp ngành Ngôn ngữ toán Trường ĐH Tổng hợp Quốc gia Leningrad [nay là St-Petersburg, Nga] năm 1974. Bảo vệ Phó tiến sĩ năm 1987 và Tiến sĩ khoa học ngữ văn năm 1988 tại ĐHTH Quốc gia Leningrad. Được phong Phó giáo sư năm 1991. Được bầu làm Viện sĩ nước ngoài Viện Hàn lâm khoa học tự nhiên CHLB Nga năm 1999.1975-1992 giảng dạy tại Khoa ngữ văn ĐHTH Hà Nội. Từ 1992 đến nay giảng dạy tại Trường ĐH KHXH & NV thuộc ĐHQG Tp.HCM và nhiều trường đại học khác. Trưởng Khoa Ngôn ngữ và Văn hoá Đông phương thuộc Trường ĐH Ngoại ngữ - Tin học Tp.HCM trong các năm 1995-1999, hiện là Phó Trưởng khoa Đông phương học Trường ĐH KHXH & NV thuộcĐHQG Tp.HCMĐịa chỉ: 705B Bùi Đình Tuý, phường 12, quận Bình Thạnh, Tp.HCMEmail: Văn hoá là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng dân tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh.PhạmVăn Đồng Văn hoá là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cảLa culture, c’est ce qui reste quand on a tout oublié; c’est ce qui manque quand on a tout apprisEdouard HERRIOTChương I – VĂN HOÁ HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM Chương II - VĂN HOÁ NHẬN THỨC Chương III - VĂN HOÁ TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG TẬP THỂ Chương IV - VĂN HOÁ TỔ CHỨC ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN Chương V - VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG TỰ NHIÊN Chương VI - VĂN HOÁ ỨNG XỬ VỚI MÔI TRƯỜNG XÃ HỘI KẾT LUẬN CÂU HỎI ÔN TẬP TÀI LIỆU ĐỌC THÊM Created by AM Word2CHMChương I – VĂN HOÁ HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM Dẫn nhậpChương này chuẩn bị những tiền đề lí luận chung về văn hóa học vàvăn hóa Việt Nam làm nền tảng cho việc xem xét các đặc trưng của vănhóa Việt Nam, qua đó thấy được những quy luật hình thành và phát triểncủa nó. Để có cơ sở xuất phát, trước hết phải nắm được khái niệm vănhóa thông qua những đặc trưng cơ bản cần và đủ để phân biệt nó với cáckhái niệm khác, đặc biệt là phân biệt văn hóa với văn minh. Tiếp theo, cầnxác định [định vị] được thế nào là văn hóa Việt Nam; công việc này baogồm việc xác định loại hình của văn hóa Việt Nam, chủ thể [nguồn gốc dântộc], không gian và thời gian của văn hóa Việt Nam. Sau khi định vị đượcrồi, cần phải có một cái nhìn bao quát về tiến trình phát triển của văn hóaViệt Nam, bao gồm các lớp văn hóa và các giai đoạn văn hóa.Bởi vậy, trong chương này chúng ta sẽ tìm hiểu 3 vấn đề sau: 1- Văn hoá và văn hóa học;2- Định vị văn hóa Việt Nam;3- Tiến trình văn hóa Việt Nam.Bài 1 - VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC Bài 2: ĐỊNH VỊ VĂN HÓA VIỆT NAM Bài 3: TIẾN TRÌNH VĂN HÓA VIỆT NAM Created by AM Word2CHMBài 1 - VĂN HÓA VÀ VĂN HÓA HỌC CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM  Chương I – VĂN HOÁ HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM1.1. Định nghĩa văn hóaTừ "văn hóa" có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa đượcdùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức [trình độ văn hóa], lối sống[nếp sống văn hóa]; theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển củamột giai đoạn [văn hóa Đông Sơn] Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóabao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng,phong tục, lối sống, lao động Chính với cách hiểu rộng này, văn hoá mớilà đối tượng đích thực của văn hóa học.Tuy nhiên, ngay cả với cách hiểu rộng này trên thế giới cũng cóhàng trăm định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm, trước hếtcần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Đó là những nét riêngbiệt và tiêu biểu, cần và đủ để phân biệt khái niệm [sự vật] ấy với kháiniệm [sự vật] khác. Phân tích các cách tiếp cận văn hóa phổ biến hiện nay[coi văn hóa như tập hợp, như hệ thống, như giá trị, như hoạt động, nhưkí hiệu, như thuộc tính nhân cách, như thuộc tính xã hội ], có thể xácđịnh được 4 đặc trưng cơ bản mà tổng hợp lại, ta có thể nêu ra một địnhnghĩa văn hoá như sau:VĂN HOÁlà một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinhthần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thựctiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.Dưới đây, chúng ta đi vào xem xét từng đặc trưng của văn hóađược nói đến trong định nghĩa cùng các chức năng của nó. 1.2. Các đặc trưng và chức năng của văn hóa1.2.1 Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống.Đặc trưng này cần để phân biệt hệ thống với tập hợp; nó giúp pháthiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện tượng, sự kiện thuộc mộtnền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật hình thành và pháttriển của nó.Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể baotrùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội.Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấpcho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiênvà xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội - có lẽ chính vì vậy màngười Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hoá[nền văn hóa].1.2.2. Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.Văn hóa theo nghĩa đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị".Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị [vd: thiên tai, mafia]. Nó làthước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.Các giá trị văn hóa, theo mục đích có thể chia thành giá trị vật chất[phục vụ cho nhu cầu vật chất] và giá trị tinh thần [phục vụ cho nhu cầutinh thần]; theo ý nghĩa có thể chia thành giá trị sử dụng, giá trị đạo đức vàgiá trị thẩm mĩ; theo thời gian có thể phân biệt các giá trị vĩnh cửu và giá trịnhất thời. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho phép ta có được cáinhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị của sự vật,hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơnhoặc tán dương hết lời.Vì vậy mà, về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng có thể có giá trịnhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét. Muốn kếtluận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xétmối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giá trị" của nó. Về mặtlịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy thuộc vàochuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Áp dụng vào Việt Nam,việc đánh giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhàHồ, nhà Nguyễn đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế.Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hóa thực hiện đượcchức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh xã hội, giúp cho xãhội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự hoàn thiện vàthích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các chuẩnmực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.1.2.3. Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh.Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xãhội [do con người sáng tạo, nhân tạo] với các giá trị tự nhiên [thiên tạo].Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người. Sự tác động của conngười vào tự nhiên có thể mang tính vật chất [như việc luyện quặng, đẽogỗ ] hoặc tinh thần [như việc đặt tên, truyền thuyết cho các cảnh quanthiên nhiên ].Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụcủa đất nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đốitượng của nó bao gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất thiết chỉ baogồm các giá trị. Về mặt này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đấtnước học chủ yếu quan tâm đến các vấn đề đương đại, về mặt này thì nóhẹp hơn văn hóa học.Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền conngười với con người, nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liênkết họ lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa lànội dung của nó.1.2.4. Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm của một quá trình vàđược tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm cuối cùng, chỉra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn hóa mộtbề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiếnhành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằngtruyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổnđịnh [những kinh nghiệm tập thể] được tích lũy và tái tạo trong cộng đồngngười qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫuxã hội và cố định hóa dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán. nghi lễ,luật pháp, dư luận Truyền thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục làchức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chứcnăng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định [truyền thống], màcòn bằng cả những giá trị đang hình thành. Hai loại giá trị này tạo thànhmột hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóađóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách [trồng người]. Từchức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kếtục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con ngườilại cho các thế hệ mai sau. Bảng 1.1: Xác định khái niệm "văn hóa"Tóm lại, 4 đặc trưng vừa xét là cần và đủ để cho phép ta xác địnhkhái niệm “văn hóa " [xem bảng 1.1]. 1.3. Văn hóa với Văn minh, Văn hiến, Văn vật1.3.1. Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng văn minh [civilization]như một từ đồng nghĩa với văn hóa. Song thật ra, đây là hai khái niệm rấtkhác nhau. Trong các từ điển, từ "văn minh" có thể được định nghĩa theonhiều cách, song chúng thường có một nét nghĩa chung là “trình độ pháttriển": trong khi văn hóa luôn có bề dày của quá khứ [tính lịch sử] thì vănminh là một lát cắt đồng đại, nó cho biết trình độ phát triển của văn hóa ởtừng giai đoạn. Nói đến văn minh, người ta còn nghĩ đến các tiện nghi.Như vậy, văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính giá trị: trong khi vănhóa chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh chủ yếu thiên vềcác giá trị vật chất mà thôi.Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịchsự dẫn đến sự khác biệt về phạm vi: Văn hoá mang tính dân tộc; còn vănminh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn hoặc cảnhân loại, bởi lẽ cái vật chất thì dễ phổ biến, lây lan. Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hoá gắn bó nhiều hơnvới phương Đông nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn vớiphương Tây đô thị. Trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, tại cựulục địa Âu-Á [Eurasia] đã hình thành hai vùng văn hóa lớn là “phương Tây”và “phương Đông”: phương Tây là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ Châu Âu[đến dãy Uran]; phương Đông là khu vực đông-nam gồm châu Á và châuPhi. Các nền văn hóa cổ đại lớn mà nhân loại từng biết đến đều xuất pháttừ phương Đông: Trung Hoa, Ấn Độ, Lưỡng Hà, Ai Cập. Nền văn hóaphương Tây sớm nhất là Hi-La [Hi Lạp và La Mã] cũng có nguồn gốc từphương Đông, nó được hình thành trên cơ sở tiếp thu những thành tựucủa các nền văn hóa Ai Cập và Lưỡng Hà. Các nền văn hóa phương Đôngđều hình thành ở lưu vực các con sông lớn là những nơi có địa hình và khíhậu rất thuận tiện cho sản xuất nông nghiệp. Ở các ngôn ngữ phươngTây, từ “văn hóa” bắt nguồn từ chữ cultus tiếng Latinh có nghĩa là “trồngtrọt”, còn từ “văn minh” thì bắt nguồn từ chữ civitas có nghĩa là “thành phố”1.3.2. Ở Việt Nam còn có các khái niệm văn hiến và văn vật. Từđiển thường định nghĩa văn hiến là “truyền thống văn hóa lâu đời”, còn vănvật là “truyền thống văn hóa biểu hiện