Top 10 máy bay chiến đấu rẻ nhất năm 2022

Mới đây Tạp chí hàng không nổi tiếng Aero Time đã tổng kết và bình chọn Top 10 tiêm kích hiện đại nhất thế giới 2022.

Bên cạnh khả năng không chiến thì máy bay tiêm kích hiện đại còn phải có khả năng tấn công các mục tiêu trên mặt nước, trên biển. Chúng cần có tốc độ cao, khả năng tàng hình, kèm theo đó là mang tải chiến đấu lớn và thực hiện những đòn tấn công phẫu thuật chính xác.

Tính năng của chúng càng hoàn hảo bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu, nhất là trong môi trường tác chiến hiện đại.

Hiện hầu hết các loại tiêm kích hiện đại trên thế giới đều thuộc thế hệ 4 với khả năng cơ động tốt, có thể mang radar hiện đại và giá cả tương đối dễ chịu với đa phần các quốc gia trên thế giới.

Trong khi đó, tiêm kích thế hệ 5 là những máy bay chiến đấu mới và tiên tiến nhất hiện nay. Chúng không chỉ có khả năng tàng hình mà còn được trang bị những hệ thống điện tử hàng không thế hệ mới cùng những bộ cảm biến siêu nhạy kèm theo hệ thống kết nối dữ liệu tốc độ cao.

Tuy nhiên, chính vì được trang bị những công nghệ tiên tiến nhất nên tiêm kích thế hệ 5 hết sức đắt đỏ, vì thế nhiều quốc gia lựa chọn nâng cấp các chiến đấu cơ thế hệ 4 của mình bằng các thiết bị điện tử hàng không của máy bay thế hệ 5 thay vì mua máy bay mới. Đó là các chiến đấu cơ thuộc thế hệ 4+ hoặc 4,5.

Đánh giá Top 10 tiêm kích hiện đại nhất thế giới 2022 của AeroTime dựa trên các đặc tính kỹ chiến thuật như sau:

- Sức mạnh và độ tin cậy của động cơ;

- Sức mạnh và tính năng của radar và các hệ thống cảm biến khác;

- Hiệu suất của hệ thống điện tử hàng không;

- Khả năng mang phóng các loại vũ khí hiện đại nhất;

- Các hệ thống máy tính tinh vi và có độ ổn định cao;

- Khả năng tàng hình'

Và một trong những yếu tố quan trọng nữa cần phải nhấn mạnh là danh sách chỉ xếp hạng những chiến đấu cơ đã và đang chính thức được sản xuất.

Một số chiến đấu cơ thế hệ 5 như Sukhoi Su-75 Checkmate, HAL AMCA hay TAI TF-X, hiện còn chưa bay thử chuyến đầu tiên, trong khi đó KAI KF-21 [của Hàn Quốc] mặc dù đã cất cánh lần đầu nhưng phải vài năm nữa mới hoàn tất công tác chế tạo.

Chiến đấu cơ thế hệ 6 được kỳ vọng là có nhiều tính năng vượt trội, nhưng chúng còn đang trong giai đoạn phát triển. Chúng ta sẽ chờ vài năm nữa cho tới khi các dòng chiến đấu cơ NGAD [Mỹ], F-X [Nhật Bản] hay FCAS/NGF [châu Âu] và Tempest [Anh] đạt được khả năng hoạt động thực sự.

Với cách đánh giá như trên, Danh sách Top 10 tiêm kích hiện đại nhất thế giới 2022 của AeroTime như sau.

Vinh danh khuyến khích

Mặc dù không lọt vào TOP 10, nhưng 3 dòng tiêm kích PAC JF-17 Thunder Block 3, HAL Tejas Mark 1A và F-16 Block 70/72 nhờ có giá tương đối phải chăng và đều sở hữu các tính năng khá ấn tượng, nên chúng được đánh giá cao.

Tiêm kích JF-17, một sản phẩm liên doanh giữa Trung Quốc và Pakistan, là hậu duệ của dòng tiêm kích hạng nhẹ MiG-21 huyền thoại và có một số sao chép từ tiêm kích F-16 [Mỹ]. Phiên bản mới nhất của chúng là JF-17A Block III, đã được đưa vào sản xuất từ đầu năm 2021.

HAL Tejas là đối thủ tới từ Ấn Độ, cạnh tranh với JF-17 của Trung Quốc. Phiên bản mới nhất Mark 1A đang bắt đầu được đưa vào sản xuất với những đặc điểm là có hệ thống radar mới, tổ hợp gây nhiễu mạnh và mở rộng khả năng lựa chọn vũ khí mang phóng. Trong khi đó, phiên bản Mark 2 hiện đang trong giai đoạn phát triển.

JF-17 và Tejas không phải là lựa chọn ít ỏi cho các quốc gia mong muốn một chiếc tiêm kích đa năng hạng nhẹ có mức giá hợp lý bởi F-16 huyền thoại đã cho ra lò một biến thể mới vào năm 2021. Block 70-72 đã được sử dụng bởi một số nước và nó được đánh giá là mạnh mẽ và có khả năng không chiến quần vòng ấn tượng.

Tất cả những máy bay trên đều tốt, những TOP tiêm kích hiện đại nhất thế giới 2022 chỉ có 10 vị trí mà thôi, vì thế chúng tôi [Aero Time] quyết định vinh danh chúng ở hạng khuyến khích mà thôi.

TOP 10 tiêm kích hiện đại nhất thế giới 2022

10. Saab JAS-39E Gripen

Tiêm kích Saab JAS-39E Gripen. Ảnh: SAAB

Trong khi dòng tiêm kích Saab JAS-39 của Thụy Điển được coi là chiến đấu cơ có giá phải chăng thì phiên bản JAS-39E E mới nhất của nó lại mang theo sự đột biến lớn.

Nó được cải tiến toàn diện từ Gripe với động cơ, hệ thống điện tử hàng không mới và hàng loạt nâng cấp để biến thành một chiếc tiêm kích không thua kém bất cứ chiến đấu cơ thế hệ 4,5 nào.

Dù có đắt hơn nhiều so với thế hệ tiền nhiệm nhưng nhưng chiếc Gripen đời mới này cũng vẫn là lựa chọn tương đối phù hợp với các quốc gia mà ngân sách có hạn.

Cho đến nay, mới chỉ có Không quân Thụy Điển và Brazil sử dụng phiên bản JAS-39 mới nhất, nhưng nó đang được rất nhiều quốc gia khác cân nhắc, tiềm năng xuất khẩu còn rất lớn.

9. Tiêm kích Su-35S

Tiêm kích Su-35S. Ảnh: Dmitry Terekhov / Wikipedia

Các dòng tiêm kích Sukhoi Su-30, Su-35 và Su-37 của Nga, cùng Shenyang J-16 của Trung Quốc đều được phát triển trên nền tiêm kích Su-27 huyền thoại, với nhiều nâng cấp để biến chúng thành những chiếc máy bay sở hữu tính năng của tiêm kích thế hệ 4,5. Mỗi dòng kể trên đều có nhiều biến thể và phiên bản khác nhau.

Tuy nhiên Su-35S được đánh giá là phiên bản tốt nhất trong tất cả nhờ được trang bị hệ thống điện tử mới nhất được sản xuất bởi Nga, cũng như nhiều cải tiến về khung thân.

Những điểm nổi bật của nó là có động cơ điều khiển véc-tơ lực đẩy 3 chiều, cho phép dòng tiêm kích này có khả năng thao diễn cực kỳ xuất sắc cho dù chúng không có cánh mũi như trên các biến thể Su-30 và Su-35 trước đó.

8. EF-2000 Eurofighter Typhoon

Cũng giống như nhiều chiến đấu cơ thế hệ 4, EF-2000 Eurofighter Typhoon được thiết kế trong thập niên 1970 và 1980. Tuy nhiên, dòng tiêm kích chủ lực của châu Âu liên tục được nâng cấp. Phiên bản mới nhất Tranche 3 có khả năng vượt trội cả trong không chiến lẫn tấn công mục tiêu mặt đất nhờ hệ thống radar và điện tử mới.

Tiêm kích Typhoon hiện đang được sử dụng bởi không quân một số quốc gia mạnh nhất ở châu Âu và Trung Đông, bao gồm Anh, Đức, Italy, Qatar, và Saudi Arabia. Nó thành công đến mức châu Âu thậm chí còn bỏ qua thế hệ 5 mà chờ để tiến thẳng lên thế hệ 6 với 2 dòng FCAS và Tempest.

7. Tiêm kích Dassault Rafale

Đầu tiên, Rafale và Typhoon được phát triển chung như là 1 máy bay duy nhất, nhưng sau đó Pháp quyết định tách chương trình thành 2, và thiết kế một chiếc chiến đấu cơ độc lập theo nhu cầu của riêng mình.

Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi 2 chiếc tiêm kích này, ít nhất là ở bề ngoài, có vẻ khá giống nhau. Tuy nhiên, Rafale thành công lớn khi giành được nhiều đơn hàng xuất khẩu trong vài năm gần đây, hiện có một số biến thể mới đã và đang được phát triển.

F3-R là phiên bản mới nhất có nhiều nâng cấp về cả vũ khí lẫn cảm biến. Hiện phiên bản F4 đang được phát triển và sẽ có thêm nhiều cải tiến nữa về radar và điện tử hàng không.

Pháp và UAE, Ấn Độ cùng một số quốc gia khác sẽ bắt đầu tiếp nhận biến thể này trong tương lai gần, trong khi đó, các phiên bản cũ hơn cũng sẽ được nâng cấp.

6. Boeing F-15EX Eagle II

Một biểu tượng sức mạnh trên không của Hoa Kỳ, F015 là tiêm kích duy nhất triển thế giới đạt mốc bắn hạ hơn 100 mục tiêu trên không mà chưa để mất chiếc nào.

F-15EX, được phát triển bởi Tập đoàn Boeing, là phiên bản mới nhất của họ F-15. Chúng có radar, hệ thống điện tử hàng không và vũ khí mới, kèm theo đó là hàng loạt cải tiến khác.

Hiện phiên bản này đang thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều khách hàng trên toàn thế giới và chúng sẽ còn phục vụ trong biên chế trong một thời gian rất dài nữa.

5. Tiêm kích Shenyang FC-31

Ảnh Weibo / South China Morning post

Dòng chiến đấu cơ thế hệ 5 hạng nhẹ này được thiết kế từ một thập kỷ trước và nó từng ngấp nghé bên bờ vực thất bại. Tuy nhiên , dự án gần đây đã được phủi bụi, khởi động lại và nâng cấp. Dường như nó sẽ là ứng viên sáng giá cho dòng tiêm kích hạm trên tàu sân bay của Trung Quốc và có thể sẽ được xuất khẩu.

Hiện chưa rõ khả năng thực sự của chúng, những bức ảnh gần đây cho thấy FC-31 được thiết kế lại khu vực bố trí động cơ, nắp buồng lái mới và nhiều điểm nâng cấp mới.

4. Lockheed Martin F-22 Raptor

F-22 là tiêm kích thế hệ 5 thực thụ đầu tiên trên thế giới, và hiện giờ chúng vẫn đang rất mạnh mẽ nhờ hiệu quả ấn tượng trong cả không chiến quần vòng [tầm gần] và tầm xa [ngoài tầm nhìn - BVR], Raptor cũng được đánh giá là một trong những thiết kế tàng hình tốt nhất từng được sản xuất.

Chỉ có duy nhất Không quân Mỹ được sử dụng loại tiêm kích này, nó dường như quá tiên tiến để chuyển giao cho bất cứ quốc gia nào. Tuy nhiên, F-22 thường xuyên được cử ra nước ngoài, nơi chúng được sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ chiến đấu khác nhau, và đã thể hiện được sự vượt trội của mình.

3. Chengdu J-20

J-20 là tiêm kích thế hệ 5 hạng nặng của Trung Quốc, được thiết kế để làm đối trọng với F-22 và Su-57. Nó không có khả năng cơ động tốt như các đối thủ bởi thiếu động cơ điều khiển lực đẩy véc-tơ, nhưng thiết kế tàng hình của Chengdu J-20 cũng khá ấn tượng.

Những tính năng chính xác của dòng tiêm kích này vẫn đang được bảo mật, nhưng thực tế cho thấy có vẻ như Trung Quốc đang tiếp tục nâng cấp nó. Các phiên bản mới đang được phát triển, với nhiều cải tiến.

2. Sukhoi Su-57

Sukhoi Su-57 [NATO định danh Felon] là tiêm kích tàng hình đầu tiên của Nga. Việc phát triển của nó bị chậm lại do nhiều vấn đề và trì hoãn. Tính tới đầu năm 2022, mới chỉ có một số lượng hạn chế được sản xuất tuy nhiên chúng được cho là hoàn hảo và mạnh mẽ hơn nhiều so với các mẫu thử trước đó, và Nga vẫn tiếp tục nâng cấp dòng máy bay này.

Trong những năm tới, Su-57 sẽ được trang bị động cơ mới và nhiều cải tiến, biến chiến đấu cơ tàng hình của Nga tuyệt hảo hơn. Dòng tiêm kích hạng nặng thế hệ 5 này đã thể hiện được khả năng ổn định ở tốc độ thấm cũng như đặc tính tàng hình, được trang bị các cảm biến và hệ thống điện tử mới nhất.

1. Lockheed Martin F-35 Lightning II

F-35 lightning II là một dự án gây tranh cãi với nhiều chỉ trích về giá quá cao trong khi khả năng chiến đấu thì lại hạn chế. Nó không bay nhanh bằng hay có khả năng thao diễn như các chiến đấu cơ thế hệ 4, nhưng F-35 lại mạnh ở những khía cạnh khác.

Nó thực sự là một chiến đấu cơ công nghệ cao ấn tượng, sử dụng các cảm biến, mánh tính, hệ thống kết nỗi dữ liệu để tương tác, chia sẻ hàng loạt thông tin. Kết quả từ các cuộc thử nghiệm mới nhất cho thấy nó gần như không thể bị đánh bại khi không chiến ngoài tầm nhìn, và nhất là khả năng mang phóng những vũ khí có điều khiển chính xác.

F-35 có 3 phiên bản: F-35A thông thường, F-35B cất cánh đường băng ngắn và hạ cánh thẳng đứng và F-35C dùng trên tàu sân bay.

