Trầu têm cánh phượng mua ở đâu đà nẵng

Từ xưa, trầu cau đã là một thứ khởi đầu các lễ nghĩa của dân tộc Việt Nam. Trầu cau vừa biểu hiện phong cách, vừa thể hiện tình cảm dân tộc độc đáo. Tục ăn trầu trở thành một nếp sống đẹp, từ việc tế tự, tang lễ, cưới xin, việc vui mừng, việc gì nhân dân ta cũng lấy miếng trầu làm trọng. Miếng trầu làm người với người gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Và với các nam nữ thanh niên xưa thì nó là cội nguồn để bắt đầu tình yêu, bắt đầu câu hát, để vào với hội làng hội nước.
 

Người ta ăn trầu có nhiều cách, thường thì quả cau tươi bổ ra làm 5, lá trầu quệt ít vôi, cắt một miếng vỏ cây, cuộn tổ sâu lại mà nhai gọi là ăn trầu. Trong các dịp lễ hội, vào cửa quan, đám ăn hỏi, người ta thường têm trầu cánh phượng để tỏ lòng trịnh trọng và biểu hiện tài khéo léo, cái nét văn hoá trong tâm hồn người. Trầu têm cánh phượng cùng với huyền thoại trầu cau mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, nó vừa là tình yêu, vừa là nghệ thuật, là tài năng, là tính cách, là con người cá nhân hoàn thiện, hoàn mỹ. Trong đời sống dân gian, trầu têm cánh phượng đã trở thành một biểu tượng của quyền lực vua chúa: "con rồng, cháu phượng", "cha rồng, mẹ phượng". Sự giáo dục của ông cha ta bằng biểu tượng trầu têm cánh phượng có ý nghĩa sâu sắc. Đó là ước mơ, là tư tưởng nâng tri thức bình dân thành quyền lực, thành sự trường tồn trong vũ trụ.

Hơn thế, trầu cau còn là biểu tượng cho sự tôn kính, dùng phổ biến trong các lễ tế thần, tế gia tiên, lễ tang, lễ cưới, lễ thọ... Ngày tết, ngày hội phải có đĩa trầu để chia vui.

Miếng trầu không đắt đỏ gì, "ba đồng một mớ trầu cay"... nhưng "miếng trầu nên dâu nhà người". Ngày xưa, khi đi xem mặt các cô dâu tương lai, nhà trai đợi cô gái ra têm trầu, rót nước. Vừa để xem mặt, vừa để quan sát cử chỉ rót nước têm trầu mà phán đoán tính nết cô gái. Nếu cô gái giơ cao ấm nước, ấm nước chảy tồ tồ là người không lễ phép. Miếng trầu têm vụng về là người không khéo tay, không biết may vá. Lá trầu nhỏ, miếng cau lớn là người không biết tính toán làm ăn. Quệt nhiều vôi vào miếng trầu là người thiển cận, không biết lo xa...

Miếng trầu làm cho người ta gần gũi, cởi mở với nhau hơn. Với người lạ, miếng trầu để làm quen, kết bạn; với người quen, miếng trầu là tri ân, tri kỷ. Miếng trầu cũng làm người ta ấm lên trong những ngày đông lạnh giá, làm nguôi vơi bớt nỗi buồn khi nhà có tang, được chia sẻ cảm thông bởi họ hàng, bạn bè, làng xóm. Trầu cau, vôi, vỏ, tất cả nếu đứng riêng lẻ thì mỗi thứ chỉ là cây, là trái, là đá, là lá. Nhưng khi hợp lại, chúng hoà quyện, cộng sinh vào nhau, được ấp ủ trong môi miệng con người thì tất cả bỗng biến đổi, trở nên đằm thắm, rực rỡ hơn. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên. Các đôi trai gái yêu nhau thường mượn miếng trầu để thổ lộ lòng mình:

"Vào vườn hái quả cau xanh Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu Trầu này trầu tính, trầu tình,

Trầu loan, trầu phượng, trầu mình lấy ta

"

Hay:

"Trầu này thực của em têm Trầu phú, trầu quý, trầu nên vợ chồng Trầu này bọc khăn tơ hồng

Trầu này kết nghĩa loan phòng từ đây".