ở nhiều nhân tài và di tích lịch sử”.Các định nghĩa này cho thấy văn hiến và văn vật chỉ là những khái niệmbộ phận của "văn hóa", chúng khác văn hóa ở độ bao quát các giá trị: Vănhiến là văn hoá thiên về “truyền thống lâu đời", mà truyền thống lâu đờicòn lưu giữ được chính là các giá trị tinh thần; còn văn vật là văn hóa thiênvề các giá trị vật chất [nhân tài, di tích, hiện vật]. Chính vì vậy mà ông chata thường nói đất nước 4000 năm văn hiến, nhưng lại nói Hà Nội - ThăngLong ngàn năm văn vật. Phương Tây không có các khái niệm văn hiến,văn vật, cho nên hai từ này không thể dịch ra các ngôn ngữ phương Tâyđược. Sự phân biệt bốn khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vậtđược trình bày trong bảng 1.2. VĂN VẬT VĂN HIẾN VĂN HÓA VĂN MINHThiên về giátrị vật chấtThiên về giátrị tinh thầnChứa cả giá trịvật chất lẫn tinhthầnThiên về giá trị vật chất - kĩ thuậtCó bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triểnCó tính dân tộc Có tính quốc tếGắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệpGắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thịBảng 1.2: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật1.4. Cấu trúc của hệ thống văn hóaVăn hóa thường được chia đôi thành văn hóa vật chất và văn hóatinh thần. Bên cạnh đó là những cách chia ba, vd: văn hóa vật chất - vănhóa xã hội - văn hóa tinh thần; văn hóa vật chất - văn hóa tinh thần - vănhóa nghệ thuật; sinh hoạt kinh tế - sinh hoạt xã hội - sinh hoạt trí thức…Một số tác giả khác nói đến bốn thành tố như văn hóa sản xuất, văn hóaxã hội, văn hóa tư tưởng, văn hóa nghệ thuật; hoặc hoạt động sinh tồn,hoạt động xã hội, hoạt động tinh thần, hoạt động nghệ thuật…Từ cách tiếp cận hệ thống, có thể xem văn hóa như một hệ thốnggồm 4 thành tố [tiểu hệ] cơ bản với các vi hệ như sau: Mỗi nền văn hóa là tài sản của một cộng đồng người [chủ thể vănhóa] nhất định. Trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ thể văn hóa đó đãtích lũy được một kho tàng kinh nghiệm và tri thức phong phú về vũ trụ vàvề con người - đó là 2 vi hệ của tiểu hệ văn hóa nhận thức.Tiểu hệ thứ hai liên quan đến những giá trị nội tại của chủ thể vănhóa: đó là văn hóa tổ chức cộng đồng. Nó bao gồm 2 vi hệ là văn hóa tổchức đời sống tập thể [ở tầm vĩ mô như tổ chức nông thôn, quốc gia, đôthị], và văn hóa tổ chức đời sống cá nhân [liên quan đến đời sống riêngmỗi người như tín ngưỡng, phong tục, giao tiếp, nghệ thuật ].Cộng đồng chủ thể văn hóa tồn tại trong quan hệ với hai loại môitrường - môi trường tự nhiên [thiên nhiên, khí hậu ] và môi trường xã hội[các dân tộc, quốc gia khác]. Cho nên, cấu trúc văn hóa còn chứa hai tiểuhệ liên quan đến thái độ của cộng đồng với hai loại môi trường đó là vănhóa ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hóa ứng xử với môi trường xãhội.Với mỗi loại môi trường, đều có thể có hai cách xử thế phù hợp vớihai loại tác động của chúng [tạo nên 2 vi hệ]: tận dụng môi trường [tácđộng tích cực] và ứng phó với môi trường [tác động tiêu cực]. Với môitrường tự nhiên, có thể tận dụng để ăn uống, tạo ra các vật dụng hàngngày ; đồng thời phải ứng phó với thiên tai [trị thủy], với khoảng cách[giao thông], với khí hậu và thời tiết [quần áo, nhà cửa ]. Với môi trườngxã hội, bằng các quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa, mỗi dân tộc đềucố gắng tận dụng những thành tựu của các dân tộc lân bang để làm giàuthêm cho nền văn hóa của mình; đồng thời lại phải lo ứng phó với họ trêncác mặt trận quân sự, ngoại giao Dưới góc độ đồng đại, hệ thống văn hóa còn có thể có nhiều cáchphân chia khác. Chẳng hạn, trong quan hệ với cộng đồng, có thể phân biệtvăn hoá dân gian và văn hóa chính thống. Trong quan hệ với địa bàn cưtrú, có thể phân biệt văn hóa biển, văn hóa đồng bằng và văn hóa núi.Cũng vậy, có sự khác biệt giữa văn hóa