Hiện chúng trở thành tiêm kích thế hệ 5 bán chạy nhất và được sản xuất nhiều nhất với tổng số 750 chiếc đã được xuất xưởng để phục vụ trong không quân 11 quốc gia, còn nhiều quốc gia khác đang xếp hàng để chờ được nhận máy bay theo hợp đồng.

F-35 bị đánh giá là phức tạp, khó khăn trong bảo dưỡng, hệ thống điện tử hàng không vẫn còn lỗi, lớp sơn tàng hình có vấn đề,.. Tuy nhiên, những điều này đang được khắc phục dần dần và tiếp tục được cải tiến. Vì thế, không có gì phải bàn cãi khi F-35 được đánh giá là chiến đầu cơ tiên tiến nhất trên thế giới hiện nay.

Bài viết này là về một lớp máy bay chung. Đối với các máy bay cụ thể của Hoa Kỳ, xem chương trình máy bay chiến đấu hạng nhẹ.

Một máy bay chiến đấu nhẹ hoặc máy bay chiến đấu nhẹ là một máy bay chiến đấu về phía thấp của phạm vi thực tế về trọng lượng, chi phí và độ phức tạp mà máy bay chiến đấu được đưa vào trường. [1] [2] Máy bay chiến đấu nhẹ hoặc nhẹ giữ lại các tính năng cạnh tranh được lựa chọn cẩn thận, để cung cấp thiết kế và hiệu suất hiệu quả về chi phí. [3] [4]light fighter or lightweight fighter is a fighter aircraft towards the low end of the practical range of weight, cost, and complexity over which fighters are fielded.[1][2] The light or lightweight fighter retains carefully selected competitive features, in order to provide cost-effective design and performance.[3][4]

Một máy bay chiến đấu hạng nhẹ được thiết kế tốt có thể khớp hoặc tốt hơn một mặt phẳng máy bay nặng hơn trong nhiều nhiệm vụ, [5] [Xác minh thất bại] [6] [7] [8] và với chi phí thấp hơn. [9] Do đó, lớp nhẹ có thể có giá trị chiến lược. [10]failed verification][6][7][8] and for lower cost.[9] The lightweight class can therefore be strategically valuable.[10]

Trong những nỗ lực mở rộng hiệu quả này để vẫn còn chi phí thấp hơn, một số nhà sản xuất trong những năm gần đây đã áp dụng thuật ngữ máy bay chiến đấu ánh sáng của Hồi giáo để đề cập đến các máy bay tấn công từ không từ không từ không khí, một số trong đó là thiết kế huấn luyện được sửa đổi. [11] Những chiếc máy bay tấn công hạng nhẹ chi phí thấp hơn này đã được gọi là máy bay chiến đấu hạng nhẹ [LCA], và đôi khi được coi là bao gồm một số máy bay chiến đấu ánh sáng nhiều người.

Từ năm 1926, khái niệm máy bay chiến đấu nhẹ đã là một chủ đề thường xuyên trong việc phát triển máy bay chiến đấu, với một số thiết kế đáng chú ý bước vào sử dụng quy mô lớn.

Mục tiêu thiết kế [Chỉnh sửa][edit]

Mục tiêu thiết kế chính của thiết kế máy bay chiến đấu nhẹ/nhẹ là đáp ứng các yêu cầu hiệu quả của máy bay chiến đấu không đối không tiêu chuẩn với chi phí tối thiểu. Các tiêu chí này, theo thứ tự quan trọng, là khả năng được hưởng lợi từ yếu tố bất ngờ, có ưu thế về số lượng trong không khí, có khả năng cơ động vượt trội và sở hữu hiệu quả của hệ thống vũ khí đầy đủ. [12] [13] [14] [14] [ 15] [16] Các máy bay chiến đấu ánh sáng thường đạt được lợi thế bất ngờ so với các máy bay lớn hơn do chữ ký hình ảnh và radar nhỏ hơn, điều này rất quan trọng vì trong phần lớn các vụ giết người không đối không, yếu tố bất ngờ là chiếm ưu thế. [17] [18] [19] Chi phí thấp hơn của họ và độ tin cậy cao hơn cũng cho phép số lượng lớn hơn trên mỗi ngân sách. [20] Cuối cùng, trong khi một máy bay chiến đấu đèn động cơ duy nhất thường chỉ mang khoảng một nửa tải vũ khí của một máy bay chiến đấu động cơ đôi nặng, các lợi thế bất ngờ và khả năng cơ động của nó thường cho phép nó có được lợi thế vị trí để sử dụng tốt hơn các vũ khí đó.

Một yêu cầu về chi phí thấp và do đó, các máy bay chiến đấu nhỏ lần đầu tiên phát sinh trong giai đoạn giữa Thế chiến I và Thế chiến II. Các ví dụ bao gồm một số thiết kế đánh chặn RAF từ thời đại giữa chiến tranh và máy bay "tay đua" của Pháp trong Thế chiến II ngay lập tức. Không ai trong số những chiến binh rất nhẹ này tận hưởng thành công trong Thế chiến II, vì họ quá cản trở trong hiệu suất. Tương tự như ý nghĩa của máy bay chiến đấu hạng nhẹ ngày nay, trong Thế chiến II, thuật ngữ máy bay chiến đấu nhỏ đã được sử dụng để mô tả một máy bay động cơ duy nhất có hiệu suất cạnh tranh, phạm vi và tải vũ khí, nhưng không có trọng lượng và chi phí không cần thiết. [21]

Effectiveness[edit][edit]

Quan điểm hiện đại của các máy bay chiến đấu nhẹ/hạng nhẹ là vũ khí có khả năng nhằm đáp ứng các tiêu chí chính của hiệu quả chiến đấu không đối không, [12] [13] [14] [15] [16] theo thứ tự quan trọng, là :

1. Sự vượt trội trong yếu tố bất ngờ, để nhận thức được kẻ thù trước khi chúng biết về bạn. Trong các trận chiến trước đây, lợi thế bất ngờ chủ yếu dựa trên chữ ký hình ảnh và radar nhỏ, và có tầm nhìn tốt ra khỏi buồng lái. Bất ngờ là một lợi thế đáng kể, vì trong lịch sử trong khoảng 80% số người giết chết không đối không, nạn nhân không biết về kẻ tấn công cho đến khi quá muộn. [17] [22], to be aware of the enemy before they are aware of you. In past combats, surprise advantage has been mostly based upon small visual and radar signatures, and having good visibility out of the cockpit. Surprise is a significant advantage, since historically in about 80% of air-to-air kills, the victim was unaware of the attacker until too late.[17][22]

Là cựu biên tập viên của 'Tạp chí Topgun', tác giả đã hỏi hàng trăm phi công trong khoảng thời gian sáu năm, họ muốn có lợi thế duy nhất, đó là, đó Phi công tất cả họ nói 'lần đầu tiên.'

James Stevenson, Nghịch lý Lầu Năm Góc. [23]

Các máy bay chiến đấu nhỏ như F-5 với diện tích mặt phẳng rộng khoảng 300 feet vuông [28 & NBSP; M2] hoặc F-16 ở khoảng 400 feet vuông [37 & NBSP; M2], so với khoảng 1.050 feet vuông [98 & ​​NBSP; M2] F-15, [24] có hồ sơ trực quan thấp hơn nhiều. Máy bay chiến đấu nhỏ thường vô hình với các phi công đối lập vượt quá 4 dặm [6,4 & NBSP; km], trong khi một máy bay chiến đấu lớn hơn như F-15 có thể nhìn thấy khoảng 7 dặm [11 & NBSP; km]. [25] Đây là một lợi thế phi tuyến tính đối với máy bay chiến đấu hạng nhẹ chống lại một chiến binh hạng nặng. Ngoài ra, các mục tiêu nhỏ hơn mất nhiều thời gian hơn để có được trực quan ngay cả khi chúng có thể nhìn thấy. [26] Hai yếu tố này cùng nhau cung cấp cho phi công chiến đấu hạng nhẹ tỷ lệ thống kê tốt hơn nhiều khi nhìn thấy máy bay chiến đấu hạng nặng trước tiên và thiết lập một phát bắn đầu tiên quyết định. [27] Khi máy bay chiến đấu nhỏ nhìn và quay về phía đối thủ, khu vực phía trước rất nhỏ của nó sẽ giảm phạm vi phát hiện thị giác tối đa xuống còn khoảng 2 đến 2,5 dặm [3,2 đến 4.0 & nbsp; km]. [18] [28]

Với công nghệ tương tự, các máy bay chiến đấu nhỏ hơn thường có khoảng hai phần ba phạm vi radar so với cùng mục tiêu với các máy bay chiến đấu hạng nặng. khoảng 10 mét vuông [110 & nbsp; sq & nbsp; ft] có thể được phát hiện bởi một radar nhất định ở phạm vi khoảng 50% so với 2 đến 3 mét vuông [22 đến 32 & nbsp; sq & nbsp; ft] của máy bay chiến đấu ánh sáng. [29] Điều này xấp xỉ cân bằng các đánh đổi này, và đôi khi có thể ủng hộ máy bay chiến đấu hạng nhẹ. Ví dụ, từ phía trước, F-15 thực sự xuất hiện khoảng 20 mét vuông [220 & NBSP; cũng trong các thử nghiệm rộng rãi ngoài phạm vi thị giác [BVR]. [6] [31] Ngoài ra, radar máy bay chiến đấu trên không bị hạn chế: phạm vi bảo hiểm của chúng chỉ ở phía trước và không hoàn hảo trong việc phát hiện máy bay của kẻ thù. Mặc dù radar đã được Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam, nhưng chỉ có 18% máy bay chiến đấu Bắc Việt được phát hiện bằng radar và chỉ 3% bằng radar trên máy bay chiến đấu. [32] 82% khác được mua lại trực quan. [33]

Xu hướng hiện đại đối với máy bay tàng hình là một nỗ lực để tối đa hóa bất ngờ trong thời đại khi vượt quá phạm vi thị giác [BVR] đang trở nên hiệu quả hơn so với hiệu quả khá thấp mà BVR đã có trong quá khứ. [34]

2. Tính vượt trội về số lượng trong không khí, ngụ ý sự cần thiết của chi phí mua sắm thấp hơn, chi phí bảo trì thấp hơn và độ tin cậy cao hơn. Thậm chí không tính đến khả năng chiến đấu đôi khi vượt trội của máy bay nhẹ hơn dựa trên sự bất ngờ và khả năng cơ động, vấn đề số thuần túy về chi phí thấp hơn và độ tin cậy cao hơn [tỷ lệ sắp xếp cao hơn] cũng có xu hướng ủng hộ máy bay chiến đấu hạng nhẹ. Đó là một kết quả cơ bản của luật của Lanchester, hoặc mô hình chiến đấu salvo, rằng một số lượng lớn hơn các đơn vị ít tinh vi hơn sẽ có xu hướng thành công so với một số lượng nhỏ hơn những người cao cấp hơn; Thiệt hại gây ra dựa trên bình phương số lượng đơn vị bắn, trong khi chất lượng của các đơn vị đó chỉ có hiệu ứng tuyến tính đối với kết quả. Mối quan hệ phi tuyến tính này ủng hộ máy bay chiến đấu nhẹ và nhẹ. [35], which implies the need for lower procurement cost, lower maintenance cost, and higher reliability. Not even taking into account the sometimes superior combat capability of lighter aircraft based on surprise and maneuverability, the pure numbers issue of lower cost and higher reliability [higher sortie rates] also tends to favor light fighters. It is a basic outcome of Lanchester's laws, or the salvo combat model, that a larger number of less-sophisticated units will tend to be successful over a smaller number of more advanced ones; the damage dealt is based on the square of the number of units firing, while the quality of those units has only a linear effect on the outcome. This non-linear relationship favors the light and lightweight fighter.[35]

Ngoài ra, vì khả năng thí điểm thực sự là sự cân nhắc hàng đầu trong việc tối đa hóa hiệu quả tổng số của hệ thống phi công, [b] chi phí mua và vận hành thấp hơn của máy bay chiến đấu ánh sáng cho phép đào tạo nhiều hơn, do đó cung cấp các phi công hiệu quả hơn. [36] Ví dụ, tính đến năm 2013, tổng chi phí vận hành F-15C nặng được báo cáo là 41.900 đô la Mỹ mỗi giờ và chi phí F-16C nhẹ ở mức 22.500 đô la mỗi giờ. [37]

3. Khả năng cơ động vượt trội, trong chiến đấu điều khiển cho phép vào vị trí vượt trội để bắn và ghi điểm giết người. [38] [39] [14] [40] [41] Đây là một chức năng để đạt được tải trọng cánh thấp hơn, tỷ lệ lực đẩy cao hơn so với trọng lượng và khí động học vượt trội. [42] [43] [44] Điều này đôi khi được mô tả thông thường là cách gói khung máy bay nhỏ nhất có thể xung quanh động cơ có sẵn mạnh nhất. Hiệu suất được vượt quá bởi một số máy bay chiến đấu nhẹ hơn như F-16. [45] [46] Máy bay chiến đấu ánh sáng không có lợi thế khí động học vốn có cho tốc độ và phạm vi, nhưng khi được thiết kế đơn giản nhất có thể, chúng có xu hướng tải trọng cánh thấp hơn và tỷ lệ lực đẩy theo trọng lượng cao hơn. [47] Ngoài ra, các máy bay chiến đấu nhỏ hơn ở quán tính thấp hơn, cho phép phản ứng thoáng qua nhanh hơn trong chiến đấu điều khiển. [48], which in maneuvering combat allows getting into superior position to fire and score the kill.[38][39][14][40][41] This is a function of achieving lower wing loading, higher thrust to weight ratio, and superior aerodynamics.[42][43][44] This is sometimes described colloquially as “wrapping the smallest possible airframe around the most powerful available engine.”[40] Professional analysis through 4th generation fighters shows that among heavier fighters only the F-15 has been generally competitive with lighter fighters, and its maneuvering performance is exceeded by several lighter fighters such as the F-16.[45][46] Light fighters have no inherent aerodynamic advantage for speed and range, but when designed to be as simple as possible they do tend to have lower wing loading and higher thrust to weight ratio.[47] Additionally, smaller fighters are lower in inertia, allowing a faster transient response in maneuvering combat.[48]