Miếng trầu mang nhiều ý nghĩa về giao tiếp, văn hoá, đạo đức, tâm lý. Nó còn thể hiện mối quan hệ ứng xử trong cuộc sống hàng ngày:

"Thương nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười".

Khi muốn chối từ tình cảm của người con trai, người con gái cũng mượn miếng trầu để khéo léo từ chối:

"Sáng nay em đi hái dâu Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn Hai anh đứng dậy hỏi han Miệng nói tay cởi túi trầu mời ăn. Thưa rằng: Bác mẹ em răn

Làm thân con gái chớ ăn trầu người..."

Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những "má hồng, răng đen" tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào. Người thôn nữ má hồng răng đen, một thuở đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai, như câu ca xưa:

"Mình về mình nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Nǎm quan mua lấy miệng cười

Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen".

Tục ăn trầu đã trở thành một nét đẹp văn hoá không phai nhòa trong tâm hồn người Việt nên tháng nǎm có qua, miếng trầu vẫn không thể thiếu trong các đám cưới, trong các môn đồ lễ của các bà, các cô dâng lên bàn thờ tổ tiên, cầu khấn thần phật với lòng thành kính. Ngày nay, để răng trắng nên nhiều người không ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố. Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu câu chuyện" của người Việt Nam vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Vì biếu trầu là tục lệ, là tình cảm nên dẫu có ăn hay không cũng chẳng ai chối từ.

Sưu tầm

Ăn trầu là một tập tục phổ biến ở vùng nhiệt đới châu Á và châu Đại Dương. Người ta nhai một hỗn hợp gồm lá trầu không và cau trong miệng cho tiết ra nước. Đây được coi là cách để làm thơm miệng và là nghi thức xã giao ở một số nước Đông Nam Á.

Ăn trầu được coi là cách để làm thơm miệng và là nghi thức xã giao ở một số nước Đông Nam Á. Ảnh: @thanhluong_2812

Nhai trầu từ xa xưa đến nay là thói quen của một bộ phận phụ nữ người Việt. Thông thường, đó là những người ở độ tuổi trung niên, những cụ già. Ngoài ra, ăn trầu cau còn thể hiện văn hóa giao tiếp ở nông thôn. Phụ nữ khi đến thăm nhà bạn đều được mời miếng trầu, sau đó họ mới hàn huyên, đàm đạo.

Ngày nay, những người ăn trầu dần ít đi, đa phần chỉ còn các cụ già ở nông thôn là còn giữ phong tục này. Ảnh: laodongbinhduong

Ngày nay, những người ăn trầu dần ít đi, đa phần chỉ còn các cụ già ở nông thôn là còn giữ phong tục này. Nếu về miền quê Việt Nam, bạn sẽ dễ dàng bắt gặp hình ảnh những cụ già móm mém vừa ngồi nhai trầu, vừa kể chuyện cho con cháu nghe một cách rất bình dị.

Sự tích thú vị về tục ăn trầu ở Việt Nam

Nhiều tài liệu cho rằng tục ăn trầu đã có từ thời vua Hùng [2879 - 258 trước Công Nguyên]. Theo như cuốn sách “Lĩnh nam chích quái” được biên soạn vào khoảng năm 1370 - 1400 của Trần Thế Pháp, nguồn gốc của tục nhai trầu câu bắt nguồn từ một câu chuyện như sau:

Ngày xưa, có một chàng trai tên gọi Quang Lang. Chàng có tướng mạo cao lớn nên được nhà vua ban cho họ Cao. Sau khi lấy vợ, Quang Lang có hai người con trai đặt tên là Tân và Lang. Hai anh em lớn lên theo học đạo sĩ họ Lưu. Lúc đó, nhà họ Lưu có người con gái đến tuổi lấy chồng nên đã gả cho người anh. Từ khi Tân có vợ, hai anh em nhà họ Cao không còn thân thiết như trước. Một hôm, người em vì quá buồn tủi nên đã bỏ đi. Giữa đường, người em gặp một con suối lớn không vượt qua được, chàng vừa đói, vừa mệt, vừa khát và cứ thế lả đi rồi chết. Sau khi mất, chàng hóa thành phiến đá vôi.