Việt với văn hóa các dân tộc ítngười. Những cách phân chia này cần được vận dụng kết hợp với cáchphân chia chính.Cả 4 thành tố của hệ thống văn hóa đều bị quy định bởi một gốcchung là loại hình văn hóa. Nếu mô hình cấu trúc của hệ thống văn hóacho ta thấy CÁI CHUNG, cái đồng nhất trong tính hệ thống của các nềnvăn hóa thì loại hình văn hóa sẽ cho ta thấy CÁI RIÊNG, cái khác biệttrong tính hệ thống của chúng. Cấu trúc của hệ thống văn hóa trong quanhệ với loại hình văn hóa được trình bày trong hình 1.1.1.5. “Cơ sở văn hóa” và các bộ môn văn hóa họcVăn hóa học [culturology] là khoa học nghiên cứu về văn hóa.Vì văn hóa bao quát một phạm vi quá rộng cho nên trong một thờigian dài, người ta chỉ chú ý đến các khoa học bộ phận mà không có khoahọc nào lấy văn hóa làm đối tượng. Ở phương Tây, mãi đến năm 1871,“văn hóa" mới được E.B.Taylor định nghĩa lần đầu tiên trong tác phẩm Vănhóa nguyên thủy [Primitive Culture] xuất bản ở London. Nhưng văn hóanhư đối tượng của một khoa học độc lập thì phải đến năm 1885 mới hìnhthành rõ nét với công trình hai tập mang tên Khoa học chung về văn hóacủa Klemm người Đức, trong đó trình bày sự phát sinh phát triển toàn diệncủa loài người như một lịch sử văn hóa. Bản thân thuật ngữ “văn hóa học”[t. Đức: Kulturkunde, t. Anh. Culturology] thì xuất hiện vào năm 1898 tạiĐại hội giáo viên sinh ngữ họp ở Viên [thủ đô nước Áo], song mãi đến saucông trình The Science of Culture của L. White xuất bản ở Mĩ năm 1949,nó mới trở thành phổ biến. Trong sự phát triển của văn hóa học nửa đầu tk. XX có sự đóng gópquan trọng của các nhà nhân học văn hóa Mĩ về việc mở rộng đối tượngvà quy mô nghiên cứu [những năm 30-40, phong trào nghiên cứu văn hóavà ngôn ngữ của thổ dân Mĩ phát triển khá rầm rộ] và của C. Lévi-Straussvề phương pháp nghiên cứu [cuốn Anthropologie Structutral của ông xuấtbản tại Paris năm 1958 đánh dấu việc đưa phương pháp cấu trúc từ lĩnhvực ngôn ngữ học áp dụng vào việc nghiên cứu văn hóa].Văn hoá có thể được xem xét từ nhiều hướng, do vậy văn hóa họccó thể được nghiên cứu và trình bày dưới nhiều góc độ khác nhau, tạonên nhiều môn, phân môn.Dưới góc độ thời gian, môn lịch sử văn hóa [văn hóa sử] khảo sáttiến trình văn hóa của một dân tộc theo từng giai đoạn lịch sử với các tìnhtiết và sự kiện, mở rộng hiểu biết về văn hóa theo chiều dọc.Dưới góc độ không gian, môn địa lí văn hóa [địa văn hóa] có tráchnhiệm khảo sát văn hóa dân tộc theo chiều ngang, trong mối quan hệ vớiđịa lí quốc gia, tìm hiểu đặc điểm của các vùng văn hóa.Dưới góc độ lí luận khái quát chung, văn hóa học đại cương cótrách nhiệm nghiên cứu các quan niệm, các học thuyết, các cách tiếp cậnvăn hóa và văn hóa học nói chung.Cơ sở văn hóa là môn học trình bày những đặc trưng cơ bản cùngcác quy luật hình thành và phát triển của một nền văn hóa cụ thể. Đối vớisinh viên ngành văn hóa học, đây là một môn học mang tính chất nhậpmôn; còn đối với sinh viên các ngành khác, nó trang bị những hiểu biết tốithiểu về một nền văn hóa, một dân tộc để khi bước vào đời, có thể thamgia một cách có ý thức vào việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân tộc.Created by AM Word2CHMBài 2: ĐỊNH VỊ VĂN HÓA VIỆT NAM CƠ SỞ VĂN HOÁ VIỆT NAM  Chương I – VĂN HOÁ HỌC VÀ VĂN HOÁ VIỆT NAM2.1. Loại hình văn hóa gốc nông nghiệpSo sánh các nền văn hóa trên thế giới, người ta thấy chúng vô cùngđa dạng và phong phú. Song, cũng đã từ lâu, người ta nhận thấy giữa cácnền văn hóa có không ít nét tương đồng.