4. Hiệu quả của hệ thống vũ khí. [49] [50] [51] Khu vực này là một nơi mà máy bay chiến đấu ánh sáng có thể gặp bất lợi, vì tải trọng chiến đấu của một máy bay chiến đấu ánh sáng động cơ duy nhất thường là khoảng một nửa máy bay chiến đấu hạng nặng động cơ đôi. Tuy nhiên, các máy bay chiến đấu ánh sáng động cơ đơn hiện đại như General Dynamics F-16 Fighting Falcon và Saab Jas 39 Gripen thường mang theo vũ khí chiến đấu tên lửa không đối không và máy bay chiến đấu không đối không như máy bay chiến đấu nặng hơn. Chiến đấu trên không thực tế trong kỷ nguyên hiện đại có thời gian ngắn, thường là khoảng hai phút, [52] và vì chỉ một phần nhỏ trong số này được sử dụng thực sự, việc bắn vũ khí khiêm tốn thường có hiệu quả. Tải trọng vũ khí lý tưởng cho một máy bay chiến đấu hiện đại được coi là một khẩu súng bên trong và hai đến bốn tên lửa có hướng dẫn, [52] một tải trọng mà các máy bay chiến đấu ánh sáng hiện đại hoàn toàn có khả năng trong khi vẫn duy trì sự nhanh nhẹn cao. Ví dụ, Jas 39 Gripen, mặc dù là máy bay chiến đấu chính nhẹ nhất trong sản xuất hiện tại, mang tải trọng chiến đấu của một khẩu súng thần công 27mm và tối đa sáu tên lửa không đối không có cùng loại như được mang bởi máy bay chiến đấu hạng nặng. Ngoài ra, kinh nghiệm chiến đấu cho thấy rằng các hệ thống vũ khí "hiệu quả" không bị chi phối bởi lượng vũ khí hoặc "tải ra", nhưng bằng khả năng đạt được sự giết chết thứ hai khi ở vị trí để làm như vậy. [14] [53] [54 ].[49][50][51] This area is one where the light fighter can be at a disadvantage, since the combat load of a single engine light fighter is typically about half of a twin engine heavy fighter. However, modern single engine light fighters such as the General Dynamics F-16 Fighting Falcon and the Saab JAS 39 Gripen generally carry similar cannon and air-to-air missile fighter weapons as heavier fighters. Actual aerial combat in the modern era is of short duration, typically about two minutes,[52] and as only a small fraction of this is spent actually firing, modest weapons load outs are generally effective. The ideal weapons load for a modern fighter is considered to be an internal gun and two to four guided missiles,[52] a load that modern light fighters are fully capable of while maintaining high agility. For example, the JAS 39 Gripen, despite being the lightest major fighter in current production, carries a combat load of a 27mm cannon and up to six air-to-air missiles of the same types as carried by heavy fighters. Additionally, combat experience shows that weapons systems "effectiveness" has not been dominated by the amount of weaponry or "load out", but by the ability to achieve split second kills when in position to do so.[14][53][54]

Tóm tắt khái niệm [Chỉnh sửa][edit]

Công nghệ vượt trội thường được trích dẫn là một yếu tố mạnh mẽ ủng hộ máy bay chiến đấu hạng nặng. Đối số cụ thể thường được trình bày là các máy bay chiến đấu hạng nặng có phạm vi radar vượt trội và tên lửa BVR phạm vi dài hơn tận dụng phạm vi đó. Lợi thế phạm vi radar này là một trong những lý do chính cho sự tồn tại của máy bay chiến đấu hạng nặng hiện đại, nhưng nó không phải là một lợi thế đáng kể trong lịch sử chiến đấu trên không cho đến nay vì nhiều lý do. Một lý do chính là do các phát tên lửa BVR tầm xa thường không thể sử dụng được, và thường không đáng tin cậy khi chúng có thể được chụp. Trọng lượng của các tên lửa lớn hơn cũng làm giảm hiệu suất và phạm vi cần thiết để có được vị trí để bắn. Do những yếu tố này, từ năm 1958 đến 1982 trong năm cuộc chiến, có 2.014 vụ bắn tên lửa của các phi công chiến đấu tham gia chiến đấu không đối không, nhưng chỉ có bốn vụ giết người ngoài tầm nhìn xa. [55]

Lập luận tổng quát và thường bị hiểu lầm hơn đối với nhiều công nghệ được giả định trong lịch sử để ủng hộ các máy bay chiến đấu hạng nặng không chỉ là radar tốt hơn mà còn hỗ trợ các hệ thống tốt hơn cho phi công chiến đấu theo những cách khác. Các ví dụ bao gồm tất cả khả năng thời tiết, điều hướng điện tử chính xác, các biện pháp phản đối điện tử, liên kết dữ liệu để nhận thức thông tin được cải thiện và tự động hóa để làm nhẹ khối lượng công việc của phi công và giữ cho phi công tập trung vào các nhiệm vụ cần thiết để chiến đấu. [56] Đây là một lập luận thuyết phục, vì yếu tố lớn nhất trong hiệu quả của một máy bay chiến đấu luôn là phi công. Trích dẫn một tài liệu tham khảo nổi bật, "Trong suốt lịch sử chiến đấu trên không, một vài phi công chiến đấu xuất sắc, thường ít hơn năm phần trăm của toàn bộ Số lượng người ghi bàn cao là cần thiết. Nhiệm vụ đã biến mỗi phi công chiến đấu thành một ace, và công nghệ dường như là dễ nhất, và cách duy nhất để đạt được nó. Đây là ý tưởng bên dưới hai siêu nhân đầu tiên của Mỹ; F-14 Tomcat và Đại bàng F-15. [[57]

Mặc dù lợi thế công nghệ cho các máy bay chiến đấu hạng nặng hỗ trợ tốt hơn cho phi công có thể là một điểm hợp lệ trong những năm 1970 [khi F-14 và F-15 đầu tiên được đưa vào dịch vụ], lợi thế này chưa được duy trì theo thời gian. Cải thiện hiệu suất động cơ đã cải thiện khả năng tải tải, [C] và với các thiết bị điện tử nhỏ gọn hơn, máy bay chiến đấu nhẹ, từ những năm 1980 trở đi, có các tính năng kỹ thuật tăng cường phi công tương tự. [58] [59] [60] Máy bay chiến đấu hạng nhẹ mang vũ khí hiệu quả như nhau bao gồm tên lửa BVR, và có phạm vi chiến đấu và sự kiên trì tương tự. Máy bay chiến đấu hạng nhẹ hiện đại đạt được các tính năng cạnh tranh này trong khi vẫn duy trì những lợi thế cổ điển của sự bất ngờ, số lượng và khả năng cơ động tốt hơn. Do đó, các lợi thế tự nhiên của máy bay chiến đấu hạng nhẹ vẫn có hiệu lực mặc dù bổ sung thêm công nghệ để chiến đấu trên không. [59]

Do chi phí thấp hơn, các máy bay chiến đấu ánh sáng hiện đại trang bị cho các lực lượng không quân của nhiều quốc gia nhỏ hơn. Tuy nhiên, vì ngân sách có giới hạn cho tất cả các quốc gia, nên việc lựa chọn tối ưu trọng lượng máy bay chiến đấu, độ phức tạp và chi phí là một vấn đề chiến lược quan trọng ngay cả đối với các quốc gia giàu có. Ý nghĩa ngân sách và chiến lược của các máy bay chiến đấu ánh sáng được minh họa bằng đầu tư quốc phòng đang bị đe dọa. Ví dụ như có sẵn dữ liệu được tham chiếu tốt, mặc dù nhiều tài liệu tham khảo thử nghiệm và chiến đấu coi F-16 nhẹ là tốt hoặc tốt hơn trên mỗi mặt phẳng như F-15 tuyệt vời nhưng đắt tiền, [61] [62] Một lực lượng chiến đấu hạng nhẹ dựa trên F-16 là khoảng một nửa chi phí của cùng một số lượng F-15. Không quân Hoa Kỳ báo cáo tổng chi phí được tải mỗi giờ [tính đến năm 2013] khi vận hành F-16C là ~ 22.500 USD mỗi giờ, trong khi F-15C nặng là 41.900 đô la mỗi giờ. [37] Nhiều nguồn có thẩm quyền báo cáo rằng phải mất khoảng 200 đến 400 giờ bay mỗi năm để duy trì trình độ phi công chiến đấu. [D] [63]

Luật của Lanchester về ưu thế quân sự cho thấy rằng bất kỳ ưu thế kỹ thuật nào của máy bay chiến đấu hạng nặng trên cơ sở đơn vị sẽ không luôn luôn chuyển sang chiến thắng chiến tranh. Ví dụ, vào cuối Thế chiến thứ hai, Messerschmitt ME 262 Jet 262 vượt trội, bay bởi các phi công tốt nhất mà Đức đã rời đi, nhiều người trong số họ có điểm số rất cao với số lượng giết người vượt quá các phi công đồng minh, với số lượng tương đối nhỏ bị tổn thất nặng nề nặng nề. và không thể thay đổi cơ bản cuộc chiến tranh trên không đối với Đức. [64] Những vấn đề như vậy có liên quan đến kế hoạch và triển khai quân sự trong tương lai. [65]

History[edit][edit]

Interwar period[edit]

The light fighter class originally stemmed from concern at the growing size and cost of the frontline fighters in the 1920s. During the late 1920s and 1930s the light fighter would receive significant attention, especially in France.[66]

One early light fighter project was the French Air Force's 'Jockey' interceptor program of 1926. Several aircraft, including the Nieuport-Delage NiD 48 and Amiot 110, were trialed without much success as they offered little over aircraft already in production[67] In the late 1920s the British similarly issued specification F.20/27 for a short-range fast-climbing daylight interceptor. The de Havilland DH.77 and Vickers Jockey monoplanes were among seven designs tendered to meet the specification but neither went into production, the heavier but faster biplane Hawker Fury being preferred.

Despite the failure of their Jockey program, the French returned to lightweight fighters during the 1930s as a means to expand France's fleet of aircraft and counter the buildup of the German air force. This focused on light wooden fighters that could be built quickly without affecting production of other aircraft. A mid-thirties specification requiring fixed undercarriage produced two prototypes and in 1936 a revised requirement for retractable gear resulted in three prototypes. The most numerous of the two designs which went into production was the Caudron C.714. Delivery began in early 1940, but less than 100 had been built before the fall of France.[68] Although underpowered, it was of necessity used by Polish air force pilots serving in France.

WWII[edit][edit]

There was debate before and during World War II about the optimum size, weight and number of engines for fighter aircraft.[69][70] During the war, fighters in the light to middle-weight range proved to be the most effective. Properly designed with competitive power to weight and thrust to drag ratios, these aircraft out-performed heavy fighters in combat due to greater surprise and maneuverability.[71][72][73] They were also more cost effective, allowing greater numbers to be deployed as a combat advantage. Some single-engined fighters [including the P-51 Mustang and A6M Zero] could also match or beat the range of their heavy twin-engined counterparts.[e]

Germany[edit][edit]

The German Bf 109 was the second smallest major fighter of WWII, and produced in greater numbers than any fighter in history.

The German Messerschmitt Bf 109 entered service in 1937 as a high speed interceptor and became the most-produced fighter in history, with nearly 34,000 built. The design philosophy of the Bf 109 was to wrap a small airframe around a powerful engine using Messerschmitt's "lightweight construction" principle, which aimed to minimize the weight and number of separate parts in the aircraft.[74] By concentrating wing, engine and landing gear weight in the firewall, the structure of the Bf 109 could be made relatively light and simple.[75] The Bf 109 was the second-smallest major fighter aircraft of World War II and the lightest in the European theater. The "E" version used in the Battle of Britain had an empty weight of 2,010 kg [4,431 lb].[76] The more heavily armed and powerful G version used later in the war had an empty weight of 2,700 kg [5,900 lb]. In comparison, its main fighter opponents[clarification needed] weighed 2,100 kg [4,640 lb] to 5,800 kg [12,800 lb].[citation needed]

Japan[edit][edit]

The Japanese A6M2 Zero was the lightest major fighter of WWII. Extremely maneuverable and long range, it was highly successful early in the war, though surpassed in the later stages.

The lightest major fighter of World War II was the Japanese Mitsubishi A6M Zero naval fighter. Entering service in 1940 and remaining in use throughout the war, it had an empty weight of 1,680 kg [3,704 lb] for the A6M2 version, which was extremely light even by the standards of its time. The design team leader, Jiro Horikoshi, intended it to be as light and agile as possible, embodying the qualities of a samurai sword.[77] With Japanese engine technology lagging behind that of the west, but required to out-perform western fighters, the designers minimised weight to maximize range and maneuverability.[78] This was achieved by methods including the use of light weaponry and the absence of armour and self-sealing fuel tanks.[79] Early in World War II the Zero was considered the most capable carrier-based fighter in the world,[80] and the extremely long range meant that the Zero could appear in and strike locations where Japanese air power was otherwise not expected to reach. In early combat operations, the Zero gained a reputation as an excellent dogfighter, achieving a kill ratio of 12 to 1.[81] However, Japan was unable to keep improving the aircraft through the war, primarily limited by lagging engine technology, and by mid-1942 a combination of new tactics and the introduction of better aircraft enabled the Allied pilots to engage the Zero on equal or superior terms.[82] For instance, the larger and heavier Grumman F6F Hellcat had superior performance to the Zero in all aspects other than manoeuvrability. Combined with the US Navy's superior training standards, units equipped with the type achieved a large victory-to-loss ratio against the Zero and other Japanese aircraft.[83]

United Kingdom[edit]

The British Spitfire was only slightly larger than the Bf 109, and an effective match for it during the Battle of Britain.

The Royal Air Force entered World War II with two modern single-engined fighters forming the majority of the fighter force of the RAF – the Supermarine Spitfire and the Hawker Hurricane. Initially introduced as bomber interceptors, both started with eight machine gun armament but changed to cannons in the course of the war.

The Spitfire, designed by R. J. Mitchell, entered service in 1938 and remained in production throughout the war. The empty weight of the Battle of Britain-era Spitfire IIA was 2,142 kg [4,723 lb], increasing to 2,984 kg [6,578 lb] in a later variant. It was highly maneuverable and was generally a match for its German opponents. Most Spitfires had a Rolls Royce Merlin engine, but later variants used one of the most powerful engines of the war – the Rolls Royce Griffon. The Spitfire was produced and improved throughout the war but was complex to build and had limited range. In other respects it was considered an outstanding fighter.

The Hawker Hurricane played an important role in the Battle of Britain, but its performance was inferior to the Spitfire and during the war was removed from frontline duty as a fighter and used for ground attack. Production ceased in mid-1944. The Hurricane IIC weighed 2,605 kg [5,745 lb] empty.