Minh họa về sự tích trầu cau. Ảnh: twitter

Người anh vì mãi không thấy em trở về nên đã lên đường đi tìm. Khi chàng đến bờ suối vì quá thương nhớ em nên đã chết và hóa thành cây cau mọc bên cạnh tảng đá vôi - hiện thân của người em. Vợ người anh đi tìm chồng cũng chết bên bờ suối đó và hóa thành cây trầu leo vấn vít trên cây cau. Lại tiếp tục đến cha mẹ đi tìm con gái, con rể, đến bờ suối nghe dân trong vùng kể chuyện, đau lòng nên lập đền thờ ba người.

Ảnh minh họa cảnh nhà vua bảo cận thần hái một quả trên cây cau, ngắt một lá trầu rồi lấy ít vôi từ tảng đá. Ảnh: blogsocnhi

Một hôm nọ, vua Hùng đi tuần dừng chân bên bờ suối và nghe được câu chuyện của gia đình nọ. Nhà vua đã bảo cận thần hái một quả trên cây cau, ngắt một lá trầu rồi lấy ít vôi từ tảng đá. Vua nhai ba thứ đó thì thấy người nóng bừng như có hơi men, môi đỏ tươi sắc mặt hồng hào. Lúc ấy, ông đã thốt lên rằng “Thật là linh dị! Đúng là họ rồi! Tình yêu thương của họ thật là nồng nàn, thắm đỏ”. Vua bèn sai người lấy ba thứ ấy về rồi dạy dân lấy lửa nung đá cho xốp thành vôi rồi lấy trái cây, lá dây leo, cuộn chung lại mà ăn. Vua cũng ban chiếu chỉ rằng những lễ cưới, tiệc lớn nhỏ đều phải lấy những món này làm vật phẩm để tượng trưng cho tình nghĩa gắn kết. Kể từ đó, phong tục nhai trầu của người Việt ra đời và tồn tại cho đến ngày nay.

Trầu cau xuất hiện trong rất nhiều dịp lễ quan trọng. Ảnh: @vietnamesegod

Xét trên góc độ khoa học, người ta đã chứng minh tục ăn trầu ở Việt Nam có từ thời văn hóa Đông Sơn [khoảng 800 năm TCN]. Trong một ngôi mộ thuộc thời kỳ Đông Sơn khai quật ở núi Nấp thuộc tỉnh Thanh Hóa, các nhà khảo cổ đã nghiên cứu vài bộ răng có niên đại 1.700 đến 3.000 năm. Qua kính hiển vị, họ phát hiện trên các bộ răng này có nhiều vết cọ xát và chứng tích phẩm màu đỏ. Khi đem đi phân tích hóa chất nhận thấy vết màu đỏ giống chất của cau nên có thể đoán rằng người cổ đại thời văn hóa Đông Sơn đã có tục ăn trầu.

Có thể người cổ đại thời văn hóa Đông Sơn đã có tục ăn trầu. Ảnh: @thanphuongdung

Cách ăn trầu cau của người Việt Nam

Cách ăn trầu của người Việt Nam

Nguyên liệu ăn trầu cau gồm lá trầu [loại lá có màu xanh sẫm bóng và có các gân nổi rõ ở mặt bên dưới], quả cau [có màu xanh ánh vàng, hình nón, kích thước xấp xỉ cỡ quả trứng gà, bên trong lốm đốm] và ít vôi [loại vôi tôi để lâu, nhão, màu trắng hoặc màu hồng, thường bán chung ở nơi mua trầu cau]. Lá trầu và cau sẽ được cất trong cơi trầu làm bằng đồng, vôi được đặt trong bình vôi. Đầu tiên, người ta sẽ bổ cau làm sáu miếng nhỏ. Cau được chọn phải là cau tươi hoặc cau khô. Nếu là cau khô cần ngâm nước trước khi ăn khoảng 20 phút cho mềm ra. Tiếp đến, người ta dùng chìa vôi để quét vôi lên lá trầu, gấp lại rồi lấy một miếng cau vào miệng nhai nát hỗn hợp 3 món này. 

Hỗn hợp gồm vôi, trầu và cau. Ảnh: @thichhuyenminh

Những người lớn tuổi hoặc những người răng yếu thường cho hỗn hợp trầu cau và vôi vào ống giã trầu. Đây là dụng cụ có hình dáng tương tự như chum uống rượu với kích thước to nhỏ khác nhau tùy vào nhu cầu người dùng. Tiếp đến, người ta dùng ống ngoáy trầu [một cái que bằng kim loại] để nghiền nhỏ lá trầu và quả cau ra rồi mới cho vào miệng nhai.