Để giải thích sự tương đồng này, đã có nhiều thuyết khác nhau.Thuyết khuếch tán văn hóa [cultural diffusion] phổ biến ở châu Âu vớiquan niệm văn hóa được hình thành từ một trung tâm rồi “lan tỏa" ra cácnơi khác. Thuyết vùng văn hóa [cultural areas] phổ biến ở Mĩ với quanđiểm về khả năng tồn tại nhiều nền văn hóa của các dân tộc khác nhautrên cùng một vùng lãnh thổ. Thuyết loại hình kinh tế - văn hóa phổ biếntrong dân tộc học Xô viết cho rằng trong lịch sử nhân loại từng tồn tại banhóm loại hình kinh tế - văn hóa: săn bắt - hái lượm - đánh cá; nôngnghiệp dùng cuốc và chăn nuôi; nông nghiệp dùng cày với sức kéo độngvật. Các thuyết trên thực ra không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau, mỗithuyết thích hợp cho những điều kiện khác nhau. Thật vậy, nếu các dântộc xuất phát từ cùng một gốc thì giữa văn hóa gốc và các nền văn hóanày có thể có quan hệ lan tỏa. Nếu các nền văn hóa gần gũi nhau về địa líthì chúng có thể từ tiếp xúc đến giao lưu với nhau, tạo nên những vùngvăn hoá. Nếu các nền văn hóa tuy ở cách xa nhau và chưa bao giờ gặpgỡ nhau nhưng lại nằm trong những điều kiện tự nhiên và xã hội tươngđồng thì chúng cũng có thể có những nét giống nhau. Sản phẩm của haitrường hợp này là những đặc trưng loại hình. Đặc trưng loại hình càngmạnh và rõ ở các nền văn hóa cùng gốc và/hoặc gần gũi nhau về địa lí.Như đã nói ở I-§1.3.1, trong lịch sử ở cựu lục địa Âu-Á đã hìnhthành hai vùng văn hóa lớn là "phương Tây" và "phương Đông" : PhươngTây là khu vực tây-bắc gồm toàn bộ châu Âu [đến dãy Uran] ; phươngĐông gồm châu Á và châu Phi; nếu trừ ra một vùng đệm như một dảiđường chéo chạy dài ở giữa từ tây- nam lên đông-bắc thì phương Đôngđiển hình sẽ là khu vực đông-nam còn lại. Hai vùng này có sự khác biệt rõrệt về mọi mặt: Trong khi các ngôn ngữ phương Tây biến hình thì cácngôn ngữ phương Đông chủ yếu là đơn lập; trong khi người phương Tâycoi trọng cá nhân thì người phương Đông coi trọng cộng đồng; trong khingười phương Tây chìa tay ra bắt lúc gặp nhau thì người phương Đôngkhoanh tay cúi đầu.Môi trường sống của cư dân phương Đông [= đông nam] là xứ nóngsinh ra mưa nhiều [ẩm], tạo nên các con sông lớn với những vùng đồngbằng trù phú. Còn phương Tây [= tây bắc] là xứ lạnh với khí hậu khô,không thích hợp cho thực vật sinh trưởng, có chăng chỉ là những vùngđồng cỏ mênh mông. Hai loại địa hình này khiến cho cư dân hai khu vựcphải sinh sống bằng hai nghề khác nhau: trồng trọt và chăn nuôi.Nghề chăn nuôi ở phương Tây phổ biến đến mức trong Kinh Thánh,từ "cừu" được nhắc tới trên 5.000 lần, tín đồ được gọi là "con chiên", Chúalà người "chăn chiên". Lịch sử cho biết người phương Tây xưa chủ yếunuôi bò, cừu, dê ; ăn thịt và uống sữa bò ; áo quần dệt bằng lông cừuhoặc làm bằng da thú vật. W.Durant trong cuốn Nguồn gốc văn minh[1990, tr. 33] cho biết: "Tại những bộ lạc săn bắn và mục súc, loài bò làmột đơn vị giá trị rất tiện Vào thời đại Homer ở Hi Lạp, người ta đánh giángười và vật bằng số bò: bộ binh giáp của Diomède đáng giá 9 con bò,một người nô lệ khéo tay đáng giá 4 con. Người La Mã cũng vậy, họ dùnghai danh từ gần giống nhau - pecus và pecunia - để trỏ bò và tiền bạc". Vềsau, các dân tộc ven biển thì phát triển thương nghiệp buôn bán, các dântộc trong lục địa thì làm nông nghiệp, nhưng chăn nuôi vẫn là mối quantâm chủ yếu của họ. Trong Hồi kí về cuộc chiến tranh ở Gôlơ, Xêda viếtrằng vào thế kỉ II trước Công nguyên, người Giécmanh vẫn sống cuộc đờidu mục ; đến giữa thế kỉ I trước Công nguyên, người Giécmanh đã cấytrồng, song họ "không chí thú với cuộc sống định cư, sau mỗi năm lạichuyển đi nơi khác", họ "đặc biệt không chăm làm nông nghiệp mà sốngchủ yếu bằng sữa và súc vật". Còn nhà sử học La Mã nổi tiếng K. Taxit[54-120 sau Công nguyên] trong tập Giécmani thì cho biết Giécmanh làđất nước "giàu gia súc", người Giécmanh "thích có nhiều gia súc" vì đó là"hình thức của cải duy nhất và dễ chịu nhất". Bộ Luật Salica cho biết vàođầu thế kỉ VI người Frăng làm nông nghiệp nhưng vẫn đặc biệt coi trọngchăn nuôi [bò, lợn], công xã có bãi chăn nuôi chung [dẫn theo Pôlianxki,1978, tr. 30-44].Như vậy, mặc dù sau này các dân tộc phương Tây đã chuyển sangthương nghiệp, rồi phát triển công nghiệp và đô thị, những cái gốc du mụcđã để lại dấu ấn quan trọng trong đời sống văn hóa của họ. Do đó, căn cứvào nguồn gốc của hai khu vực văn hóa, ta có thể nêu ra khái niệm về hailoại hình văn hóa: loại hình văn hóa gốc nông nghiệp và loại hình văn hóagốc du mục.Việt Nam do ở góc tận cùng phía đông-nam nên thuộc loại văn hóagốc nông nghiệp điển hình. Vậy những đặc trưng chủ yếu của loại hìnhvăn hóa gốc nông nghiệp là gì?Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộcngười dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kết trái và thuhoạch. Do sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp cóý thức tôn trọng và ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Người ViệtNam mở miệng là nói "lạy trời", "nhờ trời", "ơn trời" Vì nghề nông, nhất là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụthuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên [Trông trời, trông đất, trôngmây; trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm ] cho nên, về mặt nhậnthức, hình thành lối tư duy tổng hợp]. Tổng hợp kéo theo biện chứng - cáimà người nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà lànhững mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọiyếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng.Người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về cácloại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai cónhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau, được mùa cau thì đaumùa lúa Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theonguyên tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ramột cuộc sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu: Một bồ cái líkhông bằng một tí cái tình. Lối sống trọng tình cảm tất yếu dẫn đến thái độtrọng đức, trọng văn, trọng phụ nữ.Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà  coitrọng cái bếp  coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét:Phụ nữ Việt Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình - ngườinắm tay hòm chìa khóa. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhìtrời; Lệnh ông không bằng cồng bà ; còn theo kinh nghiệm dân gian thìRuộng sâu trâu nái, không bằng con gái đầu lòng. Phụ nữ Việt Nam cũngchính là người có vai trò quyết định trong việc giáo dục con cái: Phúc đứctại mẫu, Con dại cái mang. Vì tầm quan trọng của người mẹ cho nên trongtiếng Việt, từ cái với nghĩa là "mẹ" đã mang thêm nghĩa "chính, quantrọng": sông cái, đường cái, đũa cái, cột cái, trống cái, ngón tay cái, máycái Tư tưởng coi thường phụ nữ là từ Trung Hoa truyền vào [Nhất namviết hữu, thập nữ viết vô; Nam tôn nữ ti; Tam tòng; xem §3.2.3]; đến khiảnh hưởng này trở nên đậm nét [từ lúc nhà Lê tôn Nho giáo làm quốcgiáo], người dân đã phản ứng dữ dội về việc đề cao "Bà chúa Liễu" cùngnhững câu ca dao như: Ba đồng một mớ đàn ông, Đem bỏ vào lồng chokiến nó tha, Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi ! Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á nàyđược nhiều học giả phương Tây gọi là "xứ sở Mẫu hệ" [le Pays duMatriarcat]. Cho đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của vănhóa Trung Hoa như Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng nhưnhiều dân tộc Tây Nguyên [Êđê, Giarai ], vai trò của người phụ nữ vẫnrất lớn: phụ nữ chủ động trong hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cáiđặt tên theo họ mẹ Cũng không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, ngườiKhmer vẫn gọi người đứng đầu phum, sóc của họ là mê phum, mê sóc[mê=mẹ], bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của ngườilàm nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linhhoạt, luôn biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triếtlí sống Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với mamặc áo giấy Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bìnhđẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nềnquân chủ phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây.Lối sống trọng tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộngđồng, tập thể. Người nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôncó tập thể đứng sau.Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờgiấc [giờ cao su], sự thiếu tôn trọng pháp luật Lối sống trọng tình làmcho thói tùy tiện càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng mộttí cái tình Nó dẫn đến tệ "đi cửa sau" trong giải quyết công việc: Nhấtquen, nhì thân, tam thần, tứ thế Trọng tình và linh hoạt làm cho tính tổchức của người nông nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốcdu mục. Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phongcách linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Namkhông những không có chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáothế giới [Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo ] đều được tiếpnhận. Đối phó với các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt Nam luônhết sức mềm dẻo, hiếu hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoạixâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thườngdừng lại chủ động cầu hòa, "trải chiếu hoa" cho giặc về, mở đường chochúng rút lui trong danh dự [xem VI-§6.1.1].Các đặc trưng vừa phân tích của loại hình văn hóa gốc nông nghiệpcó thể được trình bày trong bảng 1.3.Loại hình văn hóa gốc du mục thường có đặc trưng trái ngược:Trong ứng xử với tự nhiên thì nghề chăn nuôi buộc người dân phải đưagia súc đi tìm cỏ, sống du cư, và do nay đây mai đó, ít phụ thuộc vào thiênnhiên nên sinh ra coi thường tự nhiên, dẫn đến tham vọng chinh phục tựnhiên [cho nên phương Tâm đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực này].Trong lĩnh vực nhận thức thì thiên về tư duy phân tích [theo lối kháchquan, lí tính và thực nghiệm, dẫn đến kết quả là khoa học phương Tâyphát triển], đồng thời chú trọng các yếu tố [dẫn đến lối sống thực dụng,thiên về vật chất]. Trong tổ chức cộng đồng thì coi trọng sức mạnh [kéotheo trọng tài, trọng võ, trọng nam giới], coi trọng vai trò cá nhân [dẫn đếnlối sống ganh đua, cạnh tranh nhau một cách khốc liệt], ứng xử theonguyên tắc [khiến cho người phương Tây có được thói quen sống theopháp luật từ khá sớm]. Trong ứng xử với môi trường xã hội thì độc đoántrong tiếp nhận, cứng rắn, hiếu thắng trong đối phó.TIÊU CHÍ VĂN HOÁ GỐC NÔNG NGHIỆPĐặc trưnggốcKhí hậuNghề chínhNắng nóng lắm, mưa ẩm nhiềuTrồng trọtỨng xử với môi trường tựnhiênSống định cư, thái độ tôn trọng, ước mongsống hoà hợp với thiên nhiênLối nhận thức, tư duyThiên về tổng hợp và biện chứng [trongquan hệ]; chủ quan, cảm tính và kinhnghiệmTổ chứccộng đồngNguyên tắc Trọng tình, trọng đức, trọng văn, trọng nữCách thức Linh hoạt và dân chủ, trọng tập thểỨng xử với môi trường xãhộiDung hợp trong tiếp nhận; mềm dẻo, hiếu hoà trong đối phóBảng 1.3: Các đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp2.2. Chủ thể và thời gian văn hóa Việt NamGiống như một điểm trong không gian, vị trí của một nền văn hóatrong xã hội phải được xác định bởi một hệ tọa độ ba chiều: thời gian vănhóa, không gian văn hóa và chủ thể văn hóa. Thời gian văn hoá được xác định từ lúc một nền văn hóa hình thànhđến khi tàn lụi. Thời điểm khởi đầu của một nền văn hóa là do thời điểmhình thành dân tộc [chủ thể văn hóa] quy định.Về nguồn gốc dân tộc Việt Nam - chủ thể văn hóa, từng có khánhiều giả thuyết khác nhau. Gần đây, căn cứ vào những kết quả nghiêncứu về sự hình thành và phân bố các chủng người trên trái đất, có thể nóirằng chủ thể của văn hóa Việt Nam ra đời: [a] trong phạm vi của trung tâm

Video liên quan

Chủ Đề