United States[edit]

The P-51 is widely considered to be the finest piston fighter of WWII. With drop tanks as shown here, the relatively light P-51 could perform long range bomber escort.

On the eve of the war, the United States Army Air Corps contracted for several "very light" fighter designs based on the Ranger V-770 engine, an air-cooled inverted V12 engine, that delivered up to 700 hp. Two prototypes were the Bell XP-77 [empty weight 2,855 lb [1,295 kg]] and the Douglas XP-48 [empty weight 2,655 lb [1,204 kg]]. Problems with the engine and performance and a perceived lack of need saw both programs canceled. However, they were specifically defined as "light" or "very light" fighter aircraft.[84]

Instead, the US developed a number of standard pursuit fighters, the most efficient being the relatively lightweight North American P-51 Mustang. The P-51 was more economical, costing less per air-to-air kill than any other American aircraft.[85][86][87]

The United States Navy, also made aware of lightweight advantages by combat results,[88] ordered a lighter version of the Grumman F6F Hellcat, which at 9,238 lb [4,190 kg] empty weight had limited maneuverability and rate of climb. The planned Grumman F8F Bearcat replacement used the same engine, but with empty weight reduced to 7,070 lb [3,210 kg] had excellent performance. It entered production too late to see combat in World War II. Postwar, it equipped 24 fighter squadrons in the Navy and a smaller number in the Marines. Navy author James Perry Stevenson called the Bearcat "the quintessential lightweight fighter".[89]

USSR[edit][edit]

The Soviet Yakovlev Yak-3, which entered service in 1944, was an attempt to develop the smallest and lightest fighter around the 1,600 hp [1,200 kW] V-12 Klimov M-107 engine.[80] As this engine was not available in time, the 1,300 hp [970 kW] Klimov M-105 was substituted, with a resulting empty weight of 2,100 kg [4,640 lb]. Despite the reduced power, the Yak-3 had a top speed of 655 km/h [407 mph]. The Yak-3 could out-turn the German Bf 109 and Fw 190. German pilots were ordered to avoid dogfights with the Yak-3 at low level.

The Soviet Yakovlev Yak-9 was also a lightweight fighter, initially using the M-105 engine. With an empty weight 2,350 kg [5,170 lb], it was among the lighter major fighters of World War II. A development of the Yakovlev Yak-7, it entered combat in late 1942 and was the Soviet Union's most-produced fighter with 16,769 built. At low altitudes, the Yak-9 was faster and more maneuverable than the Bf 109. However, its armament of one cannon and one machine gun was relatively light.

Early jet age[edit]

The first jet light fighter in service was the German Heinkel He 162 of 1945.

The Luftwaffe's Heinkel He 162 Volksjäger of 1945 was a very deliberate attempt at producing a low cost jet fighter without materials that were in short supply at the end of the war. It was a low cost emergency fighter, one of several designs for the Emergency Fighter Program using rockets or jets, which could be built by unskilled labour and would be flown by inexperienced pilots to defend the Third Reich. With an empty weight of 1660 kg [3,660 lbs], it was very light even for the time. The He 162A was powered by a BMW 003 engine.[90] With a top speed of 790 km/h [491 mph] at normal thrust at sea level, and 840 km/h [522 mph] at 6000 m [19,680 ft], it was about 130 km/h [80 mph] faster than Allied fighters but had no more than 30 minutes fuel. Test pilots reported it to be a fine handling and conceptually well designed aircraft, and considered its problems to be rushed delivery more than any fundamental design flaws. It never formally entered operational service, and did not receive the benefit of being flown by well trained pilots using a well considered operational plan. Only 120 were delivered to units, and it scored only a few kills in experimental use before the war ended.

After World War II fighter design moved into the jet era, and many jet fighters followed the successful World War II formula of highly efficient mostly single-engine designs. Prominent early examples include the British mid-50s Folland Gnat, the American North American F-86 Sabre,[91][92] Northrop F-5 and the Soviet Mikoyan MiG-15.

The Mikoyan-Gurevich MiG-15 was a Soviet jet fighter developed shortly after World War II. It weighed 3,630 kg [8,003 lb] empty and was one of the first successful jet fighters to use swept wings for high transonic speeds. It first saw service in the Chinese Civil War. In combat during the Korean War, it outclassed straight-winged jet day fighters. Some 18,000 were produced.

The North American F-86 Sabre, a transonic jet fighter manufactured from 1949, was the United States's first swept wing fighter. With an empty weight of 5000 kg [11,000 lb] it was nearly 40 per cent heavier than the MiG-15, but light compared with today's fighters. The F-86 had a bubble canopy, small size, moderate cost, high maneuverability, and an armament of six .50 in [13 mm] calibre machine guns. It could turn faster than any modern fighter.[93] It saw combat against the Mig 15 in high-speed dogfights during the Korean War. Considered [with the MiG 15] as one of the best fighters in the Korean War, it was the most-produced Western jet fighter, with total production of 9,860 units.[94] It continued as a front-line fighter in numerous air forces until 1994.

The Folland Gnat was a British private venture design for a light fighter and was the product of "Teddy" Petter's theories about fighter aircraft design.[95] Although only adopted by the UK as a trainer,[f] the Gnat served successfully as a fighter for the Indian Air Force and was in service from 1959 to 1979. India produced an improved derivative of it, the HAL Ajeet. With an empty weight of 2,177 kg [4,800 lbs] it was the lightest[g] successful post-World War II jet fighter, though at the cost of shorter range compared to other fighters. The Gnat is credited as having shot down seven Pakistani F-86s in the 1965 war,[96] for the loss of two Gnats downed by PAF fighters. During the Indo-Pakistani War of 1971, Indian Gnats shot down several Pakistani F-86s without loss.[97] The Gnat was successful against the capable F-86 flown by well-trained Pakistani pilots[98][97] because its smaller size allowed a superior level of surprise and greater agility in dogfighting.

In the early 1950s, the NATO NBMR-1 competition for a cheap "light weight tactical strike fighter" able to carry conventional or tactical nuclear weapons and operate from dispersed airfields with minimum ground support led to designs including the French SNCASE Baroudeur, Breguet Taon[99] and Dassault Étendard VI, the Italian Aeritalia G.91 and Aerfer Ariete. Other competitors included the Northrop F-5A. The British chose to continue production of the Hawker Hunter, while the French decided to work independently of the competition. Italy produced the Fiat G.91 while the competition was underway and, in 1957, this was selected as NATO's standard strike fighter.[100] With an empty weight of 3,100 kg [6,830 lbs] it was very light for a jet fighter. The G.91 entered service with the Italian Air Force in 1961, with the West German Luftwaffe, in 1962, and later with the Portuguese Air Force. It was in production for 19 years, with production ceasing in 1977 with 756 aircraft built.[101]

In the mid-1950s, it was realized that fighter costs were escalating to possibly unacceptable levels, and some companies sought to reverse the trend to heavier and more expensive fighters. A prominent result was the Mach 1.3 to Mach 1.6, 4335 kg [9,558 lb] Northrop F-5.[102] Smaller, cheaper and simpler than the contemporary F-4 Phantom, the F-5 had excellent performance and was popular on the export market. It was perhaps the most effective US-produced fighter in the 1960s and early 1970s, with a high sortie rate, low accident rate, high maneuverability, and an effective armament of 20mm cannon and heat-seeking missiles.[103] Though the United States never procured the F-5 for main line service, it did adopt it as an opposing forces [OPFOR] "aggressor" for dissimilar training role because of its small size and similarity in performance to the Soviet MiG-21. It also participated in large scale trials of aircraft and missile effectiveness. In the extensive 9 month long AIMVAL/ACEVAL trial at Nellis AFB in 1977, the F-5 "Red Force" was quite effective against the considerably larger F-14 Tomcat naval fighter and F-15 Eagle single seat fighters making up the "Blue Force". These modern aircraft are approximately five to ten times more expensive than the various versions of the F-5. The final result was the F-5 fighting the more modern fighters to an effective plane for plane draw.[104] In direct combat against the similar MiG-21 [which performed well against American fighters in Vietnam], the F-5 is known to have scored 13 victories against 4 losses.[105] Just under 1000 of the F-5A Freedom Fighter were sold worldwide, and another 1,400 of the updated F-5E Tiger II version. As of 2016 the F-5 remains in service with many nations, some of which have undertaken extensive upgrade programs to modernize its abilities with digital avionics and radar guided missiles.[106]

Saab 35 Draken hạng trung nhẹ là máy bay chiến đấu Mach 2 thế hệ thứ ba đến thứ ba được sản xuất từ ​​năm 1955 đến 1974 và phục vụ trong 45 năm, với trọng lượng trống từ 6.577 & NBSP; kg [14,500] đến 7.440 & NBSP; Đó là một máy bay chiến đấu một động cơ hai cánh Delta. Cánh đồng bằng bên trong mạnh mẽ của nó cho phép tốc độ hành trình cao. Double-delta, với một cái cào nông hơn ở cánh ngoài, cải thiện khả năng cơ động. Nó được thiết kế để đủ rẻ cho các quốc gia nhỏ và đủ đơn giản để được duy trì bằng cơ học được ghi chép. Tăng tốc cao, tải cánh nhẹ và khả năng cơ động cực độ cho phép nó trở thành một con chó tuyệt vời. Tuy nhiên, nó có một hệ thống kiểm soát hỏa lực quá phức tạp. [107] Nó vẫn còn phục vụ cho đến năm 2005.

MIG-21 siêu âm, siêu thanh đã chứng minh một đối thủ nguy hiểm đối với các chiến binh Mỹ nặng hơn trong Chiến tranh Việt Nam.

Dassault Mirage III của Pháp là một chiến binh Delta Mach 2 thế hệ thứ 2/đầu thế hệ thứ 3 khác. Xuất phát từ một yêu cầu của Pháp đối với một máy đánh chặn mọi thời tiết nhẹ, nó đã được phục vụ từ năm 1961. [108] Với trọng lượng trống là 7.076 & nbsp; kg [15.600 & nbsp; lbs] trong phiên bản "E" với khả năng tấn công mặt đất được thêm . Khả năng cơ động của nó, chi phí khiêm tốn, độ tin cậy và vũ khí của pháo 30 mm và tên lửa tìm kiếm nhiệt đã được chứng minh là hiệu quả. Nó phục vụ Không quân Pháp và được xuất khẩu sang nhiều quốc gia. Nó hoạt động rất tốt cho Israel trong Chiến tranh sáu ngày năm 1967 và Chiến tranh Yom Kippur năm 1973. [109] Tuy nhiên, Mirage III của Argentina đã được thực hiện bởi những kẻ gây ra biển Anh trong Chiến tranh Falklands năm 1982. [110]

Tương tự về kích thước của F-5, Mikoyan-Gurevich MiG-21 của Nga đã tham gia dịch vụ vào năm 1959, được sản xuất cho đến năm 1985, và vẫn còn được sử dụng rộng rãi cho đến ngày nay. Thế hệ 2 đến thế hệ 3, Mach 2 MiG-21 có trọng lượng trống 4535 & NBSP; kg [10.000 & NBSP; LBS] và đã phục vụ gần 60 quốc gia. Nó đã bắn hạ 37 đến 104 Phantoms của Hoa Kỳ, trong Chiến tranh Việt Nam, với các Phantoms bắn hạ 54 đến 66 MiG-21s. [111] Vào tháng 12 năm 1966, các phi công MiG-21 của 921 FR đã hạ 14 F-105 mà không có bất kỳ tổn thất nào. [112] Điểm yếu của nó bao gồm tầm nhìn kém và phạm vi tương đối ngắn, nhưng nếu không, đã được chứng minh là một máy bay chiến đấu có khả năng.

Thập tự quân F-8 của Hoa Kỳ được sử dụng tại Việt Nam nặng 8000 & nbsp; kg [17.500 & nbsp; lb], so với 13.750 & nbsp; kg [30.300 & nbsp; lbs] cho F-4 Phantom. Đó là một máy bay chiến đấu vũ trang đơn giản, siêu âm, đơn, súng và nhiệt trong dịch vụ tiền tuyến từ năm 1957 đến 1976. Nó không có radar ngoại trừ radar súng khác nhau. Hoa Kỳ tuyên bố Thập tự quân [cho đến năm 1968] đã bắn hạ sáu máy bay của kẻ thù cho mỗi mất mát, so với 2,4 cho mỗi Phantom bị mất. [113] Ba chiếc F-8 bị bắn hạ trong không khí [H] đều bị mất vì hỏa hoạn MIG-17.

Vài thập kỷ đầu tiên của thời đại máy bay chiến đấu phản lực cho thấy một lịch sử chiến đấu tương tự như xu hướng chung với các máy bay chiến đấu chân vịt của Thế chiến II. Chừng nào các máy bay chiến đấu nhẹ hơn có đủ tỷ lệ sức mạnh trên trọng lượng và độ tinh vi khung máy bay, và bay bởi các phi công có tay nghề tương tự, họ có xu hướng thống trị trên các máy bay chiến đấu nặng hơn bằng cách sử dụng bất ngờ, số lượng và khả năng cơ động. Tuy nhiên, một sự khác biệt đáng kể đã xuất hiện trong chiến lược thiết kế trong kỷ nguyên máy bay chiến đấu đầu tiên. Trong thiết kế chiến đấu trong Thế chiến II bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi việc tìm kiếm tốc độ cao hơn có giá trị trong chiến đấu để đóng cửa với kẻ thù hoặc trốn thoát. Xu hướng này được tiếp tục theo bản năng trong một số máy bay chiến đấu phản lực thông qua thế hệ thứ 3 [F-4 tại Mach 2.23] và vào thế hệ thứ 4 [F-14 tại Mach 2.35 và F-15 tại Mach 2.5+]. Các yêu cầu khí động học để hoạt động ở tốc độ như vậy làm tăng thêm độ phức tạp, trọng lượng và chi phí đáng kể cho khung máy bay. [114] Nhưng, các tốc độ lớp Mach 2 trở lên này không có tiện ích nào trong chiến đấu. [115] Tốc độ chiến đấu không bao giờ vượt quá Mach 1.7 và hiếm khi 1.2, vì hai lý do. Đầu tiên, nó đòi hỏi phải sử dụng rộng rãi phần sau, thường làm tăng mức tiêu thụ nhiên liệu khoảng ba hoặc thậm chí bốn, [116] và nhanh chóng giảm bán kính hoạt động. Thứ hai, tốc độ thậm chí ở trên khoảng 0,7 đến Mach 1 [tùy thuộc vào hoàn cảnh] để mở rộng bán kính quay trong chiến đấu điều khiển mà máy bay chiến đấu bị ném quá rộng để có được giải pháp theo dõi trên đối thủ. Tốc độ đã đạt đến giới hạn giá trị chiến đấu thực tế của nó, do đó thiết kế máy bay chiến đấu tối ưu đòi hỏi phải hiểu các hình phạt mà tìm kiếm vô tận cho tốc độ cao hơn là áp đặt, và đôi khi cố tình chọn không chấp nhận các hình phạt đó. [114]

Kỷ nguyên siêu âm [Chỉnh sửa][edit]

General Dynamics/Lockheed F-16 là nguyên mẫu của máy bay chiến đấu ánh sáng hiện đại, tiên tiến và đang phục vụ với nhiều quốc gia.