Ống giã trầu. Ảnh: @cuong.traveler

Trầu cau khi ăn sẽ có vị ngọt của hạt cau, vị cay của lá trầu, cảm giác chát nóng từ vôi,… Tất cả như tạo nên sự kích thích, làm cho thơm miệng, đỏ môi… Trong lúc nhai, để tẩy cổ trầu [dung dịch tạo thành do nước bọt hòa cùng hỗn hợp trầu-cau-vôi] và xác trầu người ta có thể dùng một nhúm nhỏ thuốc lào hoặc thuốc lá để chà răng [gọi là thuốc xỉa]. Tác động này lên răng gọi là xỉa thuốc. Sau khi nhai khoảng 30-60 phút hoặc lâu hơn tùy theo thói quen, người ăn sẽ nhả bỏ những phần bã trầu cùng nhúm thuốc xỉa. Tiếp đến, họ uống nước lọc để súc miệng.

Trầu cau sẽ ăn cùng thuốc xỉa [bên trái]. Ảnh: @kb.duy

Các cụ già nhai trầu để răng đen, môi đỏ, mặt hồng hào. Ảnh: @d0tha0

Trầu têm cánh phượng gắn với sự tích về tình yêu

Trong đời sống hằng ngày, người ta ăn trầu theo một cách đơn giản. Thế nhưng, vào những dịp quan trọng như đám cưới, đám hỏi, lễ hội, miếng trầu sẽ được xếp cầu kỳ hơn và cách têm đó gọi là têm trầu cánh phượng. Cách têm trầu này xuất phát từ vùng Kinh Bắc khi xưa [một địa danh cũ ở phía Bắc của Việt Nam, nay bao gồm toàn bộ ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và một phần nhỏ các tỉnh thành lân cận là Lạng Sơn, Hưng Yên và Hà Nội]. 

Trầu cau têm cánh phượng. Ảnh: @tuyetphan15

Nguồn gốc của trầu têm cánh phượng còn gắn liền với sự tích Tấm Cám. Rằng xưa kia có hai chị em là Tấm và Cám cùng cha khác mẹ, Tấm là con vợ cả, Cám là con vợ lẽ. Vì ghen ghét với nhan sắc của Tấm nên mẹ con Cám thường bắt Tấm làm các công việc nặng nhọc. Trong một lần đi dự dạ hội của nhà vua, với sự giúp đỡ của bụt mà Tấm trở nên xinh đẹp với váy áo lộng lẫy. Sau đó vua đem lòng yêu và cưới Tấm làm hoàng hậu. Do ghen ghét nên mẹ con Cám lập mưu giết Tấm rồi đưa Cám thế chỗ Tấm làm vợ vua. Dù bị hãm hại nhưng Tấm hóa thành cây thị mọc ra quả thị to thơm nức. Một bà lão bán nước thấy quả thị to bèn hái thị đem về nhà và sau đó phát hiện trong quả thị có nàng Tấm xinh đẹp nên từ đó nàng ở cùng bà. Một lần nhà vua đi ngang qua quán nước của bà lão, chợt thấy miếng trầu têm cánh phượng giống với của Tấm từng têm trước kia nên hỏi và muốn gặp người têm trầu. Sau đó vua nhận ra Tấm và rước nàng về cung, trừng trị mẹ con Cám gian ác.

Trầu têm cánh phượng thể hiện sự khéo léo của người têm [Ảnh: @tamnhinrong.org]

Khi têm trầu cánh phượng, người ta vẫn sử dụng những nguyên liệu là lá trầu, cau và vôi nhưng được sắp xếp với hình dáng cầu kỳ, kiểu cách. Điều này vừa thể hiện sự sang trọng của trầu cau trong các dịp lễ, lại vừa nói lên sự khéo léo của những người phụ nữ Kinh Bắc. Những miếng trầu câu này hấp dẫn ngay từ cái nhìn đầu tiên và để lại ấn tượng sâu sắc cho người được mời.

Ý nghĩa văn hóa của phong tục nhai trầu

Trầu cau thể hiện sự giao tiếp của người Việt

Nhai trầu không chỉ là thói quen mà đã trở thành tập tục mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Nó thể hiện cho nét giao tiếp đặc sắc của người Việt. Chính vì vậy mà dân gian Việt Nam có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”.