Là màn trình diễn siêu âm, với động cơ sau khi tăng cường và vũ khí tên lửa hiện đại, đã trở thành chuẩn mực của Mikoyan MiG-21, Mirage III của Pháp và Saab Draken Thụy Điển đã phục vụ. Thế hệ máy bay chiến đấu hạng nhẹ tiếp theo bao gồm F-16 Fighting Falcon của Mỹ, Thụy Điển Jas 39 Gripen, Ấn Độ Hal Tejas, Hàn Quốc FA-50, Mitsubishi F-2 của Nhật Bản, Thành Đô Trung Quốc J-10 và Pakistan CAC/PAC JF-17 Thunder. Hiệu quả thực tế và ngân sách cao của các máy bay chiến đấu ánh sáng hiện đại cho nhiều nhiệm vụ là lý do tại sao Không quân Hoa Kỳ áp dụng cả Eagle F-15 Eagle và F-16 trong chiến lược "HI/LO" của cả một máy bay chiến đấu hạng nặng nổi bật nhưng đắt tiền và chi phí thấp hơn mà còn là máy bay chiến đấu hạng nhẹ nổi bật. [117] Khoản đầu tư để duy trì một Không quân Máy bay chiến đấu hạng nhẹ hiện đại cạnh tranh là khoảng 90 triệu đến 130 triệu đô la [2013 đô la] mỗi máy bay trong thời gian phục vụ 20 năm, khoảng một nửa chi phí của máy bay chiến đấu hạng nặng [cần thiết] để hiểu thiết kế máy bay chiến đấu Sự đánh đổi và hiệu quả chiến đấu có tầm quan trọng chiến lược cấp quốc gia.citation needed] so understanding fighter aircraft design trade-offs and combat effectiveness is of national level strategic importance.

Vào những năm 1960 và 1970, một "Mafia chiến đấu" có trụ sở tại Hoa Kỳ, do Đại tá John Boyd, Everest "Rich" Riccione và nhà phân tích Pierre Sprey ủng hộ để sản xuất một máy bay chiến đấu hạng nhẹ thế hệ thứ 4. [118] Mặc dù thua lỗ chiến đấu nặng nề trong Chiến tranh Việt Nam, hầu hết các nhà lãnh đạo không quân cấp cao của Hoa Kỳ vẫn phản đối khái niệm máy bay chiến đấu ánh sáng. [119] Sau nhiều cuộc tranh luận, General Dynamics đã thiết kế F-16 thành công. Đối thủ cạnh tranh của nó, Northrop YF-17, đã dẫn đến MCDonnell Douglas F/A-18 Hornet Hornet Hornet thành công như một sự thay thế rẻ hơn cho F-14. F-16 đã cung cấp hiệu suất chiến đấu trên không tuyệt vời một phần do hệ thống điều khiển bay của nó, giúp cải thiện sự nhanh nhẹn. [59] Khi không bị gánh nặng bởi vũ khí không khí nặng, F-16 có phạm vi dài nhất của bất kỳ máy bay chiến đấu nào của Hoa Kỳ vào thời điểm đó. [120] F-16 và F/A-18 sau đó đã tăng thêm trọng lượng đáng kể để trở thành máy bay chiến đấu nhiều người có khả năng từ không khí mạnh mẽ, đẩy họ về phía phạm vi "hạng trung" của các máy bay chiến đấu hiện đại.

Đối tác của Liên Xô cho F-16 và F/A-18, Mikoyan MiG-29, ban đầu là một phần của Persoktivnyy Lyogkiy Frontovoy Istebitel [LPFI hoặc "Chương trình chiến thuật chiến thuật hạng nhẹ nâng cao"]. [121]

Northrop F-20 Tigerhark là một bản cập nhật của F-5 dành cho thị trường xuất khẩu, nhưng đã thua F-16 và không bao giờ tham gia sản xuất.

Vào những năm 1980, F-5G phát triển tư nhân, sau đó đổi tên thành Northrop F-20 Tigerhark, nhằm mục đích sửa chữa những điểm yếu trong F-5 cũ trong khi vẫn duy trì kích thước nhỏ và chi phí thấp. Trọng lượng trống của nó là 6.000 & nbsp; kg [13.150 & nbsp; lbs]. Động cơ General Electric F404 của nó sản xuất công suất cao hơn 60 % so với F-5, và nó có tốc độ leo và tăng tốc cao hơn, khả năng hiển thị buồng lái tốt hơn và radar hiện đại hơn. Chuck Yeager, Pilot thử nghiệm và người đàn ông đầu tiên phá vỡ hàng rào âm thanh, gọi F-20 là "máy bay chiến đấu tốt nhất" giữa những năm 1980. [122] Mặc dù hiệu quả và hiệu quả chi phí cao, [cần trích dẫn] F-20 đã mất doanh số bán hàng nước ngoài so với F-16 có khả năng tương tự, đắt hơn Hỗ trợ. [123] Những con hổ đã bị hủy bỏ khi không bán hàng.citation needed] the F-20 lost out for foreign sales against the similarly capable, more expensive F-16, which was being procured in large numbers by the US Air Force and was viewed as having greater support.[123] The Tigershark was cancelled having made no sales.

Hal Tejas là máy bay chiến đấu nhẹ nhất trong số các máy bay chiến đấu sản xuất hiện tại

Hal Tejas có trọng lượng trống 6.500 & NBSP; kg [14.300 & NBSP; LBS], và là máy bay chiến đấu nhẹ nhất trong số các máy bay chiến đấu ánh sáng sản xuất hiện tại. Được giới thiệu vào dịch vụ hạn chế vào năm 2014, với 16 máy bay thông số kỹ thuật IOC được chuyển đến tháng 1 năm 2020, đây là máy bay chiến đấu chi phí thấp nhất với khả năng sản xuất không đối không cạnh tranh vào thời điểm đó, với chi phí tương đương là 27 triệu đô la Mỹ. Thêm 16 máy bay chiến đấu, trong một đặc điểm kỹ thuật của FOC và 8 máy bay huấn luyện ngồi kép đã được đặt hàng, dự kiến ​​sẽ được giao vào giữa năm 2021. [124] [125] Thiết kế tương tự như Mirage III và Jas 39 Gripen, là một máy bay chiến đấu đơn lẻ Delta-Wing nhẹ với khả năng tấn công mặt đất.

Dassault Mirage 2000 của Pháp được thiết kế cho Không quân Pháp [Armée de L'Air] vào cuối những năm 1970, với tư cách là một máy bay chiến đấu đơn lẻ nhẹ. Dựa trên Mirage III, nó đã tham gia dịch vụ vào năm 1982, và từ đó đã phát triển thành một máy bay nhiều người. [126] Ở dạng multirole nặng hơn, nó có trọng lượng trống là 7.400 & nbsp; kg [16.300 & nbsp; lb]. Hơn 600 người đã được xây dựng [127] và nó đã phục vụ trong Không quân của chín quốc gia.

Đại bàng vàng KAI T-50 của Hàn Quốc, được thiết kế bởi Lockheed Martin với các ngành công nghiệp hàng không vũ trụ Hàn Quốc, dựa trên máy bay chiến đấu đa F-16. [128] [129] Biến thể mới nhất của nó, FA-50 Fighting Eagle, được chỉ định là một máy bay chiến đấu và huấn luyện viên hạng nhẹ. Nó sử dụng cùng một khung không khí như Trainer nâng cao T-50 được giới thiệu vào tháng 8 năm 2002. [130] Nó hiện được triển khai với Không quân Hàn Quốc và Không quân Philippines. [131] [132]

Máy bay chiến đấu ánh sáng Thunder CAC/PAC JF-17 được phát triển bởi Tập đoàn Máy bay Thành Đô Trung Quốc và Khu liên hợp hàng không Pakistan của Pakistan vào đầu những năm 2000. [133] Nó được giới thiệu vào Không quân Pakistan vào tháng 2 năm 2010. [134] Ít nhất 66 máy bay đã được chuyển đến Pakistan. Nhiều máy bay dự kiến ​​sẽ được giới thiệu vào năm 2018. Một biến thể hai chỗ ngồi đã được thử nghiệm chuyến bay vào cuối năm 2015.

Gripen đa năng là máy bay chiến đấu phản lực nhẹ thứ hai hiện đang được sản xuất và có tính năng khí động học Canard-Delta tiên tiến.

JAS 39 Gripen là một máy bay chiến đấu hạng nhẹ một động cơ được sản xuất bởi Công ty hàng không vũ trụ Thụy Điển Saab. Với trọng lượng trống là 6.800 & NBSP; kg [14.900 & NBSP; LBS], đây là máy bay chiến đấu nhẹ thứ hai trong sản xuất vào năm 2016. Mặc dù chủ yếu là một máy bay chiến đấu vượt trội, nhưng thiết kế cũng có khả năng từ không khí trên mặt đất hiệu quả. Delta Wing của nó cung cấp hành trình cao và siêu buồn [trên Mach 1 mà không cần sử dụng sau đốt], tải cánh thấp và khả năng cơ động cao. Nó có thể hoạt động từ các khu vực ngắn và các đoạn đường 800m [800 yard], có thể được phục vụ bằng cơ học được đào tạo vừa phải và có tỷ lệ sắp xếp cao. Trong số các máy bay chiến đấu thế hệ thứ 4 của phương Tây, Gripen có chi phí vận hành thấp nhất vào khoảng 4.700 đô la mỗi giờ [tính đến năm 2012]. Chi phí vận hành thấp nhất trong phạm vi máy bay chiến đấu hiện tại được thảo luận ở trên là Hal Tejas khoảng 4.000 đô la. [135] Trong số các máy bay chiến đấu phương Tây, máy bay chiến đấu chi phí vận hành tốt nhất tiếp theo là F-16 ở mức khoảng 7.000 đô la mỗi giờ bay. [136] [I] Gripen đã thoải mái với điều khiển chuyến bay Fly-by-Wire thoải mái để có tốc độ tối đa, tốc độ tối đa của Mach 2, Một khẩu pháo 27mm, tên lửa tìm kiếm nhiệt và tên lửa dẫn đường radar.

Xu hướng hiện tại [Chỉnh sửa][edit]

Vấn đề về nơi một máy bay chiến đấu được định vị tốt nhất về trọng lượng, chi phí và đường cong phức tạp vẫn là một vấn đề gây tranh cãi. [137] [138] [139] Công nghệ tàng hình [thiết kế khung và động cơ làm giảm mạnh mẽ radar và chữ ký nhiệt] tìm cách nhấn mạnh tính năng quan trọng nhất của hiệu quả của máy bay chiến đấu, yếu tố bất ngờ. [140] Cho đến nay, nó chỉ được giới thiệu trên các máy bay chiến đấu nặng hơn và đắt tiền hơn, cụ thể là F-22 Raptor và F-35 Lightning II. Các máy bay chiến đấu này không chỉ lén lút mà còn có thông tin hoặc lợi thế nhận thức chống lại radar Active Mảng được quét điện tử [AESA] và liên kết dữ liệu cho vị trí bên ngoài của vị trí kẻ thù và tình trạng lực lượng thân thiện. Sự kết hợp của họ gần vô hình, nhận thức chiến đấu vượt trội, kết nối mạng và đáng tin cậy ngoài tên lửa phạm vi thị giác [BVR], cho phép họ đi sâu vào vòng lặp của kẻ thù và tiêu diệt các chiến binh kẻ thù trước khi các phi công của họ thậm chí nhận thức được mối đe dọa.

Máy bay không người lái máy bay chiến đấu [xem phương tiện trên không chiến đấu không người lái] đang được phát triển, được điều khiển bởi cùng một nguyên tắc hiệu quả chiến thuật và chi phí của máy bay chiến đấu nhẹ. [141] [142] Những lợi thế nhận thức của họ bao gồm không chỉ chi phí và số lượng, mà thực tế là "phi công" dựa trên phần mềm của họ không cần nhiều năm huấn luyện, luôn luôn ở cùng hiệu quả cao nhất cho mỗi máy bay [không giống như trường hợp phi công của con người trong đó 5% phi công hàng đầu Trong lịch sử đã ghi được khoảng 50% tất cả các vụ giết người [143]], không bị hạn chế về mặt sinh lý và không có cuộc sống để mất nếu máy bay bị mất trong chiến đấu. [144] Mặc dù có sự kháng cự văn hóa để thay thế các phi công chiến đấu của con người [145] và cũng lo ngại về việc giao phó các quyết định về sự sống và cái chết cho phần mềm robot, nhưng những máy bay chiến đấu như vậy dự kiến ​​sẽ được thực hiện. [146] [147]

Bibliography[edit][edit]

  • Ahlgren, Jan; Linner, Anders; Wigert, Lars [2002], Gripen, máy bay chiến đấu thế hệ thứ tư, Không quân Thụy Điển và Hàng không vũ trụ Saab, ISBN & NBSP; 91-972803-8-0
  • Burton, James [1993], Cuộc chiến tranh Lầu Năm Góc: Các nhà cải cách thách thức người bảo vệ cũ, Nhà xuất bản Viện Hải quân, ISBN & NBSP; 978-1-61251-369-0
  • Coram, Robert [2002], Boyd: Phi công chiến đấu đã thay đổi nghệ thuật chiến tranh, Little, Brown và Company, ISBN & NBSP; 0-316-88146-5
  • Cross, Roy; Scarborough, Gerald; Hợp tác với Ebert, Hans [1976], Messerschmitt BF 109, Phiên bản B-E, Máy bay cổ điển, Lịch sử của họ và cách mô hình hóa chúng, Patrick Stevens, ISBN & NBSP; 0-85059-106-6
  • Cross, Roy [1962], cuốn sách bỏ túi máy bay chiến đấu, Jarrold và Sons, Ltd.
  • Màu xanh lá cây, William; Swanborough, Gordon [1994]. Cuốn sách hoàn chỉnh của máy bay chiến đấu. Godalming, Vương quốc Anh: Salamander Books. ISBN & NBSP; 1-85833-777-1.
  • Gunston, Bill; Spick, Mike [1983], Chiến đấu không khí hiện đại, Sách lưỡi liềm, ISBN & NBSP; 91-972803-8-0
  • Hammond, Grant T. [2001], Tâm trí chiến tranh: John Boyd và American Security, Smithsonian Viện Press, ISBN & NBSP; 1-56098-941-6
  • Huenecke, Klaus [1987], Thiết kế máy bay chiến đấu hiện đại, Airlife Publishing Limited, ISBN & NBSP; 0-517-412659Modern Combat Aircraft Design, Airlife Publishing Limited, ISBN 0-517-412659
  • Lee, John [1942], Sự kiện và ngụy biện của máy bay chiến đấu, William Morrow và Company
  • Ludwig, Paul [2003], Phát triển máy bay chiến đấu hộ tống tầm xa P-51 Mustang, Ấn phẩm cổ điển, ISBN & NBSP; 1-903223-14-8
  • Shaw, Robert [1985], chiến đấu chiến đấu: Chiến thuật và điều động, Nhà xuất bản Viện Hải quân, ISBN & NBSP; 0-87021-059-9
  • Ca sĩ, P.W. .
  • Spick, Mike [1995], được thiết kế để giết: Máy bay chiến đấu máy bay phản lực và sự phát triển và kinh nghiệm, Airlife, ISBN & NBSP; 1-85310-121-4
  • Spick, Mike [2000], Máy bay chiến đấu hiện đại của Brassey, Pegasus Publishing Limited, ISBN & NBSP; 1-57488-247-3
  • SPREY, Pierre [1982], "So sánh hiệu quả của các máy bay chiến đấu trên không: F-86 với F-18" [PDF], Hợp đồng DOD Hoa Kỳ MDA 903-81-C-0312[PDF], U.S. DoD Contract MDA 903-81-C-0312
  • Stevenson, James [1993], Nghịch lý Lầu Năm Góc: Sự phát triển của F-18 Hornet, Nhà xuất bản Viện Hải quân, ISBN & NBSP; 1-55750-775-9
  • Kích thích, George [1983], Giới thiệu về Radar trên không, Công ty máy bay Hughes
  • Stuart, William [1978], Nghiên cứu trường hợp của Northrop F-5 về Thiết kế máy bay, Northrop Corp.
  • Thomson, Steve [2008], Cuộc chiến chiến đấu trên không: Kỹ thuật và lịch sử chiến đấu không khí để mô phỏng chuyến bay, Nhà xuất bản Ian Allan, ISBN & NBSP; 978-1-903223-98-7
  • Wagner, Raymond [2000], Mustang Designer: Edgar Schmued và P-51, Washington, DC: Smithsonian Viện Press

Notes[edit][edit]

  1. ^Các lý do kỹ thuật cho sự gia tăng khiêm tốn trong phạm vi radar máy bay chiến đấu hạng nặng so với radar máy bay chiến đấu hạng nhẹ trong công nghệ tương tự được đề cập trong kích thích, 1983, trang 163 đến 190. Nói chung, các radar của radar không khí hiện đại lớn hơn đáng kể so với Khả năng xác định các mục tiêu là thù địch để thỏa mãn các quy tắc tham gia và bắn tên lửa BVR. The technical reasons for the modest increase in range of heavy fighter radar as compared to lightweight fighter radar in similar technology are covered in Stimson, 1983, pp. 163 to 190. In general, the radar ranges of modern airborne radars are significantly greater than the ability to identify targets as hostile in order to satisfy the rules of engagement and fire a BVR missile.
  2. ^"Trong mọi cuộc chiến, đó là một vài phi công tuyệt vời chiến thắng trong trận chiến trên không. Một số ít các phi công như vậy đã thống trị mọi chiến trường không đối không kể từ Thế chiến I: khoảng 10 phần trăm của tất cả các phi công [The Hawks Hồi] 60 phần trăm đến 80 phần trăm của các cuộc đấu chó giết chết; 90 phần trăm phi công khác [Dodes Doves,] là thức ăn gia súc cho những con diều hâu của phía đối lập. Sự khác biệt về hiệu suất kỹ thuật giữa các máy bay chiến đấu đối lập so sánh. " Pierre Sprey, "Đánh giá vũ khí: Sắp xếp những điều tốt từ BAD", Labyrinth của Lầu Năm Góc: 10 bài tiểu luận ngắn để giúp bạn vượt qua nó, 2011, Trung tâm Quốc phòng, //pogoarchives.org/labyrinth/09-Sprey-w- bao gồm.pdf "In every war, it's the few superb pilots that win the air battle. A tiny handful of such pilots have dominated every air-to-air battleground since World War I: roughly 10 percent of all pilots [the “hawks”] score 60 percent to 80 percent of the dogfight kills; the other 90 percent of pilots [“doves”] are the fodder for the hawks of the opposing side. Technical performance differences between opposing fighter planes pale in comparison." Pierre Sprey, "Evaluating Weapons: Sorting the Good from the Bad", The Pentagon Labyrinth: 10 Short Essays to Help You Through It, 2011, Center for Defense, //pogoarchives.org/labyrinth/09-sprey-w-covers.pdf
  3. ^Động cơ đẩy lên trọng lượng động cơ của động cơ phản lực đã được cải thiện nhiều theo thời gian. General Electric J47 của những năm 1950 nặng 2.554 lbs và có lực đẩy lên trọng lượng 2,34. Turbojet General Electric J79 của thập niên 1960 nặng 3,850 lbs và có tỷ lệ lực đẩy theo trọng lượng là 4,63. Turbofan General Electric F414-400 hiện đại nặng 2,445 lbs nhưng mang lại lực đẩy lên trọng lượng 9.0. Những cải tiến lớn này cho phép tải trọng vũ khí và vũ khí nặng hơn đáng kể trên các máy bay chiến đấu ánh sáng gần đây. The engine thrust to engine weight of jet engines has much improved over time. The General Electric J47 of 1950s weighed 2,554 lbs and had thrust to weight of 2.34. The General Electric J79 turbojet of the 1960s weighed 3,850 lbs and had thrust to weight ratio of 4.63. The modern General Electric F414-400 turbofan weighs 2,445 lbs but delivers thrust to weight of 9.0. These huge improvements allow for considerably heavier avionics and weapons loads on more recent light fighters.
  4. ^ Báo cáo của Lực lượng Vệ binh Quốc gia Hoa Kỳ qua //www.globalsecurity.org/military/systems/aircraft/f-16-life.htm mà họ cần 247 giờ mỗi năm để thành thạo tối thiểu các phi công F-16C của mình, với Thời gian sắp xếp trung bình là 1,2 giờ. Sprey p. 64 báo cáo 30 loại mỗi tháng hoặc gần 400 giờ mỗi năm cho trình độ chiến đấu cao. Manes báo cáo 231 đến 321 giờ bay mỗi năm thời gian bay được ghi lại cho các đơn vị Vệ binh Quốc gia của USAF và Không quân. The US Air National Guard reports via //www.globalsecurity.org/military/systems/aircraft/f-16-life.htm that it needs 247 hours per year for minimum necessary proficiency of its F-16C pilots, with an average sortie duration of 1.2 hours. Sprey p. 64 reports 30 sorties per month or nearly 400 hours per year for high combat proficiency. Manes reports 231 to 321 flight hours per year of logged flight time for various USAF and Air National Guard units.
  5. ^ Các phạm vi của P-51 và Zero so với các máy bay chiến đấu hạng nặng tầm xa tốt hơn, với vũ khí được tải, như sau: 1. P-38: 1300 dặm. 2. Tôi 410: 1400 dặm. 3. P-51: 1650 dặm. 4. A6M Zero: 2010 dặm. The ranges of the P-51 and Zero vs. the better long range heavy fighters, with weapons loaded, is as follows: 1. P-38: 1300 miles. 2. Me 410: 1400 miles. 3. P-51: 1650 miles. 4. A6M Zero: 2010 miles.
  6. ^Huấn luyện viên là một chiếc hai chỗ với cánh lớn hơn. Đó là máy bay đầu tiên của đội hiển thị Mũi tên Đỏ. The trainer was a two-seater with larger wing. It was the first aircraft of the Red Arrows display team.
  7. ^Nó chỉ có khoảng một nửa trọng lượng của các máy bay chiến đấu ánh sáng thành công khác như F-5. It is only about half of the weight of other successful light jet fighters such as the F-5.
  8. ^Tổng cộng có 170 F-8 đã bị mất trong Chiến tranh Việt Nam, cách lửa đất khoảng một nửa và một nửa từ các vụ tai nạn. Tham khảo: Hobson, Chris. Mất không khí Việt Nam, USAF, USN, USMC, tổn thất máy bay cố định ở Đông Nam Á 1961 Phản1973, trang 269 Phản271. Báo chí đặc biệt, 2001. ISBN & NBSP; 1-85780-115-6, Crusader in Action A total of 170 F-8s were lost in the Vietnam War, about half from ground fire and half from accidents. Ref: Hobson, Chris. Vietnam Air Losses, USAF, USN, USMC, Fixed-Wing Aircraft Losses In Southeast Asia 1961–1973, pp. 269–271. Specialty Press, 2001. ISBN 1-85780-115-6, Crusader In Action
  9. ^Tài liệu tham khảo của Jane này chỉ xem xét mỗi giờ chi phí nhiên liệu, bảo trì cấp sân bay và nhân sự. Nó không xem xét chi phí phát triển ban đầu, mỗi đơn vị chi phí mua và các chương trình nâng cấp chính. Khi tất cả các chi phí được xem xét và khấu hao, tổng số chi phí mỗi giờ bay sẽ xấp xỉ gấp ba. Ví dụ, tổng chi phí F-16C được USAF báo cáo 22.500 đô la mỗi giờ vào năm 2013, thay vì 7000 đô la mỗi giờ được Jane báo cáo trong nghiên cứu của họ. Xem //nation.time.com/2013/04/02/costly-flight-hours/ để biết chi phí vận hành hàng giờ được tải đầy đủ của máy bay USAF theo báo cáo của USAF. This Jane's reference is only considering per hour cost of fuel, airfield level maintenance, and personnel. It is not considering original development costs, per unit purchase costs, and major upgrade programs. When all costs are considered and amortized, the total per flight hour costs will approximately triple. For example, total F-16C cost is reported $22,500 per hour by the USAF as of 2013, instead of the $7000 per hour reported by Jane's in their study. See //nation.time.com/2013/04/02/costly-flight-hours/ for fully loaded hourly operating cost of USAF aircraft as reported by the USAF.

References[edit][edit]