Ăn trầu là một nét văn hóa giao tiếp của người Việt. Ảnh: @pnmttt

Trong các lễ cưới, lễ hỏi của người Việt, bên cạnh mâm bánh trái, chè, rượu, nhà trai nhất định phải có mâm trầu cau khi mang sính lễ đến nhà gái. Cau được chọn phải là cau nguyên buồng, to đều, tròn, bóng. Lá trầu phải là loại to và xanh xếp lớp lên nhau. Trầu cau sẽ được đặt lên một cái tráp màu đỏ, phủ tấm khăn đỏ để thể hiện sự may mắn. Vị trưởng bối đại diện nhà trai trước khi thưa chuyện sẽ têm vài miếng trầu cau mời nhà gái như lời chào hỏi và xin được bàn chuyện cưới xin. Sau khi tan tiệc, nhà gái thường sẽ mời bà con, hàng xóm, bạn bè ăn trầu cau như một sự chung vui với gia chủ. 

Trầu cau là lễ vật không thể thiếu trong cưới hỏi. Ảnh: @honeybees.dichvudamcuoi

Không những vậy, dù trong bất kỳ ngày giỗ, ngày lễ, thậm chí là ngày Tết, đĩa trầu cau cũng là vật không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên. Trong đám hiếu, khay trầu được đặt ở các bàn đón khách như lời cảm ơn những người đến đưa đám.

Tục ăn trầu thể hiện quan niệm thẩm mỹ xưa

Bên cạnh đó, việc ăn trầu cũng từng liên quan đến quan niệm thẩm mỹ của phụ nữ Việt Nam thời xưa. Điều đó thể hiện qua tục nhuộm răng đen. Xưa kia, cô gái nào có hàm răng càng đen, càng bóng, nước da càng trắng sẽ càng được nhiều đấng nam nhi theo đuổi. Và để có được hàm răng đen đều họ thường nhai trầu và áp dụng nhuộm răng bằng nhựa cánh kiến và nước cốt chanh.

Phụ nữ Việt Nam xưa thường ăn trầu để nhuộm răng đen. Ảnh: dantri

Ngoài ý nghĩa trong giao tiếp, thẩm mỹ, trầu cau còn là những vật gửi gắm thông điệp và thể hiện tình yêu đôi lứa một cách tinh tế. Người Việt có nhiều câu ca dao, bài hát dân ca nói về tình yêu nam nữ qua hình tượng trầu cau:

"Yêu nhau cau sáu bổ ba/Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười"

 "Miếng trầu ăn kết làm đôi/Lá trầu là vợ, cau tươi là chồng. 

Trầu xanh, cau trắng, chay hồng/Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên". 

Tục ăn trầu liên quan đến tín ngưỡng

Tục nhai trầu cau không chỉ là văn hóa mà nó còn đi vào cả tín ngưỡng của người Việt. Điều đó thể hiện qua tập tục thờ ông Bình vôi. Chiếc bình vôi được xem như một người bạn tri kỷ của những ai ăn trầu bởi nếu thiếu vôi không thể làm nên cái màu thắm đỏ và sự say nồng thơm tho của miếng trầu cau. Chính vì vậy, những chiếc bình vôi luôn được thiết kế với những đường nét cầu kỳ điểm xuyết hoa văn đẹp mắt. 

Chiếc bình đựng vôi đẹp mắt. Ảnh: laodong.vn

Sau khi sử dụng lâu ngày, lớp vôi cũ bám vào thành bình phía trong, cứng dần và khiến lòng bình bị hẹp lại rồi không dùng nữa. Theo tục lệ, thay vì vứt bỏ bình vôi đó đi, người ta sẽ mang bình đến bỏ dưới gốc cây cổ thụ hoặc ở đình làng. Vào những dịp lễ, Tết, người dân đến nơi đó thắp hương cúng ông Bình vôi như một cách thể hiện lòng kính trọng.

Dù thời gian có trôi đi khiến cho tục nhai trầu ít nhiều bị thay đổi, thế nhưng trầu cau vẫn được gìn giữ một cách trân trọng. Điều đó đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt như một nét văn hóa tốt đẹp được lưu truyền cho thế hệ sau.

Video liên quan

Chủ Đề