  1. ^William Stuart, Nghiên cứu trường hợp của Northrop F-5 về Thiết kế máy bay, 1978. Trang 7: "Điều này đã trở thành triết lý Northrop trong sự phát triển của máy bay chiến đấu và huấn luyện viên hạng nhẹ T-38 và F-5." William Stuart, Northrop F-5 Case Study in Aircraft Design, 1978. Page 7: "This became the Northrop philosophy in the development of the T-38 and F-5 lightweight fighter and trainer aircraft."
  2. ^T. West Hubbard, The Fighter Mafia: Việt Nam, máy bay chiến đấu và tương lai của Không quân, 2014. Vị trí Kindle 1116: "Các thử nghiệm chuyến bay sớm đã chứng minh cực kỳ thành công khi cả hai máy bay chiến đấu hạng nhẹ F-16 và F-18] dễ dàng OutManeu đã bảo vệ F-4, chính xác như các migs đã làm ở Việt Nam. " T. West Hubbard, The Fighter Mafia: Vietnam, the Fighter Jet, and the Future of the Air Force, 2014. Kindle location 1116: "The early flight tests proved extremely successful as both [the F-16 and F-18] light fighters easily outmaneuvered the F-4, exactly as the MiGs had done in Vietnam."
  3. ^Stuart, 1978, tr. 7. Stuart, 1978, p. 7.
  4. ^James Stevenson, Nghịch lý Lầu Năm Góc, Nhà xuất bản Viện Hải quân, 1993. Trang 62: "Máy bay chiến đấu như P-51, F8F Bearcat và F-16 là những ví dụ về máy bay chiến đấu nhẹ hơn những người đương thời của họ, ít tốn kém hơn và có Hiệu suất cao hơn. Bởi vì máy bay chiến đấu có trọng lượng thấp hơn có thể tăng hiệu suất, có thể tốn kém hơn và có thể tạo ra một lực lớn hơn, ba lợi ích này được thể hiện trong thuật ngữ máy bay chiến đấu hạng nhẹ. " James Stevenson, The Pentagon Paradox, Naval Institute Press, 1993. Page 62: "Fighter aircraft like the P-51, F8F Bearcat, and F-16 are examples of fighters that are lighter than their contemporaries, are less expensive, and have greater performance. Because fighter aircraft of lower weight can have increased performance, can cost less, and can create a larger force, these three benefits are embodied in the term lightweight fighter."
  5. ^Rogoway, Tyler [3 tháng 2 năm 2015]. "Làm thế nào để giành chiến thắng trong một cuộc đấu chó: Những câu chuyện từ một phi công đã bay F-16 và MIGS". Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016. Rogoway, Tyler [3 February 2015]. "How To Win In A Dogfight: Stories From A Pilot Who Flew F-16s And MiGs". Retrieved 27 June 2016.
  6. ^ AB "Các đội F-16 thống trị cuộc thi không khí của USAF". PR Newswire. 25 tháng 10 năm 1994. Lưu trữ từ bản gốc vào ngày 13 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016.a b "F-16 Teams Dominate USAF Air-to-Air Competition". PR Newswire. 25 October 1994. Archived from the original on 13 August 2016. Retrieved 27 June 2016.
  7. ^SPREY, trang 143 Từ145 và trang 47. Sprey, pp. 143–145 and pp. 47–49.
  8. ^Hammond, trang 97 Từ100. Hammond, pp. 97–100.
  9. ^Sprey, trang 63 Từ65. Sprey, pp. 63–65.
  10. ^Hammond, trang 98 Từ100 và trang 107. Hammond, pp. 98–100 and pp. 107–109.
  11. ^"Máy bay phản lực tấn công ánh sáng trong nước vào năm 2013". Koreatimes.co.Kr. Ngày 30 tháng 12 năm 2008 Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "Domestic Light Attack Jets Due in 2013". Koreatimes.co.kr. 30 December 2008. Retrieved 9 February 2015.
  12. ^ ABSTEVENSON, trang 33 Từ50.a b Stevenson, pp. 33–50.
  13. ^ absprey, trang 48 trận87.a b Sprey, pp. 48–87.
  14. ^ ABCDHAMMOND, p. 36.a b c d Hammond, p. 36.
  15. ^ abspick, 1995, trang 45 bóng46.a b Spick, 1995, pp. 45–46.
  16. ^ Abgunston và Spick, 1983, trang 186 Từ193.a b Gunston and Spick, 1983, pp. 186–193.
  17. ^ absprey, 1982, tr. 48.a b Sprey, 1982, p. 48.
  18. ^ Abgunston và Spick, 1983, tr. 188.a b Gunston and Spick, 1983, p. 188.
  19. ^Stevenson, 1993, tr. 33. Stevenson, 1993, p. 33.
  20. ^HUENECKE, p. 31 Huenecke, p. 31
  21. ^Lee, trang 30 trận35 Lee, pp. 30–35
  22. ^Gunston và Spick, 1983, tr. 187. Gunston and Spick, 1983, p. 187.
  23. ^James Stevenson, "Nghịch lý Lầu Năm Góc", Nhà xuất bản Viện Hải quân, 1993, tr. 33. James Stevenson, "The Pentagon Paradox", Naval Institute Press, 1993, p. 33.
  24. ^Sprey, 1982, trang 88 Từ89. Sprey, 1982, pp. 88–89.
  25. 4 Higby, LtCol Patrick [March 2005], Promise and Reality: Beyond Visual Range [BVR] Air-To-Air Combat [PDF], Air War College, Maxwell Air Force Base, p. 5
  26. ^Snyder, Harry, et al., Mua lại mục tiêu không khí từ không khí: Các yếu tố và phương tiện cải thiện 15. Snyder, Harry, et al., “Air-To-Air Target Acquisition: Factors and Means of Improvement”, Virginia Polytechnic University, July 1979, prepared for USAF School of Aerospace Medicine, p. 15 [p. 18 as read on Adobe], //oai.dtic.mil/oai/oai?verb=getRecord&metadataPrefix=html&identifier=ADA087848 Archived 2016-10-07 at the Wayback Machine
  27. ^Stevenson, trang 22 trận36. Stevenson, pp. 22–36.
  28. ^Schallhorn và cộng sự, "Tìm kiếm trực quan trong chiến đấu trên không", Phòng thí nghiệm nghiên cứu y học hàng không vũ trụ hải quân và Trường vũ khí chiến đấu hải quân [Topgun], tháng 10 năm 1991, tr. 6, //oai.dtic.mil/oai/oai?verb=getRecord&metadataprefix=html&identifier=ADA241347 Schallhorn et al., "Visual Search in Air Combat", Naval Aerospace Medical Research Laboratory and Naval Fighter Weapons School [TopGun], Oct. 1991, p. 6, //oai.dtic.mil/oai/oai?verb=getRecord&metadataPrefix=html&identifier=ADA241347 Archived 2016-10-07 at the Wayback Machine
  29. ^Sprey, 1982, tr. 60. Sprey, 1982, p. 60.
  30. ^Sprey, p. 93. Sprey, p. 93.
  31. ^Sprey p. 149. Sprey p. 149.
  32. ^Stevenson, tr. 130. Stevenson, p. 130.
  33. ^Stevenson, 1993, tr. 35. Stevenson, 1993, p. 35.
  34. 4 Higby, LtCol Patrick [30 March 2005], Promise and Reality: Beyond Visual Range [BVR] Air-To-Air Combat [PDF], Air War College, Maxwell Air Force Base, p. 11
  35. ^HUENECKE, p. 31. Huenecke, p. 31.
  36. ^Sprey, p. 17. Sprey, p. 17.
  37. ^ Absee //nation.time.com/2013/04/02/costly-flight-hours/ cho chi phí vận hành hàng giờ của máy bay USAF theo báo cáo của USAF.a b See //nation.time.com/2013/04/02/costly-flight-hours/ for hourly operating cost of USAF aircraft as reported by the USAF.
  38. ^Stevenson, trang 43 Từ47. Stevenson, pp. 43–47.
  39. ^Sprey, p. 49,52, trang 67 Từ75. Sprey, p. 49,52, pp. 67–75.
  40. ^ abspick, 1995, tr. 46.a b Spick, 1995, p. 46.
  41. ^Gunston và Spick, 1983, trang 190 Từ191. Gunston and Spick, 1983, pp. 190–191.
  42. ^Stevenson, tr. 28. Stevenson, p. 28.
  43. ^Burton, Vị trí Kindle 333 Từ370. Burton, Kindle locations 333–370.
  44. ^Spick, 1995, tr. 47 bóng48. Spick, 1995, p. 47–48.
  45. ^Burton, Vị trí Kindle 468 Từ481. Burton, Kindle locations 468–481.
  46. ^Sprey, trang 98 Từ107, tr. 109, 131, trang 147 Từ149. Sprey, pp. 98–107, p. 109, 131, pp. 147–149.
  47. ^Sprey, trang 150 Từ151. Sprey, pp. 150–151.
  48. ^Sprey, p. 156. Sprey, p. 156.
  49. ^Sprey, 1982, trang 48 Từ54. Sprey, 1982, pp. 48–54.
  50. ^Hammond, p. 36 Hammond, p. 36
  51. ^Stevenson, trang 33 Từ49. Stevenson, pp. 33–49.
  52. ^ Abhuenecke, trang. 26.a b Huenecke, p. 26.
  53. ^Stevenson, tr. 47. Stevenson, p. 47.
  54. ^Sprey, p. 52. Sprey, p. 52.
  55. ^Burton, Chương 1, Vị trí Kindle 471. Burton, Chapter 1, Kindle Location 471.
  56. ^Stevenson, 1993, trang 120 Từ121, 126 Từ128. Stevenson, 1993, pp. 120–121, 126–128.
  57. ^Spick, Mike, được thiết kế cho Kill Kill, 1995, tr. 32. Spick, Mike, “Designed for the Kill”, 1995, p. 32.
  58. ^Ahlgren, Linner, và Wigert, 2002, trang 22 Ném40, trang 94 Phản105. Ahlgren, Linner, and Wigert, 2002, pp. 22–40, pp. 94–105.
  59. ^ Abchillaker, Harry [Mùa xuân 2004], "Công nghệ và máy bay chiến đấu F-16 Fighting Falcon Jet", The Bridge, Học viện Kỹ thuật Quốc giaa b c Hillaker, Harry [Spring 2004], "Technology and the F-16 Fighting Falcon Jet Fighter", The Bridge, The National Academy of Engineering
  60. ^Spick, 2000, trang 30 trận41. Spick, 2000, pp. 30–41.
  61. ^Sprey, 1982, tr. 149. Sprey, 1982, p. 149.
  62. ^Lockheed Forth Worth Company [Thông cáo báo chí] //www.thefreel Library.com/F-16+Teams+OdeMinate+USAF+Air-to-air+ UCompetition-A015848749, truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2016. Lockheed Forth Worth Company [press release] //www.thefreelibrary.com/F-16+TEAMS+DOMINATE+USAF+AIR-TO-AIR+COMPETITION-a015848749, accessed June 27, 2016.
  63. ^Brian Manes, Thiếu tá, USAF, Luận án MS mở rộng cấu trúc lực lượng F-16 của USAF, Đại học chỉ huy và chỉ huy không quân, 2001, tr. 17, có thể tải xuống từ Brian Manes, Major, USAF, MS Thesis “Extending USAF F-16 Force Structure”, Air Command and Staff College, 2001, p. 17, downloadable from //www.globalsecurity.org/military/library/report/2001/01-079.pdf
  64. ^Sprey, 1982, tr. 23 trận25. Sprey, 1982, p. 23–25.
  65. ^Tập đoàn Rand, "Chiến đấu trên không, quá khứ, hiện tại và tương lai", 2009, có sẵn tại //www.defenseindustrydaily.com/files/2008_rand_pacific_view_air_combat_briefing.pdf The Rand Corporation, "Air Combat, Past, Present, and Future", 2009, available at //www.defenseindustrydaily.com/files/2008_RAND_Pacific_View_Air_Combat_Briefing.pdf
  66. ^Green và Swanborough [1994], tr.19: "Người Pháp và 'tuổi ba mươi thịnh hành cho các máy bay chiến đấu hạng nhẹ. Green and Swanborough [1994], p.19: "the French and 'thirties vogue for lightweight fighters.
  67. ^Green và Swanborough [1994], tr.439. Green and Swanborough [1994], p.439.
  68. ^Green và Swanborough [1994], tr.18, 19, 30, 71-2, 111-2. Green and Swanborough [1994], pp.18, 19, 30, 71-2, 111-2.
  69. ^Stevenson, 1993, trang 62 Vang72. Stevenson, 1993, pp. 62–72.
  70. ^Wagner, 1990, trang 2 trận23. Wagner, 1990, pp. 2–23.
  71. ^Sprey, 1982, trang 159 Từ160. Sprey, 1982, pp. 159–160.
  72. ^Galland, "Đầu tiên và cuối cùng", tr. 43 và p. 190. Galland, "The First and the Last", p. 43 and p. 190.
  73. ^Andersen, Clarence, "Để bay và chiến đấu: Hồi ức về một ace ba", tr. 112, iBooks và Simon & Schuester, 1990, ISBN & NBSP; 0-7434-7972-6. Andersen, Clarence, "To Fly and Fight: Memoirs of a Triple Ace", p. 112, iBooks and Simon & Schuester, 1990, ISBN 0-7434-7972-6.
  74. ^"Các máy bay chiến đấu tốt nhất của Thế chiến II". Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2016. "The Best Fighter Planes of World War II". Retrieved July 1, 2016.
  75. ^Cross và Scarborough 1976, trang 56 Từ66. Cross and Scarborough 1976, pp. 56–66.
  76. ^Cross, 1962, "Cuốn sách bỏ túi máy bay chiến đấu", tr. 93. Cross, 1962, "The Fighter Aircraft Pocket Book", p. 93.
  77. ^Mikesh, Robert. "Zero: Lịch sử chiến đấu và phát triển của máy bay chiến đấu huyền thoại Mitsubishi A6M của Nhật Bản". Công ty xuất bản MBI, 1994, tr. 15. Mikesh, Robert. "Zero: Combat and Development History of Japan's Legendary Mitsubishi A6M Zero Fighter". MBI Publishing Company, 1994, p. 15.
  78. ^Mikesh, 1994, trang 17 trận21. Mikesh, 1994, pp. 17–21.
  79. ^Mikesh, 1994, tr. 19. Mikesh, 1994, p. 19.
  80. ^ Abhawks, Chuck. "Các máy bay chiến đấu tốt nhất của Thế chiến II". Chuckhawks.com. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2016.a b Hawks, Chuck. "The Best Fighter Planes of World War II". chuckhawks.com. Retrieved June 30, 2016.
  81. ^Thompson với Smith 2008, tr. 231. Thompson with Smith 2008, p. 231.
  82. ^Mersky, Peter B. [Cmdr. USNR], Thời gian của Aces: Phi công hàng hải ở Solomons, 1942 Ném1944, Thủy quân lục chiến trong loạt kỷ niệm trong Thế chiến II, Phòng Lịch sử và Bảo tàng, Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, trang & NBSP; 7 , lấy ngày 18 tháng 1 năm 2007 Mersky, Peter B. [Cmdr. USNR], Time of the Aces: Marine Pilots in the Solomons, 1942–1944, Marines in World War II Commemorative Series, History and Museums Division, US Marines, pp. 7–10, retrieved 18 January 2007
  83. ^Trẻ, Edward M. [2014]. F6F Hellcat vs A6M Zero-Sen & NBSP ;: Nhà hát Thái Bình Dương 1943 Phản44. Oxford: Xuất bản Osprey. Trang & NBSP; 71 Từ73. ISBN & NBSP; 9781782008132. Young, Edward M. [2014]. F6F Hellcat Vs A6M Zero-sen : Pacific Theater 1943–44. Oxford: Osprey Publishing. pp. 71–73. ISBN 9781782008132.
  84. ^Norton, Bill. Các dự án máy bay thử nghiệm & nguyên mẫu của Hoa Kỳ: Máy bay chiến đấu 1939 Từ1945. North Branch, Minnesota: Special Press, 2008. ISBN & NBSP; 978-1-58007-109-3. Norton, Bill. U.S. Experimental & Prototype Aircraft Projects: Fighters 1939–1945. North Branch, Minnesota: Specialty Press, 2008. ISBN 978-1-58007-109-3.
  85. ^Paul Ludwig, Phát triển của máy bay chiến đấu hộ tống tầm xa P-51, trang. 34. Paul Ludwig, “Development of the P-51 Long-Range Escort Fighter”, p. 34.
  86. ^Ray Wagner, Nhà thiết kế Mustang Mustang, trang 139-146, tr. 196. Ray Wagner, “Mustang Designer”, pp. 139-146, p. 196.
  87. ^"Máy bay chiến đấu như P-51, F8F Bearcat và F-16 là những ví dụ về máy bay chiến đấu nhẹ hơn người đương thời của họ, ít tốn kém hơn và có hiệu suất cao hơn. Vì máy bay chiến đấu có trọng lượng thấp hơn có thể tăng hiệu suất, có thể chi phí Ít hơn và có thể tạo ra một lực lớn hơn, ba lợi ích này được thể hiện trong thuật ngữ máy bay chiến đấu hạng nhẹ. " James Stevenson, "Nghịch lý Lầu Năm Góc", Nhà xuất bản Viện Hải quân, 1993, tr. 62. "Fighter aircraft like the P-51, F8F Bearcat, and F-16 are examples of fighters that are lighter than their contemporaries, are less expensive, and have greater performance. Because fighter aircraft of lower weight can have increased performance, can cost less, and can create a larger force, these three benefits are embodied in the term lightweight fighter." James Stevenson, "The Pentagon Paradox", Naval Institute Press, 1993, p. 62.
  88. ^Stevenson, 1993, tr. 70 Cụ thể và trang 68 Từ72 nói chung. Stevenson, 1993, p. 70 specifically and pp. 68–72 in general.
  89. ^Stevenson, 1993, tr. 70. Stevenson, 1993, p. 70.
  90. ^Christopher, John. Cuộc đua cho các mặt phẳng X của Hitler [The Mill, Gloucestershire: Lịch sử Press, 2013], tr. 145. Christopher, John. The Race for Hitler's X-Planes [The Mill, Gloucestershire: History Press, 2013], p. 145.
  91. ^Sprey, trang 88 trận89 Sprey, pp. 88–89
  92. ^Hammond, p36 Hammond, p36
  93. ^Sprey, 1982, tr. 104. Sprey, 1982, p. 104.
  94. ^Winchester 2006, tr. 184. Winchester 2006, p. 184.
  95. ^"Suy nghĩ về GNAT" Chuyến bay 3 tháng 4 năm 1953 "Thoughts on the Gnat" Flight 3 April 1953
  96. ^Rakshak, Bharat. "Chiến đấu không quân Ấn Độ giết chết, Chiến tranh Ấn Độ Pakistan năm 1965." Lưu trữ 2006-11-05 tại Lịch sử Máy Wayback. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2010. Rakshak, Bharat. "Indian Air Force Combat Kills, Indo Pakistan War 1965." Archived 2006-11-05 at the Wayback Machine History. Retrieved 4 November 2010.
  97. ^ absprey, 1982, tr. 137.a b Sprey, 1982, p. 137.
  98. ^Chuck Yeager và Leo Janos, Yeager: Một cuốn tự truyện, tr. 311, Bantam Books, 1985, ISBN & NBSP; 9780553050936. Chuck Yeager and Leo Janos, Yeager: An Autobiography, p. 311, Bantam Books, 1985, ISBN 9780553050936.
  99. ^Chuyến bay "Máy bay quân sự của thế giới" ngày 20 tháng 6 năm 1958 P853 "Military Aircraft of the World " Flight 20 June 1958 p853
  100. ^Nmbr-1, lấy ngày 19 tháng 9 năm 2014. NMBR-1, retrieved Sept. 19, 2014.
  101. ^Ma -ma Angelucci 1980, tr. 272. Angelucci Matricardi 1980, p. 272.
  102. ^Wagner, p. 195. Chương 9 của cuốn sách này được dành cho F-5. Wagner, p. 195. Chapter 9 of this book is devoted to the F-5.
  103. ^Sprey, trang 143, 145 Sprey, pp. 143, 145
  104. ^Stevenson, James, "Nghịch lý Lầu Năm Góc", Nhà xuất bản Viện Hải quân, 1993, tr. 41. Stevenson, James, "The Pentagon Paradox", Naval Institute Press, 1993, p. 41.
  105. ^"Cuộc chiến Iran-Iraq đã chứng kiến ​​Hoa Kỳ F-5es và Liên Xô MiG-21 chiến đấu đến chết". 21 tháng 12 năm 2019. "The Iran-Iraq War Saw U.S. F-5Es and Soviet MiG-21s Battle to the Death". 21 December 2019.
  106. ^Ví dụ: xem bài viết "Lợi ích quốc gia" tại //news.yahoo.com/no-f-35-puture-hy-143000348.html để biết chi tiết về hiện đại hóa F-5. For example, see "The National Interest" article at //news.yahoo.com/no-f-35-future-why-143000348.html for details on F-5 modernization.
  107. ^Sprey, p. 147. Sprey, p. 147.
  108. ^ Absevens, James Hay [22 tháng 4 năm 1960], "Mirage", Chuyến bay: 558 Ném562a b Stevens, James Hay [22 April 1960], "Mirage", Flight: 558–562
  109. ^Sprey, trang 134 Từ135 và p. 143. Sprey, pp. 134–135 and p. 143.
  110. ^Dildy, Douglas C .; Calcaterra, Pablo [2017]. Sea Harrier FRS 1 vs Mirage III/Dagger: South Atlantic 1982. Oxford: Osprey Publishing. Trang & NBSP; 72 Từ74. ISBN & NBSP; 9781472818898. Dildy, Douglas C.; Calcaterra, Pablo [2017]. Sea Harrier FRS 1 Vs Mirage III/Dagger: South Atlantic 1982. Oxford: Osprey Publishing. pp. 72–74. ISBN 9781472818898.
  111. ^"MiG-21 chống lại Phantom", //survincity.com/2013/01/mig-21-against-the-phantom/ Lưu trữ 2014-11-29 tại máy Wayback "MiG-21 Against the Phantom", //survincity.com/2013/01/mig-21-against-the-phantom/ Archived 2014-11-29 at the Wayback Machine
  112. ^"Aces Việt Nam-Mig-17 và Mig-21 phi công". Acepilots.com. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2013. "Vietnamese Aces – MiG-17 and MiG-21 pilots". Acepilots.com. Retrieved 9 August 2013.
  113. ^Stevenson, 1993, tr. 89. Stevenson, 1993, p. 89.
  114. ^ Abhammond, 2001, tr. 78.a b Hammond, 2001, p. 78.
  115. ^Stuart, 1978, trang 65 Từ79. Stuart, 1978, pp. 65–79.
  116. ^Thông số kỹ thuật của quân đội/Turbofan Jet-Metine.net Military Turbojet/Turbofan Specifications jet-engine.net
  117. ^Hammond, 2001, tr. 100. Hammond, 2001, p. 100.
  118. ^Hammond, 2001. Chương 5 được dành cho F-15 và Chương 6 cho F-16. Hammond, 2001. Chapter 5 is devoted to the F-15, and chapter 6 to the F-16.
  119. ^Coram, trang 290 Từ292. Coram, pp. 290–292.
  120. ^Coram, 2002, trang 260 Từ261. Coram, 2002, pp. 260–261.
  121. ^Gordon P8-9-9 Gordon p8-9-9
  122. ^Yeager, Chuck và Leo Janos. Yeager, Bantam Books, 1985, trang 248 Từ249. Yeager, Chuck and Leo Janos. Yeager, Bantam Books, 1985, pp. 248–249.
  123. ^Hammond, 2001, tr. 99. Hammond, 2001, p. 99.
  124. ^Mathews, Neelam. "Hal đấu tranh với chi phí lao động và tranh chấp". Tin tức quốc tế hàng không. Truy cập 2020-01-31. Mathews, Neelam. "HAL Struggling with Labor Costs and Disputes". Aviation International News. Retrieved 2020-01-31.
  125. ^Cơ quan phát triển hàng không //www.tejas.gov.in/, Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2014. Aeronautical Development Agency //www.tejas.gov.in/, retrieved Sept. 20, 2014.
  126. ^"The Dassault Mirage 2000 & 4000". Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 14 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2012. "The Dassault Mirage 2000 & 4000". Archived from the original on May 14, 2011. Retrieved May 19, 2012.
  127. ^Goebel, Greg. "Dassault Mirage 2000 & 4000". AirVectors.net, ngày 1 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2015, tại Wayback Machine Goebel, Greg. "The Dassault Mirage 2000 & 4000". Airvectors.net, 1 January 2015. Archived April 28, 2015, at the Wayback Machine
  128. ^"Máy bay phản lực tấn công ánh sáng trong nước vào năm 2013". Koreatimes.co.Kr. Ngày 30 tháng 12 năm 2008 Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "Domestic Light Attack Jets Due in 2013". Koreatimes.co.kr. 30 December 2008. Retrieved 9 February 2015.
  129. ^"Công nghiệp hàng không vũ trụ Hàn Quốc T-50 Golden Eagle". Aeroflight.co.uk. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "Korean Aerospace Industries T-50 Golden Eagle". Aeroflight.co.uk. Retrieved 9 February 2015.
  130. ^John Pike [3 tháng 7 năm 1997]. "Huấn luyện viên bản địa KTX-2". GlobalSecurity.org. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. John Pike [3 July 1997]. "KTX-2 Indigenous Trainer". Globalsecurity.org. Retrieved 9 February 2015.
  131. ^"Hàn Quốc đặt hàng Kai F/A-50 Nguyên mẫu chiến đấu tấn công hạng nhẹ". Chuyến bay toàn cầu. Ngày 7 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "South Korea orders KAI F/A-50 light attack fighter prototypes". Flight Global. 7 January 2009. Retrieved 9 February 2015.
  132. ^"Không quân triển khai 20 máy bay tấn công hạng nhẹ TA-50 vào năm tới". Tin tức Yonhap. Ngày 2 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "Air Force to deploy 20 TA-50 light attack aircraft by next year". Yonhap News. 2 June 2011. Retrieved 9 February 2015.
  133. ^Sobie, Brendan [29 tháng 7 năm 2003]. "Thành Đô đặt lại các thử nghiệm bay siêu 7". Flightglobal. Sobie, Brendan [29 July 2003]. "Chengdu puts back Super-7 flight tests". Flightglobal.
  134. ^"Báo chí liên kết của Pakistan-Phi đội đầu tiên của JF-17 Thunder được giới thiệu trong PAF". Ứng dụng.com.pk. Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2015. "Associated Press Of Pakistan – First Squadron of JF-17 Thunder inducted in PAF". App.com.pk. Archived from the original on 22 December 2015. Retrieved 9 February 2015.
  135. ^"Mỗi giờ chi phí vận hành & nbsp;» Máy bay chiến đấu của Không quân Ấn Độ ". 17 tháng 5 năm 2021. "Per Hour Operating Cost » Indian Air Force's fighter jets". 17 May 2021.
  136. ^Saurabh Joshi [4 tháng 7 năm 2012]. "Chi phí hoạt động thấp nhất của tất cả các máy bay chiến đấu phương Tây: Jane's". StratPost.com. StratPost. Truy cập ngày 22 tháng 9 năm 2014. Saurabh Joshi [4 July 2012]. "Gripen operational cost lowest of all western fighters: Jane's". stratpost.com. StratPost. Retrieved 22 September 2014.
  137. ^Rogoway, Tyler [29 tháng 6 năm 2015]. "F-35 không thể đánh bại máy bay mà nó thay thế trong một cuộc đấu chó: báo cáo". Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016. Rogoway, Tyler [29 June 2015]. "The F-35 Can't Beat The Plane It's Replacing In A Dogfight: Report". Retrieved 7 July 2016.
  138. ^Cohen, Zachary [16 tháng 7 năm 2015]. "F-35: Nó có đáng giá không?". CNN. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016. Cohen, Zachary [16 July 2015]. "The F-35: Is it worth the cost?". CNN. Retrieved 7 July 2016.
  139. ^"Hiệu quả tối thiểu, cực kỳ tốn kém". Tin tức Hoa Kỳ. 18 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ từ bản gốc vào ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2016. "Minimally Effective, Extremely Expensive". US News. 18 August 2015. Archived from the original on 16 August 2016. Retrieved 7 July 2016.
  140. ^Spick, 2000, tr. 116. Spick, 2000, p. 116.
  141. ^"Máy bay không người lái mới của Hải quân sẽ có thể chiến đấu với các máy bay khác | Bằng chiến tranh thật nhàm chán | Chiến tranh thật nhàm chán | Trung bình". 30 tháng 12 năm 2013. "The Navy's New Drone Will Be Able to Fight Other Planes | by War Is Boring | War Is Boring | Medium". 30 December 2013.
  142. ^Majumdar, Dave [2 tháng 7 năm 2013]. "Đây có phải là máy bay chiến đấu hạng nhẹ của tương lai không?". Được lưu trữ từ bản gốc vào ngày 19 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2022. Majumdar, Dave [2 July 2013]. "Is this the lightweight fighter of the future?". Archived from the original on 19 April 2014. Retrieved 21 February 2022.
  143. ^Sprey, 1982, tr. 42. Sprey, 1982, p. 42.
  144. ^Ca sĩ, 2009, Vị trí Kindle 1287 Từ1330. Singer, 2009, Kindle locations 1287–1330.
  145. ^Ca sĩ, 2009, Vị trí Kindle 4912 Từ4932. Singer, 2009, Kindle locations 4912–4932.
  146. ^"Chúng ta có thể tin tưởng robot không?" và "Chúng ta có muốn các chiến binh robot quyết định ai sống hay chết không?", Viện kỹ sư điện và điện tử, IEEE Spectrum, tháng 5 năm 2016. "Can We Trust Robots?" and "Do We Want Robot Warriors to Decide Who Lives or Dies?", Institute of Electrical and Electronics Engineers, IEEE Spectrum, May, 2016.
  147. ^Ca sĩ, 2009, Vị trí Kindle 7922 Từ7929. Singer, 2009, Kindle locations 7922–7929.

Một F bao nhiêu

F-16 có giá từ 12,7 đến 80 triệu đô la, tùy thuộc vào biến thể và quốc gia mua máy bay chiến đấu. Mặc dù đó là một khoản tiền không nhỏ, nhưng F-16 thực sự phải chăng hơn khi so sánh với các máy bay chiến đấu hiện đại khác.$12.7 to $80 million, depending on the variant and the country purchasing the fighter jet. While that's no small sum, the F-16 is actually more affordable when compared to other modern fighter jets.

Máy bay riêng tư rẻ nhất là gì?

Người sáng lập và Giám đốc điều hành của Verijet, Richard Kane, nói với người trong cuộc, công ty của ông đã chọn The Vision Jet vì sự an toàn và hiệu quả cao của máy bay kinh doanh động cơ. Với giá niêm yết 3- 3,5 triệu đô la, Vision Jet là máy bay riêng rẻ nhất trên thị trường; Nhưng nó không tiết kiệm được sự thoải mái và hiệu suất.Vision Jet because of the single-engine business plane's safety and high efficiency. With a list price of $3-$3.5 million, the Vision Jet is the cheapest private jet on the market; but it doesn't skimp on comfort and performance.

Một dân thường có thể mua một f

Câu trả lời là một điều đáng ngạc nhiên 'Có!'.Ngay khi một chiếc máy bay được phi quân sự hóa, nó có thể được mua bởi các thành viên của công chúng.

Bạn có thể mua một T

Hàng không Thornton hiện đang cung cấp một dự án T-38A Talon Northrop, sẵn sàng bán hoặc phục hồi các thông số kỹ thuật của khách hàng.Máy bay siêu âm động cơ đôi này là chiếc T-38 có sẵn cuối cùng trong kho của chúng tôi và hiện đang trong tình trạng quân sự với bên ngoài bị tước [kim loại trần].

Chủ Đề